Tipitaka.org | Việt dịch: HT. Thích Minh Châu |
1. Khemāsuttaṃ | I. Trưởng Lão Ni Khemà (S.iv,374) |
410. Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena khemā bhikkhunī kosalesu cārikaṃ caramānā antarā ca sāvatthiṃ antarā ca sāketaṃ toraṇavatthusmiṃ vāsaṃ upagatā hoti. Atha kho rājā pasenadi kosalo sāketā sāvatthiṃ gacchanto, antarā ca sāketaṃ antarā ca sāvatthiṃ toraṇavatthusmiṃ ekarattivāsaṃ upagacchi. Atha kho rājā pasenadi kosalo aññataraṃ purisaṃ āmantesi – ‘‘ehi tvaṃ, ambho purisa, toraṇavatthusmiṃ tathārūpaṃ samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā jāna yamahaṃ ajja payirupāseyya’’nti. | 1) Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, vườn ông Anàthapindika. 2) Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo-ni Khemà đang đi du hành giữa dân chúng Kosala và trú ở tại Toranavatthu, giữa Sàvatthi và Sàketà. 3) Vua Pasenadi nước Kosala cũng đang đi từ Sàketa đến Sàvatthi và trú một đêm ở Toranavatthu, giữa Sàketa và Sàvatthi. 4) Rồi vua Pasenadi nước Kosala gọi một người và nói: — Hãy đến, này Người kia. Ông có biết vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào ở tại Toranavatthu để hôm nay ta có thể đến yết kiến vị ấy? |
‘‘Evaṃ, devā’’ti kho so puriso rañño pasenadissa kosalassa paṭissutvā kevalakappaṃ toraṇavatthuṃ āhiṇḍanto [anvāhiṇḍanto (sī.)] nāddasa tathārūpaṃ samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā yaṃ rājā pasenadi kosalo payirupāseyya. Addasā kho so puriso khemaṃ bhikkhuniṃ toraṇavatthusmiṃ vāsaṃ upagataṃ. Disvāna yena rājā pasenadi kosalo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā rājānaṃ pasenadiṃ kosalaṃ etadavoca – | — Thưa vâng, tâu Ðại vương. Người ấy vâng đáp vua Pasenadi nước Kosala, đi tìm khắp Toranavatthu không thấy có vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào để vua Pasenadi nước Kosala có thể đến yết kiến. 5) Rồi người ấy thấy Tỷ-kheo-ni Khemà đến trú ở Toranavatthu; sau khi thấy, người ấy đi đến vua Pasenadi nước Kosala và thưa: |
‘‘Natthi kho, deva, toraṇavatthusmiṃ tathārūpo samaṇo vā brāhmaṇo vā yaṃ devo payirupāseyya. Atthi ca kho, deva, khemā nāma bhikkhunī, tassa bhagavato sāvikā arahato sammāsambuddhassa. Tassā kho pana ayyāya evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato – ‘paṇḍitā, viyattā medhāvinī bahussutā cittakathā kalyāṇapaṭibhānā’ti. Taṃ devo payirupāsatū’’ti. | — Tâu Ðại vương, tại Toranavatthu không có vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào để Ðại vương có thể yết kiến. Nhưng tâu Ðại vương, có Tỷ-kheo-ni Khemà là đệ tử của Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về bậc nữ Tôn giả ấy: “Nữ Tôn giả là bậc hiền trí, thông minh, có trí, nghe nhiều, lời nói đến tâm, ứng đáp lanh lợi”. |
Atha kho rājā pasenadi kosalo yena khemā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā khemaṃ bhikkhuniṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho rājā pasenadi kosalo khemaṃ bhikkhuniṃ etadavoca – ‘‘kiṃ nu kho, ayye, hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti? ‘‘Abyākataṃ kho etaṃ, mahārāja, bhagavatā – ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. ‘‘Kiṃ panayye, na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti? ‘‘Etampi kho, mahārāja, abyākataṃ bhagavatā – ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. ‘‘Kiṃ nu kho, ayye, hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti? ‘‘Abyākataṃ kho etaṃ, mahārāja, bhagavatā – ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. ‘‘Kiṃ panayye, neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti. ‘‘Etampi kho, mahārāja, abyākataṃ bhagavatā – ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. | Ðại vương có thể đến yết kiến vị ấy. 6) Rồi vua Pasenadi nước Kosala đi đến Tỷ-kheo-ni Khemà; sau khi đến, đảnh lễ vị ấy rồi ngồi xuống một bên. 7) Ngồi một bên, vua Pasenadi nước Kosala thưa với Tỷ-kheo-ni Khemà: — Thưa Nữ Tôn giả, Như Lai có tồn tại sau khi chết không? — Tâu Ðại vương, Thế Tôn không trả lời: “Như Lai có tồn tại sau khi chết”. 8) — Thế là, thưa Nữ Tôn giả, Như Lai không tồn tại sau khi chết? — Tâu Ðại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: “Như Lai không có tồn tại sau khi chết”. 9) — Thế là, thưa Nữ Tôn giả, Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết? — Tâu Ðại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: “Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết”. 10) — Thế là, thưa Nữ Tôn giả, Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết? — Tâu Ðại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. |
‘‘‘Kiṃ nu kho, ayye, hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti, iti puṭṭhā samānā – ‘abyākataṃ kho etaṃ, mahārāja, bhagavatā – hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vadesi. ‘Kiṃ panayye, na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti iti puṭṭhā samānā – ‘etampi kho, mahārāja, abyākataṃ bhagavatā – na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vadesi. ‘Kiṃ nu kho, ayye, hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti iti puṭṭhā samānā – ‘abyākataṃ kho etaṃ, mahārāja, bhagavatā – hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vadesi. ‘Kiṃ panayye, neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti iti puṭṭhā samānā – ‘etampi kho, mahārāja, abyākataṃ bhagavatā – neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vadesi. ‘Ko nu kho, ayye, hetu, ko paccayo yenetaṃ abyākataṃ bhagavatā’’’ti? | 11) — Ðược hỏi: “Thưa Nữ Tôn giả, Như Lai có tồn tại sau khi chết không?”, Nữ Tôn giả trả lời: “Tâu Ðại vương, Thế Tôn không trả lời: ‘Như Lai có tồn tại sau khi chết””. Ðược hỏi: “Thế là, thưa Nữ Tôn giả, có phải Như Lai không tồn tại sau khi chết không?”, Nữ Tôn giả trả lời: “Tâu Ðại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai không có tồn tại sau khi chết””. Ðược hỏi: “Thế là, thưa Nữ Tôn giả, có phải Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết?”, Nữ Tôn giả trả lời: “Tâu Ðại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết””. Ðược hỏi: “Thế là, thưa Nữ Tôn giả, có phải Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?”, Nữ Tôn giả trả lời: “Tâu Ðại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết””. Thưa Nữ Tôn giả, do nhân gì, do duyên gì, Thế Tôn lại không trả lời? |
‘‘Tena hi, mahārāja, taññevettha paṭipucchissāmi. Yathā te khameyya tathā naṃ byākareyyāsi. Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, atthi te koci gaṇako vā muddiko vā saṅkhāyako vā yo pahoti gaṅgāya vālukaṃ [vālikaṃ (sī. syā. kaṃ.)] gaṇetuṃ – ettakā [ettikā (sī.)] vālukā iti vā, ettakāni vālukasatāni iti vā, ettakāni vālukasahassāni iti vā, ettakāni vālukasatasahassāni iti vā’’ti? ‘‘No hetaṃ, ayye’’. ‘‘Atthi pana te koci gaṇako vā muddiko vā saṅkhāyako vā yo pahoti mahāsamudde udakaṃ gaṇetuṃ – ettakāni udakāḷhakāni iti vā, ettakāni udakāḷhakasatāni iti vā, ettakāni udakāḷhakasahassāni iti vā, ettakāni udakāḷhakasatasahassāni iti vā’’ti? ‘‘No hetaṃ, ayye’’. ‘‘Taṃ kissa hetu’’? ‘‘Mahāyye, samuddo gambhīro appameyyo duppariyogāho’’ti. ‘‘Evameva kho, mahārāja, yena rūpe tathāgataṃ paññāpayamāno paññāpeyya taṃ rūpaṃ tathāgatassa pahīnaṃ ucchinnamūlaṃ tālāvatthukataṃ anabhāvaṅkataṃ āyatiṃ anuppādadhammaṃ. Rūpasaṅkhāyavimutto kho, mahārāja, tathāgato gambhīro appameyyo duppariyogāho – seyyathāpi mahāsamuddo. ‘Hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upeti, ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upeti, ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upeti, ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upeti. | 12)– Vậy thưa Ðại vương, ở đây, tôi sẽ hỏi Ðại vương. Ðại vương kham nhẫn như thế nào, hãy trả lời như vậy. 13) Ðại vương nghĩ thế nào, thưa Ðại vương, Ðại vương có người kế toán nào, chưởng ấn nào (muddiko), toán số nào có thể đếm được cát sông Hằng có số hột cát như vậy, có số trăm hột cát như vậy, có số ngàn hột cát như vậy, có số trăm ngàn hột cát như vậy? — Thưa không, thưa Nữ Tôn giả. 14) — Ðại vương có người kế toán nào, có người chưởng ấn nào, có người toán số nào có thể đong lường được nước của biển lớn có số đấu nước như vậy, có số trăm đấu nước như vậy, có số ngàn đấu nước như vậy, có số trăm ngàn đấu nước như vậy? — Thưa không, thưa Nữ Tôn giả. — Vì sao? — Thưa Nữ Tôn giả, vì rằng biển lớn thâm sâu, vô lường, khó dò đến đáy. 15) — Cũng vậy, thưa Ðại vương, nếu có người muốn định nghĩa Như Lai ngang qua sắc thân (rupeena), nhưng sắc thân ấy, Như Lai đã đoạn tận, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai; được giải thoát khỏi sự ước lượng của sắc thân. Thưa Ðại vương, Như Lai là thâm sâu, vô lường, không thể đến tận đáy, như biển lớn. Nói rằng: “Như Lai có tồn tại sau khi chết”, không thể chấp nhận. Nói rằng: “Như Lai không có tồn tại sau khi chết”, cũng không thể chấp nhận. Nói rằng: “Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết”, cũng không thể chấp nhận. Nói rằng: “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”, cũng không thể chấp nhận. |
‘‘Yāya vedanāya tathāgataṃ paññāpayamāno paññāpeyya, sā vedanā tathāgatassa pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṃ anuppādadhammā. Vedanāsaṅkhāyavimutto, mahārāja, tathāgato gambhīro appameyyo duppariyogāho – seyyathāpi mahāsamuddo. ‘Hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upeti, ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upeti, ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upeti, ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upeti. | 16) Nếu có người muốn định nghĩa Như Lai ngang qua cảm thọ, nhưng cảm thọ ấy, Như Lai đã đoạn tận, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai; được giải thoát khỏi sự ước lượng của cảm thọ. Thưa Ðại vương, Như Lai là thâm sâu, vô lường, không thể đến tận đáy, như biển lớn. Nói rằng: “Như Lai có tồn tại sau khi chết”, không thể chấp nhận… Nói rằng: “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”, cũng không thể chấp nhận. |
‘‘Yāya saññā tathāgataṃ…pe… yehi saṅkhārehi tathāgataṃ paññāpayamāno paññāpeyya, te saṅkhārā tathāgatassa pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṃ anuppādadhammā. Saṅkhārasaṅkhāyavimutto kho, mahārāja, tathāgato gambhīro appameyyo duppariyogāho – seyyathāpi mahāsamuddo. ‘Hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upeti, ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upeti, ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upeti, ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upeti. | 17-19) Nếu có người muốn định nghĩa Như Lai qua các tưởng… qua các hành… |
‘‘Yena viññāṇe tathāgataṃ paññāpayamāno paññāpeyya taṃ viññāṇaṃ tathāgatassa pahīnaṃ ucchinnamūlaṃ tālāvatthukataṃ anabhāvaṅkataṃ āyatiṃ anuppādadhammaṃ. Viññāṇasaṅkhāyavimutto kho, mahārāja, tathāgato gambhīro appameyyo duppariyogāho – seyyathāpi mahāsamuddo. ‘Hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upeti, ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upeti, ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upeti, ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upetī’’ti. Atha kho rājā pasenadi kosalo khemāya bhikkhuniyā bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā khemaṃ bhikkhuniṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi. | qua các thức; nhưng thức ấy, Như Lai đã đoạn tận, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai; được giải thoát khỏi sự ước lượng của thức. Thưa Ðại vương, Như Lai là thâm sâu, vô lường, không thể đến tận đáy, như biển lớn. Nói rằng: “Như Lai có tồn tại sau khi chết”, không thể chấp nhận. Nói rằng: “Như Lai không có tồn tại sau khi chết”, cũng không thể chấp nhận. Nói rằng: “Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết”, cũng không thể chấp nhận. Nói rằng: “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”, cũng không thể chấp nhận. 20) Rồi vua Pasanadi nước Kosala hoan hỷ, tín thọ lời của Tỷ-kheo-ni Khemà, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Tỷ-kheo-ni Khemà, thân phía hữu hướng về Nữ Tôn giả rồi ra đi. |
Atha kho rājā pasenadi kosalo aparena samayena yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho rājā pasenadi kosalo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kiṃ nu kho, bhante, hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti? ‘‘Abyākataṃ kho etaṃ, mahārāja, mayā – ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. ‘‘Kiṃ pana, bhante, na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti? ‘‘Etampi kho, mahārāja, abyākataṃ mayā – ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. ‘‘Kiṃ nu kho, bhante, hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti? ‘‘Abyākataṃ kho etaṃ, mahārāja, mayā – ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. ‘‘Kiṃ pana, bhante, neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti? ‘‘Etampi kho, mahārāja, abyākataṃ mayā – ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. ‘‘Kiṃ nu kho, bhante, hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti iti puṭṭho samāno – ‘abyākataṃ kho etaṃ, mahārāja, mayā – hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vadesi…pe…. ‘‘‘Kiṃ pana, bhante, neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti iti puṭṭho samāno – ‘‘‘etampi kho, mahārāja, abyākataṃ mayā – neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vadesi. Ko nu kho, bhante, hetu, ko paccayo, yenetaṃ abyākataṃ bhagavatā’’ti? | 21) Rồi vua Pasenadi nước Kosala, sau một thời gian, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 22) Ngồi một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn: — Bạch Thế Tôn, Như Lai có tồn tại sau khi chết không? — Thưa Ðại vương, Ta không trả lời: “Như Lai có tồn tại sau khi chết”. 23) Thế là, thưa Thế Tôn, Như Lai không có tồn tại sau khi chết? — Thưa Ðại vương, Ta cũng không trả lời: “Như Lai không có tồn tại sau khi chết”. |
‘‘Tena hi, mahārāja, taññevettha paṭipucchissāmi. Yathā te khameyya tathā naṃ byākareyyāsi. Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, atthi te koci gaṇako vā muddiko vā saṅkhāyako vā yo pahoti gaṅgāya vālukaṃ gaṇetuṃ – ettakā vālukā iti vā…pe… ettakāni vālukasatasahassāni iti vā’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’. ‘‘Atthi pana te koci gaṇako vā muddiko vā saṅkhāyako vā yo pahoti mahāsamudde udakaṃ gaṇetuṃ – ettakāni udakāḷhakāni iti vā…pe… ettakāni udakāḷhakasatasahassāni iti vā’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’. ‘‘Taṃ kissa hetu’’? ‘‘Mahā, bhante, samuddo gambhīro appameyyo duppariyogāho. Evameva kho, mahārāja, yena rūpena tathāgataṃ paññāpayamāno paññāpeyya, taṃ rūpaṃ tathāgatassa pahīnaṃ ucchinnamūlaṃ tālāvatthukataṃ anabhāvaṅkataṃ āyatiṃ anuppādadhammaṃ. Rūpasaṅkhāyavimutto kho, mahārāja, tathāgato gambhīro appameyyo duppariyogāho – seyyathāpi mahāsamuddo. ‘Hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upeti…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upeti. Yāya vedanāya…pe… yāya saññāya…pe… yehi saṅkhārehi…pe…’’. | 24-25)… (Như trên)… |
‘‘Yena viññāṇena tathāgataṃ paññāpayamāno paññāpeyya, taṃ viññāṇaṃ tathāgatassa pahīnaṃ ucchinnamūlaṃ tālāvatthukataṃ anabhāvaṅkataṃ āyatiṃ anuppādadhammaṃ. Viññāṇasaṅkhāyavimutto kho, mahārāja, tathāgato gambhīro appameyyo duppariyogāho – seyyathāpi mahāsamuddo. ‘Hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upeti, ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upeti, ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upeti, ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi na upetī’’ti. | 26-34… (Như trên, từ số 11 đến số 19, với những thay đổi cần thiết)… |
‘‘Acchariyaṃ, bhante, abbhutaṃ, bhante! Yatra hi nāma satthu ceva [satthuno ceva (sī.)] sāvikāya ca atthena attho byañjanena byañjanaṃ saṃsandissati, samessati, na virodhayissati [vihāyissati (sī. syā. kaṃ.), vigāyissati (ka.)] yadidaṃ aggapadasmiṃ. Ekamidāhaṃ, bhante, samayaṃ khemaṃ bhikkhuniṃ upasaṅkamitvā etamatthaṃ apucchiṃ. Sāpi me ayyā etehi padehi etehi byañjanehi etamatthaṃ byākāsi, seyyathāpi bhagavā. Acchariyaṃ, bhante, abbhutaṃ, bhante! Yatra hi nāma satthu ceva sāvikāya ca atthena attho byañjanena byañjanaṃ saṃsandissati, samessati, na virodhayissati yadidaṃ aggapadasmiṃ. Handa dāni mayaṃ, bhante, gacchāma. Bahukiccā mayaṃ bahukaraṇīyā’’ti. ‘‘Yassa dāni tvaṃ, mahārāja, kālaṃ maññasī’’ti. Atha kho rājā pasenadi kosalo bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmīti. Paṭhamaṃ. | 35) — Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Vì rằng giữa Ðạo sư với nữ đệ tử, ý nghĩa với ý nghĩa, văn ngôn với văn ngôn có sự tương đồng, có sự tương hòa, không có sự mâu thuẫn, tức là tối thượng văn cú. 36) Một thời, bạch Thế Tôn, con đi đến Tỷ-kheo-ni Khemà và hỏi về ý nghĩa này. Nữ Tôn giả ấy đã trả lời cho con về ý nghĩa này với những câu này, với những lời này, giống như Thế Tôn. Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Vì rằng giữa Ðạo sư với nữ đệ tử, ý nghĩa với ý nghĩa, văn ngôn với văn ngôn có sự tương đồng, có sự tương hòa, không có sự mâu thuẫn, tức là tối thượng văn cú. Bạch Thế Tôn, nay con phải đi, con có nhiều công vụ, nhiều việc phải làm. — Thưa Ðại vương, nay Ðại vương hãy làm những gì Ðại vương nghĩ là hợp thời. 37) Rồi vua Pasenadi nước Kosala hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn nói, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi. |
2. Anurādhasuttaṃ | II. Anuràdha. (S.iv380) |
411. Ekaṃ samayaṃ bhagavā vesāliyaṃ viharati mahāvane kūṭāgārasālāyaṃ. Tena kho pana samayena āyasmā anurādho bhagavato avidūre araññakuṭikāyaṃ viharati. Atha kho sambahulā aññatitthiyā paribbājakā yenāyasmā anurādho tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā āyasmatā anurādhena saddhiṃ sammodiṃsu. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te aññatitthiyā paribbājakā āyasmantaṃ anurādhaṃ etadavocuṃ – ‘‘yo so, āvuso anurādha, tathāgato uttamapuriso paramapuriso paramapattipatto, taṃ tathāgato imesu catūsu ṭhānesu paññāpayamāno paññāpeti – ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā, ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā, ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā, ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā’’ti? ‘‘Yo so, āvuso, tathāgato uttamapuriso paramapuriso paramapattipatto, taṃ tathāgato aññatra imehi catūhi ṭhānehi paññāpayamāno paññāpeti – ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇāti vā, ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā, ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā, neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇāti vā’’ti. Evaṃ vutte, te aññatitthiyā paribbājakā āyasmantaṃ anurādhaṃ etadavocuṃ – ‘‘so cāyaṃ [yo cāyaṃ (sī.)] bhikkhu navo bhavissati acirapabbajito, thero vā pana bālo abyatto’’ti. Atha kho te aññatitthiyā paribbājakā āyasmantaṃ anurādhaṃ navavādena ca bālavādena ca apasādetvā uṭṭhāyāsanā pakkamiṃsu. | 1) Một thời Thế Tôn trú ở Vesàli, tại Ðại Lâm, ở Trùng Các giảng đường. 2) Lúc bấy giờ Tôn giả Anuràdha đang ở một ngôi chòi trong rừng không xa Thế Tôn bao nhiêu. 3) Rồi rất nhiều du sĩ ngoại đạo đi đến Tôn giả Anuràdha; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Anuràdha những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. 4) Ngồi một bên, các ngoại đạo du sĩ ấy thưa với Tôn giả Anuràdha: — Này Hiền giả Anuràdha, Như Lai là bậc Thượng Nhân, là bậc Tối thắng nhân, là bậc đã đạt được địa vị tối thượng. Bậc Như Lai ấy đã được trình bày dưới bốn trường hợp: “Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. — Thưa chư Hiền, Như Lai ấy là bậc Thượng nhân, bậc Tối thắng nhân, là bậc đã đạt được địa vị tối thượng. Bậc Như Lai ấy được trình bày ngoài bốn trường hợp sau đây: “Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. Khi được nghe nói vậy, các du sĩ ngoại đạo ấy nói với Tôn giả Anuràdha: — Tỷ-kheo này có lẽ là mới tu, xuất gia không bao lâu. Hay nếu là vị trưởng lão, thời vị này là ngu si, không có thông minh. 5) Các du sĩ ngoại đạo ấy, sau khi chê trách (apasàdetvà) Tôn giả Anuràdha là người mới tu và ngu si, liền từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. |
Atha kho āyasmato anurādhassa acirapakkantesu aññatitthiyesu paribbājakesu etadahosi – ‘‘sace kho maṃ te aññatitthiyā paribbājakā uttariṃ puccheyyuṃ, kathaṃ byākaramāno nu khvāhaṃ tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ vuttavādī ceva bhagavato assaṃ, na ca bhagavantaṃ abhūtena abbhācikkheyyaṃ, dhammassa cānudhammaṃ byākareyyaṃ, na ca koci sahadhammiko vādānuvādo gārayhaṃ ṭhānaṃ āgaccheyyā’’ti? Atha kho āyasmā anurādho yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā anurādho bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘idhāhaṃ, bhante, bhagavato avidūre araññakuṭikāyaṃ viharāmi. Atha kho, bhante, sambahulā aññatitthiyā paribbājakā yenāhaṃ tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā mayā saddhiṃ sammodiṃsu. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho, bhante, te aññatitthiyā paribbājakā maṃ etadavocuṃ – ‘‘yo so, āvuso anurādha, tathāgato uttamapuriso paramapuriso paramapattipatto, taṃ tathāgato imesu catūsu ṭhānesu paññāpayamāno paññāpeti – ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā’’ti? Evaṃ vuttāhaṃ, bhante, te aññatitthiye paribbājake etadavocaṃ – ‘‘yo so, āvuso, tathāgato uttamapuriso paramapuriso paramapattipatto, taṃ tathāgato aññatra imehi catūhi ṭhānehi paññāpayamāno paññāpeti – ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā’’ti. Evaṃ vutte, bhante, te aññatitthiyā paribbājakā maṃ etadavocuṃ – ‘‘so cāyaṃ bhikkhu navo bhavissati acirapabbajito thero vā pana bālo abyatto’’ti. Atha kho maṃ, bhante, te aññatitthiyā paribbājakā navavādena ca bālavādena ca apasādetvā uṭṭhāyāsanā pakkamiṃsu. Tassa mayhaṃ, bhante, acirapakkantesu tesu aññatitthiyesu paribbājakesu etadahosi – ‘‘sace kho maṃ te aññatitthiyā paribbājakā uttariṃ puccheyyuṃ, kathaṃ byākaramāno nu khvāhaṃ tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ vuttavādī ceva bhagavato assaṃ, na ca bhagavantaṃ abhūtena abbhācikkheyyaṃ, dhammassa cānudhammaṃ byākareyyaṃ, na ca koci sahadhammiko vādānuvādo gārayhaṃ ṭhānaṃ āgaccheyyā’’ti? | 6) Rồi Tôn giả Anuràdha, sau khi các du sĩ ngoại đạo ấy ra đi không bao lâu, liền suy nghĩ: “Nếu các du sĩ ngoại đạo ấy hỏi ta thêm câu hỏi nữa, ta phải trả lời như thế nào để câu ta trả lời cho các du sĩ ngoại đạo ấy là đúng với lời Thế Tôn, ta không có xuyên tạc Thế tôn với điều không thật. Ta trả lời đúng pháp, thuận pháp, và những ai nói lời tương ứng đúng pháp, không có cơ hội để chỉ trích”. 7) Rồi Tôn giả Anuràdha đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 8) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Anuràdha bạch Thế Tôn: — Ở đây, bạch Thế Tôn, con trú trong một ngôi chòi trong rừng, không xa Thế Tôn bao nhiêu. Rồi, bạch Thế Tôn, rất nhiều du sĩ ngoại đạo đi đến con, sau khi đến, nói lên với con những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn, các du sĩ ngoại đạo ấy nói với con: “Này Hiền giả Anuràdha, Như Lai là bậc Thượng nhân, là bậc Tối thắng nhân, là bậc đã đạt được địa vị tối thượng. Bậc Như Lai ấy đã được trình bày dưới bốn trường hợp: ‘Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết’”. Bạch Thế Tôn, khi được nói vậy, con nói với các du sĩ ngoại đạo ấy như sau: “Thưa chư Hiền, Như Lai là bậc Thượng nhân, là bậc Tối thắng nhân, là bậc đã đạt được địa vị tối thắng. Bậc Như Lai ấy được trình bày ngoài bốn trường hợp như sau: ‘Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết””. Khi được nói vậy, các du sĩ ngoại đạo ấy nói với con: “Tỷ-kheo này có lẽ là mới tu, xuất gia chưa bao lâu. Hay nếu là vị trưởng lão, thời vị này là ngu si, không có thông minh”. Các du sĩ ngoại đạo ấy, sau khi chê trách con là người mới tu và ngu si, liền từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. 9) Bạch Thế Tôn, khi các vị du sĩ ngoại đạo ấy đi không bao lâu con suy nghĩ như sau: “Nếu các vị du sĩ ngoại đạo ấy hỏi ta thêm câu hỏi nữa, ta phải trả lời như thế nào để câu trả lời của ta cho các du sĩ ngoại đạo ấy là đúng với lời Thế Tôn, ta không có xuyên tạc Thế Tôn với điều không thật. Ta trả lời đúng pháp, thuận pháp và những ai nói lời tương ưng đúng pháp, không có cơ hội để chỉ trích”. |
‘‘Taṃ kiṃ maññasi, anurādha, rūpaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā’’ti? | 10)– Ông nghĩ thế nào, này Anuràdha, sắc là thường hay vô thường? |
‘‘Aniccaṃ, bhante’’. | — Là vô thường, bạch Thế Tôn. |
‘‘Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā’’ti? | — Cái gì vô thường là khổ hay lạc? |
‘‘Dukkhaṃ, bhante’’ . | — Là khổ, bạch Thế Tôn. |
‘‘Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ – ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’’’ti? | — Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy: “Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi”? |
‘‘No hetaṃ, bhante’’. | — Thưa không, bạch Thế Tôn. |
‘‘Vedanā niccā vā aniccā vā’’ti?…Pe… saññā …pe… saṅkhārā…pe… ‘‘viññāṇaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā’’ti? | — Thọ là thường hay vô thường?. .. Tưởng là thường hay vô thường?… Các hành là thường hay vô thường?. .. Thức là thường hay vô thường? |
‘‘Aniccaṃ, bhante’’. | — Là vô thường, bạch Thế Tôn. |
‘‘Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā’’ti? | — Cái gì vô thường là khổ hay lạc? |
‘‘Dukkhaṃ, bhante’’. | — Là khổ, bạch Thế Tôn. |
‘‘Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ – ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’’’ti? | — Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy: “Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi”? |
‘‘No hetaṃ, bhante’’. | — Thưa không, bạch Thế Tôn. |
‘‘Tasmātiha, anurādha, yaṃ kiñci rūpaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā paṇītaṃ vā yaṃ dūre santike vā, sabbaṃ rūpaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ. Yā kāci vedanā atītānāgatapaccuppannā…pe… yā kāci saññā…pe… ye keci saṅkhārā…pe… yaṃ kiñci viññāṇaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā paṇītaṃ vā yaṃ dūre santike vā, sabbaṃ viññāṇaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ. | 11) — Do vậy, này Anuràdha, phàm có sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ rằng: “Cái này không phải của tôi. Cái này không phải là tôi. Cái này không phải tự ngã của tôi”. Phàm có thọ gì, quá khứ, vị lai, hiện tại… Phàm có tưởng gì… Phàm có các hành gì… Phàm có thức gì quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; tất cả thức cần phải như thật quán với chánh trí tuệ rằng: “Cái này không phải của tôi. Cái này không phải là tôi. Cái này không phải tự ngã của tôi”. |
Evaṃ passaṃ, anurādha, sutavā ariyasāvako rūpasmimpi nibbindati, vedanāyapi nibbindati, saññāyapi nibbindati, saṅkhāresupi nibbindati, viññāṇasmimpi nibbindati. Nibbindaṃ virajjati; virāgā vimuccati; vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti. ‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāti. | 12) Thấy vậy, này Anuràdha, vị Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với sắc, nhàm chán đối với thọ, nhàm chán đối với tưởng, nhàm chán đối với các hành, nhàm chán đối với thức. Do nhàm chán nên vị ấy ly tham. Do ly tham nên vị ấy được giải thoát. Trong sự giải thoát, khởi lên trí biết rằng: “Ta đã được giải thoát”. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”. |
‘‘Taṃ kiṃ maññasi, anurādha, rūpaṃ tathāgatoti samanupassasī’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’. ‘‘Vedanaṃ tathāgatoti samanupassasī’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’. ‘‘Saññaṃ tathāgatoti samanupassasī’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’. ‘‘Saṅkhāre tathāgatoti samanupassasī’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’. ‘‘Viññāṇaṃ tathāgatoti samanupassasī’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’. ‘‘Taṃ kiṃ maññasi, anurādha, rūpasmiṃ tathāgatoti samanupassasī’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’. ‘‘Aññatra rūpā tathāgatoti samanupassasī’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’. ‘‘Vedanāya…pe… aññatra vedanāya…pe… saññāya…pe… aññatra saññāya…pe… saṅkhāresu…pe… aññatra saṅkhārehi…pe… viññāṇasmiṃ tathāgatoti samanupassasī’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’. ‘‘Aññatra viññāṇā tathāgatoti samanupassasī’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’. | 13) Ông nghĩ thế nào, này Anuràdha, Ông có quán sắc là Như Lai không? — Thưa không, bạch Thế Tôn. — Ông có quán thọ là Như Lai không? — Thưa không, bạch Thế Tôn. — Ông có quán tưởng là Như Lai không? — Thưa không, bạch Thế Tôn. — Ông có quán các hành là Như Lai không? — Thưa không, bạch Thế Tôn. — Ông có quán thức là Như Lai không? — Thưa không, bạch Thế Tôn. 14-18) — Ông nghĩ thế nào, này Anuràdha, Ông có quán Như Lai ở trong sắc không? — Thưa không, bạch Thế Tôn. — Ông có quán Như Lai ở ngoài sắc không? — Thưa không, bạch Thế Tôn. — Ông có quán Như Lai ở trong thọ không? — Thưa không, bạch Thế Tôn. — Ông có quán Như Lai ở ngoài thọ không? — Thưa không, bạch Thế Tôn. — Ông có quán Như Lai ở trong tưởng không? — Thưa không, bạch Thế Tôn. — Ông có quán Như Lai ở ngoài tưởng không? — Thưa không, bạch Thế Tôn. — Ông có quán Như Lai ở trong các hành không? — Thưa không, bạch Thế Tôn. — Ông có quán Như Lai ở ngoài các hành không? — Thưa không, bạch Thế Tôn. — Ông có quán Như Lai ở trong thức không? — Thưa không, bạch Thế Tôn. — Ông có quán Như Lai ở ngoài thức không? — Thưa không, bạch Thế Tôn. |
‘‘Taṃ kiṃ maññasi, anurādha, rūpaṃ, vedanaṃ, saññaṃ, saṅkhāre, viññāṇaṃ tathāgatoti samanupassasī’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’. ‘‘Taṃ kiṃ maññasi, anurādha, ayaṃ so arūpī avedano asaññī asaṅkhāro aviññāṇo tathāgatoti samanupassasī’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’. ‘‘Ettha ca te, anurādha, diṭṭheva dhamme saccato thetato tathāgate anupalabbhiyamāne [tathāgato anupalabbhiyamāno (syā. ka.), tathāgate anupalabbhamāne (?)] kallaṃ nu te taṃ veyyākaraṇaṃ [veyyākaraṇāya (sī.)] – yo so, āvuso, tathāgato uttamapuriso paramapuriso paramapattipatto, taṃ tathāgato aññatra imehi catūhi ṭhānehi paññāpayamāno paññāpeti – ‘‘‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’. ‘‘Sādhu sādhu, anurādha! Pubbe cāhaṃ, anurādha, etarahi ca dukkhañceva paññāpemi dukkhassa ca nirodha’’nti. Dutiyaṃ. | 19-20) — Ông nghĩ như thế nào, này Anuràdha, Ông có quán Như Lai là sắc, thọ, tưởng, hành, thức hay không? — Thưa không, bạch Thế Tôn. — Ông có quán Như Lai là không có sắc, không có thọ, không có tưởng, không có các hành, không có thức hay không? — Thưa không, bạch Thế Tôn. 21) — Ở đây, này Anuràdha, Ông ngay trong hiện tại không có nắm được Như Lai một cách chân thật, một cách xác chứng, thời có hợp lý chăng khi Ông tuyên bố về Như Lai rằng: “Thưa chư Hiền, Như Lai là bậc Thượng nhân, là bậc Tối thắng nhân, là bậc đã đạt được địa vị tối thượng. Bậc Như Lai ấy được biết đến ngoài bốn trường hợp sau đây: ‘Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết””. — Thưa không, bạch Thế Tôn. 22) — Lành thay, lành thay! Này Anuràdha. Trước đây và hiện nay, này Anuràdha, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ. |
3. Paṭhamasāriputtakoṭṭhikasuttaṃ | III. Sàriputta-Kotthika (1) (hay Trú trước) (S.iv,384) |
412. Ekaṃ samayaṃ āyasmā ca sāriputto, āyasmā ca mahākoṭṭhiko bārāṇasiyaṃ viharanti isipatane migadāye. Atha kho āyasmā mahākoṭṭhiko sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yenāyasmā sāriputto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā sāriputtena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā mahākoṭṭhiko āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca – | 1) Một thời Tôn giả Sàriputta và Tôn giả Mahà Kotthika trú ở Barànasi, tại Isipatana, trong vườn Nai. 2) Rồi Tôn giả Mahà Kotthika, vào buổi chiều, từ chỗ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Sàriputta, sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sàriputta những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. 3) Ngồi một bên, Tôn giả Mahà Kotthika nói với Tôn giả Sàriputta: |
‘‘Kiṃ nu kho, āvuso sāriputta, hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti? ‘‘Abyākataṃ kho etaṃ, āvuso, bhagavatā – ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. ‘‘Kiṃ panāvuso, na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti? ‘‘Etampi kho, āvuso, abyākataṃ bhagavatā – ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. ‘‘Kiṃ nu kho, āvuso, hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti? ‘‘Abyākataṃ kho etaṃ, āvuso, bhagavatā – ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. ‘‘Kiṃ panāvuso, neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti? ‘‘Etampi kho, āvuso, abyākataṃ bhagavatā – ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. | — Thưa Hiền giả Sàriputta, Như Lai có tồn tại sau khi chết hay không? — Thưa Hiền giả, Thế Tôn không trả lời: “Như Lai có tồn tại sau khi chết”. 4)– Thế là, thưa Hiền giả, Như Lai không tồn tại sau khi chết? — Thưa Hiền giả, Thế Tôn cũng không trả lời: “Như Lai không tồn tại sau khi chết”. 5)– Thế là, thưa Hiền giả, Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết? — Thưa Hiền giả, Thế Tôn cũng không trả lời: “Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết”. 6)– Thế là, thưa Hiền giả, Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết? — Thưa Hiền giả, Thế Tôn cũng không trả lời: “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. |
‘‘‘Kiṃ nu kho, āvuso, hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti iti puṭṭho samāno, ‘abyākataṃ kho etaṃ, āvuso, bhagavatā – hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vadesi…pe… ‘kiṃ panāvuso, neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti iti puṭṭho samāno – ‘etampi kho, āvuso, abyākataṃ bhagavatā – neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vadesi. Ko nu kho, āvuso, hetu, ko paccayo yenetaṃ abyākataṃ bhagavatā’’ti? | 7) — Ðược hỏi: “Thưa Hiền giả, Như Lai có tồn tại sau khi chết không?”, Hiền giả trả lời: “Thưa Hiền giả, Thế Tôn không trả lời: ‘Như Lai có tồn tại sau khi chết””. Ðược hỏi: “Thưa Hiền giả, thế là Như Lai không tồn tại sau khi chết?”, Hiền giả trả lời: “Thưa Hiền giả, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai không tồn tại sau khi chết’”. Ðược hỏi: “Thế là, thưa Hiền giả, Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết?”, Hiền giả trả lời: “Thưa Hiền giả, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết””. Ðược hỏi: “Thưa Hiền giả, thế là Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?”, Hiền giả trả lời: “Thưa Hiền giả, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết””. Thưa Hiền giả, do nhân gì, do duyên gì, Thế Tôn lại không trả lời? |
‘‘Hoti tathāgato paraṃ maraṇāti kho, āvuso, rūpagatametaṃ. Na hoti tathāgato paraṃ maraṇāti, rūpagatametaṃ. Hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇāti, rūpagatametaṃ. Neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇāti, rūpagatametaṃ. Hoti tathāgato paraṃ maraṇāti kho, āvuso, vedanāgatametaṃ. Na hoti tathāgato paraṃ maraṇāti, vedanāgatametaṃ. Hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇāti, vedanāgatametaṃ. Neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇāti, vedanāgatametaṃ. Hoti tathāgato paraṃ maraṇāti kho, āvuso, saññāgatametaṃ. Na hoti tathāgato paraṃ maraṇāti, saññāgatametaṃ. Hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇāti, saññāgatametaṃ. Neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇāti, saññāgatametaṃ. Hoti tathāgato paraṃ maraṇāti kho, āvuso, saṅkhāragatametaṃ. Na hoti tathāgato paraṃ maraṇāti, saṅkhāragatametaṃ. Hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇāti, saṅkhāragatametaṃ. Neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇāti, saṅkhāragatametaṃ. Hoti tathāgato paraṃ maraṇāti kho, āvuso, viññāṇagatametaṃ. Na hoti tathāgato paraṃ maraṇāti, viññāṇagatametaṃ. Hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇāti, viññāṇagatametaṃ. Neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇāti, viññāṇagatametaṃ. Ayaṃ kho, āvuso, hetu ayaṃ paccayo, yenetaṃ abyākataṃ bhagavatā’’ti. Tatiyaṃ. | 8) “Như Lai có tồn tại sau khi chết”, thưa Hiền giả, là chấp trước sắc. “Như Lai không có tồn tại sau khi chết” là chấp trước sắc. “Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết” là chấp trước sắc. “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết” là chấp trước sắc. 9) “Như Lai có tồn tại sau khi chết” là chấp trước thọ. “Như Lai không có tồn tại sau khi chết” là chấp trước thọ. “Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết” là chấp trước thọ. “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết” là chấp trước thọ. 10) “Như Lai có tồn tại sau khi chết” là chấp trước tưởng. “Như Lai không tồn tại sau khi chết” là chấp trước tưởng. “Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết” là chấp trước tưởng. “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết” là chấp trước tưởng. 11) “Như Lai có tồn tại sau khi chết” là chấp trước các hành. “Như Lai không tồn tại sau khi chết” là chấp trước các hành. “Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết” là chấp trước các hành. “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết” là chấp trước các hành. 12) “Như Lai có tồn tại sau khi chết” là chấp trước thức. “Như Lai không tồn tại sau khi chết” là chấp trước thức. “Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết” là chấp trước thức. “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết” là chấp trước thức. 13) Này Hiền giả, do nhân này, do duyên này, Thế Tôn không trả lời. |
4. Dutiyasāriputtakoṭṭhikasuttaṃ | IV. Sàriputta – Kotthika (2) (hay Tập khởi) (S.iv,387) |
413. Ekaṃ samayaṃ āyasmā ca sāriputto, āyasmā ca mahākoṭṭhiko bārāṇasiyaṃ viharanti isipatane migadāye…pe… (sāyeva pucchā) ‘‘ko nu kho, āvuso, hetu, ko paccayo, yenetaṃ abyākataṃ bhagavatā’’ti? ‘‘Rūpaṃ kho, āvuso, ajānato apassato yathābhūtaṃ, rūpasamudayaṃ ajānato apassato yathābhūtaṃ, rūpanirodhaṃ ajānato apassato yathābhūtaṃ, rūpanirodhagāminiṃ paṭipadaṃ ajānato apassato yathābhūtaṃ, ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti; ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti; ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti; ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti. Vedanaṃ…pe… saññaṃ…pe… saṅkhāre…pe… viññāṇaṃ ajānato apassato yathābhūtaṃ, viññāṇasamudayaṃ ajānato apassato yathābhūtaṃ, viññāṇanirodhaṃ ajānato apassato yathābhūtaṃ, viññāṇanirodhagāminiṃ paṭipadaṃ ajānato apassato yathābhūtaṃ, ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti; ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti; ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti; ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’tipissa hoti. | 1) Một thời, Tôn giả Sàriputta và Tôn giả Mahà Kotthika trú ở Bàranasi (Ba-la-nại), tại Isipatana, chỗ vườn Nai… 2-7) — Thưa Hiền giả, do nhân gì Thế Tôn không trả lời câu hỏi ấy? 8) — Thưa Hiền giả, do không như thật biết, như thật thấy sắc; do không như thật biết, như thật thấy sắc tập khởi; do không như thật biết, như thật thấy sắc đoạn diệt; do không như thật biết, như thật thấy con đường đưa đến sắc đoạn diệt nên mới có quan điểm rằng: “Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết..”. 9-11). .. thọ… tưởng… các hành… 12) Do không như thật biết, như thật thấy thức; do không như thật biết, như thật thấy thức tập khởi; do không như thật biết, như thật thấy thức đoạn diệt; do không như thật biết, như thật thấy con đường đưa đến thức đoạn diệt nên mới có quan điểm rằng: “Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. |
‘‘Rūpañca kho, āvuso, jānato passato yathābhūtaṃ, rūpasamudayaṃ jānato passato yathābhūtaṃ, rūpanirodhaṃ jānato passato yathābhūtaṃ, rūpanirodhagāminiṃ paṭipadaṃ jānato passato yathābhūtaṃ, ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa na hoti…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa na hoti. Vedanaṃ…pe… saññaṃ…pe… saṅkhāre…pe… viññāṇaṃ jānato passato yathābhūtaṃ, viññāṇasamudayaṃ jānato passato yathābhūtaṃ, viññāṇanirodhaṃ jānato passato yathābhūtaṃ, viññāṇanirodhagāminiṃ paṭipadaṃ jānato passato yathābhūtaṃ, ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa na hoti; ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa na hoti; ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa na hoti; ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa na hoti. Ayaṃ kho, āvuso, hetu ayaṃ paccayo, yenetaṃ abyākataṃ bhagavatā’’ti. Catutthaṃ. | 13) Do như thật biết, như thật thấy sắc; do như thật biết, như thật thấy sắc tập khởi; do như thật biết, như thật thấy sắc đoạn diệt; do như thật biết, như thật thấy con đường đưa đến sắc đoạn diệt nên không có quan điểm rằng: “Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. 14-16). .. thọ… tưởng… các hành… 17) Do như thật biết, như thật thấy thức; do như thật biết, như thật thấy thức tập khởi; do như thật biết, như thật thấy thức đoạn diệt; do như thật biết, như thật thấy con đường đưa đến thức đoạn diệt nên không có quan điểm rằng: “Như Lai có tồn tại sau chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. 18) Thưa Hiền giả, đây là nhân, đây là duyên, đây là lý do mà Thế Tôn không trả lời vấn đề ấy. |
5. Tatiyasāriputtakoṭṭhikasuttaṃ | V. Sàriputta – Kotthika (3) (hay Ái) (S.iv,368) |
414. Ekaṃ samayaṃ āyasmā ca sāriputto, āyasmā ca mahākoṭṭhiko bārāṇasiyaṃ viharanti isipatane migadāye…pe… (sāyeva pucchā) ‘‘ko nu kho, āvuso, hetu ko paccayo, yenetaṃ abyākataṃ bhagavatā’’ti? ‘‘Rūpe kho, āvuso, avigatarāgassa avigatacchandassa avigatapemassa avigatapipāsassa avigatapariḷāhassa avigatataṇhassa ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti. Vedanāya…pe… saññāya…pe… saṅkhāresu…pe… viññāṇe avigatarāgassa avigatacchandassa avigatapemassa avigatapipāsassa avigatapariḷāhassa avigatataṇhassa ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti. Rūpe ca kho, āvuso, vigatarāgassa…pe… vedanāya…pe… saññāya…pe… saṅkhāresu…pe… viññāṇe vigatarāgassa vigatacchandassa vigatapemassa vigatapipāsassa vigatapariḷāhassa vigatataṇhassa ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa na hoti…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa na hoti. Ayaṃ kho, āvuso, hetu, ayaṃ paccayo, yenetaṃ abyākataṃ bhagavatā’’ti. Pañcamaṃ. | 1) Một thời, Tôn giả Sàriputta và Tôn giả Mahà Kotthika trú ở Bàranasi (Ba-la-nại), tại Isipatana, chỗ vườn Nai… 2-7) — Thưa Hiền giả, do nhân gì, do duyên gì, Thế Tôn không trả lời câu hỏi ấy? 8) — Thưa Hiền giả, đối với ai chưa đoạn trừ tham đối với sắc, chưa đoạn trừ dục, chưa đoạn trừ ái, chưa đoạn trừ khát, chưa đoạn trừ nhiệt tâm, chưa đoạn trừ khát ái, thời người ấy có quan điểm: “Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. 9-11). .. đối với thọ… đối với tưởng… đối với các hành… 12) Thưa Hiền giả, đối với ai chưa đoạn trừ tham đối với thức, chưa đoạn trừ dục, chưa đoạn trừ ái chưa đoạn trừ khát, chưa đoạn trừ nhiệt tâm, chưa đoạn trừ khát ái, thời người ấy có quan điểm: “Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. 13) Này Hiền giả, đối với ai đã đoạn trừ tham đối với sắc, đã đoạn trừ dục, đã đoạn trừ ái, đã đoạn trừ khát, đã đoạn trừ nhiệt tâm, đã đoạn trừ khát ái, người ấy sẽ không có quan điểm: “Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. 14-16) … đối với thọ… đối với tưởng… đối với các hành… 17) Này Hiền giả, đối với ai đã đoạn trừ lòng tham đối với thức, đã đoạn trừ dục, đã đoạn trừ ái, đã đoạn trừ khát, đã đoạn trừ nhiệt tâm, đã đoạn trừ khát ái, thời người ấy không có quan điểm: “Như Lai có tồn tại sau chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. 18) Này Hiền giả, đây là nhân, đây là duyên, đây là lý do mà Thế Tôn không trả lời vấn đề ấy. |
6. Catutthasāriputtakoṭṭhikasuttaṃ | VI. Sàriputta – Kotthika (4) (hay Vườn) (S.iv,388) |
I | |
415. Ekaṃ samayaṃ āyasmā ca sāriputto, āyasmā ca mahākoṭṭhiko bārāṇasiyaṃ viharanti isipatane migadāye. Atha kho āyasmā sāriputto sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yenāyasmā mahākoṭṭhiko tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā mahākoṭṭhikena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā sāriputto āyasmantaṃ mahākoṭṭhikaṃ etadavoca – ‘‘‘kiṃ nu kho, āvuso koṭṭhika, hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti…pe… ‘kiṃ panāvuso, neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti iti puṭṭho samāno – ‘etampi kho, āvuso, abyākataṃ bhagavatā – neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vadesi’’. ‘‘Ko nu kho, āvuso, hetu, ko paccayo, yenetaṃ abyākataṃ bhagavatā’’ti? | 1) Một thời Tôn giả Sàriputta và Tôn giả Mahà Kotthika trú ở Bàranasì, tại Isipatana, ở vườn Nai. 2) Rồi Tôn giả Sàriputta, vào buổi chiều, từ chỗ tịnh cư đứng dậy, đi đến Tôn giả Mahà Kotthika; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Mahà Kotthika những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi một bên, Tôn giả Sàriputta nói với Tôn giả Kotthika: — Thưa Tôn giả Kotthika, Như Lai có tồn tại sau khi chết?… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?… Ðược hỏi vậy, Hiền giả trả lời: “Thế Tôn không trả lời: ‘Như Lai có tồn tại sau khi chết… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết””. Do nhân gì, thưa Hiền giả, do duyên gì, Thế Tôn không trả lời vấn đề ấy? |
‘‘Rūpārāmassa kho, āvuso, rūparatassa rūpasammuditassa rūpanirodhaṃ ajānato apassato yathābhūtaṃ, ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti; ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti; ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti; ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti. Vedanārāmassa kho, āvuso, vedanāratassa vedanāsammuditassa, vedanānirodhaṃ ajānato apassato yathābhūtaṃ, ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti…pe… saññārāmassa kho, āvuso…pe… saṅkhārārāmassa kho āvuso…pe… viññāṇārāmassa kho, āvuso, viññāṇaratassa viññāṇasammuditassa viññāṇanirodhaṃ ajānato apassato yathābhūtaṃ, ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti’’. | 4) — Thưa Hiền giả, với ai còn ái lạc sắc, ưa thích sắc, hoan hỷ sắc, không như thật biết, như thật thấy sắc đoạn diệt, thời người ấy có quan điểm: “Như Lai có tồn tại sau khi chết… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. Thưa Hiền giả, với ai còn ái lạc thọ, ưa thích thọ, hoan hỷ thọ, không như thật biết, như thật thấy thọ đoạn diệt, thời người ấy có các quan điểm: “Như Lai có tồn tại sau khi chết… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”… tưởng… các hành… Thưa Hiền giả, với ai còn ái lạc thức, ưa thích thức, hoan hỷ thức, không như thật biết, như thật thấy thức đoạn diệt, thời người ấy có các quan điểm: “Như Lai có tồn tại sau khi chết… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. |
‘‘Na rūpārāmassa kho, āvuso, na rūparatassa na rūpasammuditassa, rūpanirodhaṃ jānato passato yathābhūtaṃ, ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa na hoti…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa na hoti. Na vedanārāmassa kho, āvuso…pe… na saññārāmassa kho, āvuso…pe… na saṅkhārārāmassa kho, āvuso…pe… na viññāṇārāmassa kho, āvuso, na viññāṇaratassa na viññāṇasammuditassa, viññāṇanirodhaṃ jānato passato yathābhūtaṃ, ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa na hoti…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa na hoti. Ayaṃ kho, āvuso, hetu, ayaṃ paccayo, yenetaṃ abyākataṃ bhagavatā’’ti. | 5) Này Hiền giả, đối với ai không ái lạc sắc, không ưa thích sắc, không hoan hỷ sắc, như thật biết, như thật thấy sắc đoạn diệt, thời người ấy không có các quan điểm: “Như Lai có tồn tại sau khi chết. .. Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. Thưa Hiền giả, với ai không còn ái lạc thọ… tưởng… các hành… không ái lạc thức, không ưa thích thức, không hoan hỷ thức, như thật biết, như thật thấy thức đoạn diệt, thời người ấy không có các quan điểm: “Như Lai có tồn tại sau khi chết… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. 6) Này Hiền giả, đây là nhân, đây là duyên, đây là lý do mà Thế Tôn không trả lời về vấn đề ấy. |
II | |
‘‘Siyā panāvuso, aññopi pariyāyo, yenetaṃ abyākataṃ bhagavatā’’ti? ‘‘Siyā, āvuso. Bhavārāmassa kho, āvuso, bhavaratassa bhavasammuditassa, bhavanirodhaṃ ajānato apassato yathābhūtaṃ, ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti. Na bhavārāmassa kho, āvuso, na bhavaratassa na bhavasammuditassa, bhavanirodhaṃ jānato passato yathābhūtaṃ, ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa na hoti…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa na hoti. Ayampi kho, āvuso, pariyāyo, yenetaṃ abyākataṃ bhagavatā’’ti. | 7) — Thưa Hiền giả, có lý do nào khác, do đấy Thế Tôn không trả lời về vấn đề ấy? — Thưa có, này Hiền giả. 8) Ai còn ái lạc hữu, thưa Hiền giả, ưa thích hữu, hoan hỷ hữu, không như thật biết, không như thật thấy hữu đoạn diệt, thời người ấy có các quan điểm: “Như Lai có tồn tại sau khi chết… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. 9) Ai không còn ái lạc hữu, thưa Hiền giả, không ưa thích hữu, không hoan hỷ hữu, như thật biết, như thật thấy hữu đoạn diệt, thời người ấy không có các quan điểm: “Như Lai có tồn tại sau khi chết… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. 10) Thưa Hiền giả, đây là lý do vì sao Thế Tôn không trả lời về vấn đề ấy. |
III | |
‘‘Siyā panāvuso, aññopi pariyāyo, yenetaṃ abyākataṃ bhagavatā’’ti? ‘‘Siyā, āvuso. Upādānārāmassa kho, āvuso, upādānaratassa upādānasammuditassa, upādānanirodhaṃ ajānato apassato yathābhūtaṃ, ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti. Na upādānārāmassa kho, āvuso, na upādānaratassa na upādānasammuditassa, upādānanirodhaṃ jānato passato yathābhūtaṃ, ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa na hoti…pe… ‘neva, hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa na hoti. Ayampi kho āvuso, pariyāyo, yenetaṃ abyākataṃ bhagavatā’’ti. | 11) — Thưa Hiền giả, có lý do nào khác, do vậy Thế Tôn không trả lời về vấn đề ấy? — Thưa có, này Hiền giả. 12) Ai còn ái lạc thủ, thưa Hiền giả, ưa thích thủ, hoan hỷ thủ, không như thật biết, như thật thấy thủ đoạn diệt, thời người ấy có những quan điểm: “Như Lai có tồn tại sau khi chết… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. 13) Ai không còn ái lạc thủ, thưa Hiền giả, không ưa thích thủ, không hoan hỷ thủ, như thật biết, như thật thấy thủ đoạn diệt, thời người ấy không có những quan điểm: “Như Lai có tồn tại sau khi chết… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. 14) Thưa Hiền giả, đây là lý do vì sao Thế Tôn không trả lời về vấn đề ấy. |
IV | |
‘‘Siyā panāvuso, aññopi pariyāyo, yenetaṃ abyākataṃ bhagavatā’’ti? ‘‘Siyā, āvuso. Taṇhārāmassa kho, āvuso, taṇhāratassa taṇhāsammuditassa, taṇhānirodhaṃ ajānato apassato yathābhūtaṃ, ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa hoti. Na taṇhārāmassa kho, āvuso, na taṇhāratassa na taṇhāsammuditassa, taṇhānirodhaṃ jānato passato yathābhūtaṃ, ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa na hoti…pe. … ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipissa na hoti. Ayampi kho, āvuso, pariyāyo, yenetaṃ abyākataṃ bhagavatā’’ti. | 15) — Thưa Hiền giả, có lý do nào khác, do vậy Thế Tôn không trả lời về vấn đề ấy? — Thưa có, này Hiền giả. 16) Với ai còn ái lạc ái, thưa Hiền giả, ưa thích ái, hoan hỷ ái, không như thật biết, không như thật thấy ái đoạn diệt, thời người ấy có những quan điểm: “Như Lai có tồn tại sau khi chết… Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. 17) Với ai, thưa Hiền giả, không còn ái lạc ái, không ưa thích ái, không hoan hỷ ái, và như thật biết, như thật thấy ái đoạn diệt, thời người ấy không có các quan điểm: “Như Lai có tồn tại sau khi chết… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. 18) Thưa Hiền giả, đây là lý do vì sao Thế Tôn không trả lời về vấn đề ấy. |
V | |
‘‘Siyā panāvuso, aññopi pariyāyo, yenetaṃ abyākataṃ bhagavatā’’ti? ‘‘Ettha dāni, āvuso sāriputta, ito uttari kiṃ icchasi? Taṇhāsaṅkhayavimuttassa, āvuso sāriputta, bhikkhuno vaṭṭaṃ [vattaṃ (syā. kaṃ. ka.) vaddhaṃ (pī.)] natthi paññāpanāyā’’ti. Chaṭṭhaṃ. | 19) — Thưa Hiền giả, có lý do nào khác, do vậy Thế Tôn không trả lời về vấn đề ấy? — Ở đây, thưa Hiền giả Sàriputta, sao Hiền giả còn muốn hỏi thêm chi nữa. Ðối với Tỷ-kheo đã được giải thoát nhờ đoạn tận ái, thời không còn gì để nêu rõ là được tăng trưởng. |
7. Moggallānasuttaṃ | VII. Moggalàna (hay Xứ) (S.iv.391) |
416. Atha kho vacchagotto paribbājako yenāyasmā mahāmoggallāno tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā mahāmoggallānena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho vacchagotto paribbājako āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ etadavoca – | 1). .. 2) Rồi du sĩ Vacchagotta đi đến Tôn giả Mahà Moggalàna; sau khi đến, nói với Tôn giả Mahà Moggalàna những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên. 3) Ngồi một bên, du sĩ Vacchagotta thưa với Tôn giả Mahà Moggalàna: |
‘‘Kiṃ nu kho, bho moggallāna, sassato loko’’ti? ‘‘Abyākataṃ kho etaṃ, vaccha, bhagavatā – ‘sassato loko’’’ti. ‘‘Kiṃ pana, bho moggallāna, asassato loko’’ti? ‘‘Etampi kho, vaccha, abyākataṃ bhagavatā – ‘asassato loko’’’ti. ‘‘Kiṃ nu kho, bho moggallāna, antavā loko’’ti? ‘‘Abyākataṃ kho etaṃ, vaccha, bhagavatā – ‘antavā loko’’’ti. ‘‘Kiṃ pana, bho moggallāna, anantavā loko’’ti? ‘‘Etampi kho, vaccha, abyākataṃ bhagavatā – ‘anantavā loko’’’ti. ‘‘Kiṃ nu kho, bho moggallāna, taṃ jīvaṃ taṃ sarīra’’nti? ‘‘Abyākataṃ kho etaṃ, vaccha, bhagavatā – ‘taṃ jīvaṃ taṃ sarīra’’’nti. ‘‘Kiṃ pana, bho moggallāna, aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīra’’nti? ‘‘Etampi kho, vaccha, abyākataṃ bhagavatā – ‘aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīra’’’nti. ‘‘Kiṃ nu kho, bho moggallāna, hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti? ‘‘Abyākataṃ kho etaṃ, vaccha, bhagavatā – ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. ‘‘Kiṃ pana, bho moggallāna, na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti? ‘‘Etampi kho, vaccha, abyākataṃ bhagavatā – ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. ‘‘Kiṃ nu kho, bho moggallāna, hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti? ‘‘Abyākataṃ kho etaṃ, vaccha, bhagavatā – ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. ‘‘Kiṃ pana, bho moggallāna, neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti? ‘‘Etampi kho, vaccha, abyākataṃ bhagavatā – ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. | — Thưa Tôn giả Moggalàna, thế giới là thường còn? — Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời: “Thế giới là thường còn”. 4) — Vậy thưa Tôn giả Moggalàna, thế giới là vô thường? — Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả lời: “Thế giới là vô thường”. 5) — Thưa Tôn giả Moggalàna, có phải thế giới là hữu biên? — Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời: “Thế giới là hữu biên”. 6) — Vậy thưa Tôn giả Moggalàna, thế giới là vô biên? — Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả lời: “Thế giới là vô biên”. 7) — Thưa Tôn giả Moggalàna, có phải sinh mạng và thân thể là một? — Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời: “Sinh mạng và thân thể là một”. 8)– Thưa Tôn giả Moggalàna, vậy sinh mạng và thân thể là khác? — Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả lời: “Sinh mạng và thân thể là khác”. 9)– Thưa Tôn giả Moggalàna, có phải Như Lai có tồn tại sau khi chết? — Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời: “Như Lai có tồn tại sau khi chết”. 10)– Thưa Tôn giả Moggalàna, vậy Như Lai không có tồn tại sau khi chết? — Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả lời: “Như Lai không có tồn tại sau khi chết”. 11) — Thưa Tôn giả Moggalàna, vậy Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết? — Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả lời: “Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết”. 12)– Thưa Tôn giả Moggalàna, vậy Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết? — Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả lời: “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. |
‘‘Ko nu kho, bho moggallāna, hetu ko paccayo, yena aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ puṭṭhānaṃ evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti – sassato lokoti vā, asassato lokoti vā, antavā lokoti vā, anantavā lokoti vā, taṃ jīvaṃ taṃ sarīranti vā, aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīranti vā, hoti tathāgato paraṃ maraṇāti vā, na hoti tathāgato paraṃ maraṇāti vā, hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇāti vā, neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇāti vā? Ko pana, bho moggallāna, hetu ko paccayo, yena samaṇassa gotamassa evaṃ puṭṭhassa na evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti – sassato lokotipi, asassato lokotipi, antavā lokotipi, anantavā lokotipi, taṃ jīvaṃ taṃ sarīrantipi, aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīrantipi, hoti tathāgato paraṃ maraṇātipi, na hoti tathāgato paraṃ maraṇātipi, hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇātipi, neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇātipī’’ti? | 13)– Thưa Tôn giả Moggalàna, do nhân gì, do duyên gì các vị du sĩ ngoại đạo, khi được hỏi như thế này, thời trả lời như thế này: “Thế giới là thường còn. Hay thế giới là vô thường. Hay thế giới là hữu biên. Hay thế giới là vô biên. Hay sinh mạng và thân thể là một. Hay sinh mạng và thân thể là khác. Hay Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết? 14) Thưa Tôn giả Moggalàna, do nhân gì, do duyên gì, Sa-môn Gotama, khi được hỏi như thế này, thời không trả lời như thế này: “Thế giới là thường còn. Hay thế giới là vô thường. Hay thế giới là hữu biên. Hay thế giới là vô biên. Hay sinh mạng và thân thể là một. Hay sinh mạng và thân thể là khác. Hay Như Lai có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”? |
‘‘Aññatitthiyā kho, vaccha, paribbājakā cakkhuṃ ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassanti…pe… jivhaṃ ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassanti…pe… manaṃ ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassanti. Tasmā aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ puṭṭhānaṃ evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti – sassato lokoti vā…pe… neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇāti vā. Tathāgato ca kho, vaccha, arahaṃ sammāsambuddho cakkhuṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati…pe… jivhaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati…pe… manaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati. Tasmā tathāgatassa evaṃ puṭṭhassa na evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti – sassato lokotipi…pe… neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇātipī’’ti. | 15) — Này Vaccha, vì rằng các du sĩ ngoại đạo quán con mắt là: “Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi”;. .. quán tai… quán mũi… quán lưỡi… quán thân… quán ý là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi”. Do vậy, các du sĩ ngoại đạo, nên khi được hỏi như vậy, trả lời như vầy: “Thế giới là thường còn… Hay Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. 16) Và Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, này Vaccha, quán con mắt là: “Cái này không phải của tôi. Cái này không phải là tôi. Cái này không phải tự ngã của tôi”… quán tai… quán mũi… quán lưỡi… quán thân… quán ý là: “Cái này không phải của tôi. Cái này không phải là tôi. Cái này không phải là tự ngã của tôi”. Do vậy, Như Lai khi được hỏi như vậy, không có trả lời như vầy: “Thế giới là thường còn… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. |
Atha kho vacchagotto paribbājako uṭṭhāyāsanā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho vacchagotto paribbājako bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kiṃ nu kho, bho gotama, sassato loko’’ti? Abyākataṃ kho etaṃ, vaccha, mayā – ‘sassato loko’ti…pe…. ‘‘Kiṃ pana, bho gotama, neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti? ‘‘Etampi kho, vaccha, abyākataṃ mayā – ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. | 17) Rồi du sĩ Vacchagotta từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến Thế Tôn; sau khi đi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên. 18) Ngồi một bên, Vacchagotta bạch Thế Tôn: — Thưa Tôn giả Gotama, thế giới thường còn? — Này Vaccha, Ta không trả lời: “Thế giới là thường còn”. 19-26)… (như trên)… 27) — Thưa Tôn giả Gotama, có phải Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết? — Này Vaccha, Ta không có trả lời: “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. |
‘‘Ko nu kho, bho gotama, hetu ko paccayo, yena aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ puṭṭhānaṃ evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti – ‘sassato loko’ti vā…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā? Ko pana, bho gotama, hetu ko paccayo, yena bhoto gotamassa evaṃ puṭṭhassa na evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti – ‘sassato loko’tipi…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipī’’ti? | 28) — Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì các du sĩ ngoại đạo, khi được hỏi như vậy, thời trả lời như vầy: “Thế giới là thường còn… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”? Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, khi Tôn giả Gotama được hỏi như vậy, lại không trả lời như vầy: “Thế giới là thường còn… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”? |
‘‘Aññatitthiyā kho, vaccha, paribbājakā cakkhuṃ ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassanti…pe… jivhaṃ ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassanti…pe… manaṃ ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassanti. Tasmā aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ puṭṭhānaṃ evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti – ‘sassato loko’ti vā…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā. Tathāgato ca kho, vaccha, arahaṃ sammāsambuddho cakkhuṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati…pe… jivhaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati…pe… manaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati. Tasmā tathāgatassa evaṃ puṭṭhassa na evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti – ‘sassato loko’tipi, ‘asassato loko’tipi, ‘antavā loko’tipi, ‘anantavā loko’tipi, ‘taṃ jīvaṃ taṃ sarīra’ntipi, ‘aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīra’ntipi, ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi, ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi, ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi, ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipī’’ti. | 29)– Này Vaccha, các du sĩ ngoại đạo quán con mắt là: “Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi”, quán tai… quán mũi… quán lưỡi… quán thân… quán ý là: “Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi”. Do vậy, các du sĩ ngoại đạo khi được hỏi như vậy, nên trả lời như vầy: “Thế giới là thường còn… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. 30) Còn Như Lai, này Vaccha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, quán con mắt là: “Cái này không phải của tôi. Cái này không phải là tôi. Cái này không phải là tự ngã của tôi”, quán tai… quán mũi… quán lưỡi… quán thân… quán ý là: “Cái này không phải của tôi. Cái này không phải là tôi. Cái này không phải là tự ngã của tôi”. Do vậy, Như Lai khi được hỏi như vậy, không trả lời như vầy: “Thế giới là thường còn… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. |
‘‘Acchariyaṃ, bho gotama, abbhutaṃ, bho gotama! Yatra hi nāma satthu ca [satthussa ca (sī. pī.), satthu ceva (khemāsutte)] sāvakassa ca atthena attho byañjanena byañjanaṃ saṃsandissati samessati na virodhayissati, yadidaṃ aggapadasmiṃ. Idānāhaṃ, bho gotama, samaṇaṃ mahāmoggallānaṃ upasaṅkamitvā etamatthaṃ apucchiṃ. Samaṇopi me moggallāno etehi padehi etehi byañjanehi tamatthaṃ byākāsi, seyyathāpi bhavaṃ gotamo. Acchariyaṃ, bho gotama, abbhutaṃ, bho gotama! Yatra hi nāma satthu ca sāvakassa ca atthena attho byañjanena byañjanaṃ saṃsandissati samessati na virodhayissati, yadidaṃ aggapadasmi’’nti. Sattamaṃ. | 31) — Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả Gotama! Vì rằng giữa Ðạo sư với nam đệ tử, ý nghĩa với ý nghĩa, văn ngôn với văn ngôn có sự tương đồng, có sự tương hòa, không có sự mâu thuẫn, tức là tối thượng văn cú. 32) Thưa Tôn giả Gotama, nay con đi đến Sa-môn Mahà Moggalàna và nói về ý nghĩa này. Sa-môn Moggalàna, với những câu như thế này, với những lời như thế này đã trả lời về ý nghĩa này giống như Tôn giả Gotama. Vì rằng giữa Ðạo sư với nam đệ tử, ý nghĩa với ý nghĩa, văn ngôn với văn ngôn có sự tương đồng, có sự tương hòa, không có sự mâu thuẫn, tức là tối thượng văn cú. |
8. Vacchagottasuttaṃ | VIII. Vaccha (hay Trói buộc) (S.iv,395) |
417. Atha kho vacchagotto paribbājako yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho vacchagotto paribbājako bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kiṃ nu kho, bho gotama, sassato loko’’ti? Abyākataṃ kho etaṃ, vaccha, mayā – ‘sassato loko’ti…pe…. ‘‘Kiṃ pana, bho gotama, ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti? ‘‘Etampi kho, vaccha, abyākataṃ mayā – ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. | 1) … 2) Rồi du sĩ Vacchagotta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi một bên, du sĩ Vacchagotta bạch Thế Tôn: — Thưa Tôn giả Gotama, thế giới có phải là thường còn? — Này Vaccha, Ta không có trả lời: “Thế giới là thường còn..”. 4-11)… (như trên)… 12) — Thưa Tôn giả Gotama, có phải Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết? — Này Vaccha, Ta không có trả lời: “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. |
‘‘Ko nu kho, bho gotama, hetu, ko paccayo, yena aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ puṭṭhānaṃ evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti – ‘sassato loko’ti vā…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā? Ko pana, bho gotama, hetu, ko paccayo, yena bhoto gotamassa evaṃ puṭṭhassa na evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti – ‘sassato loko’tipi…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipī’’ti? | 13) — Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, các du sĩ ngoại đạo khi được hỏi như vậy, thời trả lời như vầy: “Thế giới là thường còn… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”? Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn giả Gotama, khi Tôn giả Gotama được hỏi như vậy, lại không trả lời: “Thế giới là thường còn… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”? |
‘‘Aññatitthiyā kho, vaccha, paribbājakā rūpaṃ attato samanupassanti, rūpavantaṃ vā attānaṃ, attani vā rūpaṃ, rūpasmiṃ vā attānaṃ. Vedanaṃ attato samanupassanti…pe… saññaṃ…pe… saṅkhāre…pe… viññāṇaṃ attato samanupassanti, viññāṇavantaṃ vā attānaṃ, attani vā viññāṇaṃ, viññāṇasmiṃ vā attānaṃ. Tasmā aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ puṭṭhānaṃ evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti – ‘sassato loko’ti vā…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā. Tathāgato ca kho, vaccha, arahaṃ sammāsambuddho na rūpaṃ attato samanupassati, na rūpavantaṃ vā attānaṃ, na attani vā rūpaṃ, na rūpasmiṃ vā attānaṃ. Na vedanaṃ attato samanupassati…pe… na saññaṃ…pe… na saṅkhāre…pe… na viññāṇaṃ attato samanupassati, na viññāṇavantaṃ vā attānaṃ, na attani vā viññāṇaṃ, na viññāṇasmiṃ vā attānaṃ. Tasmā tathāgatassa evaṃ puṭṭhassa na evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti – ‘sassato loko’tipi…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipī’’ti. | 14) — Này Vaccha, các du sĩ ngoại đạo quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc. Họ quán thọ như là tự ngã… quán tưởng… quán các hành… quán thức như là tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức. Do vậy, các du sĩ ngoại đạo khi được hỏi như vậy, liền trả lời như vầy: “Thế giới là thường còn… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. 15) Như Lai, này Vaccha, là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, quán sắc không phải là tự ngã, hay tự ngã không phải có sắc, hay sắc không ở trong tự ngã, hay tự ngã không ở trong sắc. Như Lai quán thọ không phải tự ngã… quán tưởng… quán các hành… quán thức không phải là tự ngã, hay tự ngã không phải có thức, hay thức không ở trong tự ngã, hay tự ngã không ở trong thức. Do vậy, Như Lai khi được hỏi như vậy, lại không trả lời như vầy: “Thế giới là thường còn… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. |
Atha kho vacchagotto paribbājako uṭṭhāyāsanā yenāyasmā mahāmoggallāno tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā mahāmoggallānena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho vacchagotto paribbājako āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ etadavoca – ‘‘kiṃ nu kho, bho moggallāna, sassato loko’’ti? Abyākataṃ kho etaṃ, vaccha, bhagavatā – ‘sassato loko’ti…pe…. ‘‘Kiṃ pana, bho moggallāna, ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti? ‘‘Etampi kho, vaccha, abyākataṃ bhagavatā – ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. | 16) Rồi du sĩ ngoại đạo Vacchagotta từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Tôn giả Mahà Moggalàna; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Mahà Moggalàna những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. 17) Ngồi một bên, du sĩ Vacchagotta nói với Tôn giả Mahà Moggalàna: — Thưa Tôn giả Moggalàna, có phải thế giới là thường còn? — Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời: “Thế giới là thường còn”. 18-26)… (như trên)… 27) — Thưa Tôn giả Moggalàna, có phải Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết? — Này Vaccha, Thế Tôn không có trả lời: “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. |
‘‘Ko nu kho, bho moggallāna, hetu, ko paccayo, yena aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ puṭṭhānaṃ evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti – ‘sassato loko’ti vā…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā? Ko pana, bho moggallāna, hetu, ko paccayo yena samaṇassa gotamassa evaṃ puṭṭhassa na evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti – ‘sassato loko’tipi…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipī’’ti? | 28) — Thưa Tôn giả Moggalàna, do nhân gì, do duyên gì, các du sĩ ngoại đạo khi được hỏi như vậy, liền trả lời như vầy: “Thế giới là thường còn… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”? Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn giả Moggalàna, Sa-môn Gotama khi được hỏi như vậy, lại không trả lời như vầy: “Thế giới là thường còn… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”? |
‘‘Aññatitthiyā kho, vaccha, paribbājakā rūpaṃ attato samanupassanti, rūpavantaṃ vā attānaṃ, attani vā rūpaṃ, rūpasmiṃ vā attānaṃ. Vedanaṃ attato samanupassanti…pe… saññaṃ…pe… saṅkhāre…pe… viññāṇaṃ attato samanupassanti, viññāṇavantaṃ vā attānaṃ, attani vā viññāṇaṃ, viññāṇasmiṃ vā attānaṃ. Tasmā aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ puṭṭhānaṃ evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti – ‘sassato loko’ti vā…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vā. Tathāgato ca kho, vaccha, arahaṃ sammāsambuddho na rūpaṃ attato samanupassati, na rūpavantaṃ vā attānaṃ, na attani vā rūpaṃ, na rūpasmiṃ vā attānaṃ. Na vedanaṃ attato samanupassati…pe… na saññaṃ…pe… na saṅkhāre…pe… na viññāṇaṃ attato samanupassati, na viññāṇavantaṃ vā attānaṃ, na attani vā viññāṇaṃ, na viññāṇasmiṃ vā attānaṃ. Tasmā tathāgatassa evaṃ puṭṭhassa na evaṃ veyyākaraṇaṃ hoti – ‘sassato loko’tipi, ‘asassato loko’tipi, ‘antavā loko’tipi, ‘anantavā loko’tipi, ‘taṃ jīvaṃ taṃ sarīra’ntipi, ‘aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīra’ntipi, ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi, ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi, ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipi, ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’tipī’’ti. | 29) — Này Vaccha, các du sĩ ngoại đạo quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc. Họ quán thọ… quán tưởng… quán các hành… quán thức như là tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức. Do vậy, các du sĩ ngoại đạo khi được hỏi như vậy, liền trả lời như vầy: “Thế giới là thường còn… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. 30) Còn Như Lai, này Vaccha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, quán sắc không phải là tự ngã, hay tự ngã không phải có sắc, quán sắc không ở trong tự ngã, hay tự ngã không ở trong sắc. Như Lai quán thọ… quán tưởng… quán các hành… quán thức không phải là tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức. Do vậy, Như Lai khi được hỏi như vậy, không có trả lời như vầy: “Thế giới là thường còn… Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. |
‘‘Acchariyaṃ, bho moggallāna, abbhutaṃ, bho moggallāna! Yatra hi nāma satthu ca sāvakassa ca atthena attho byañjanena byañjanaṃ saṃsandissati, samessati, na virodhayissati, yadidaṃ aggapadasmiṃ. Idānāhaṃ, bho moggallāna, samaṇaṃ gotamaṃ upasaṅkamitvā etamatthaṃ apucchiṃ. Samaṇopi me gotamo etehi padehi etehi byañjanehi etamatthaṃ byākāsi, seyyathāpi bhavaṃ moggallāno. Acchariyaṃ, bho moggallāna, abbhutaṃ, bho moggallāna! Yatra hi nāma satthu ca sāvakassa ca atthena attho byañjanena byañjanaṃ saṃsandissati samessati na virodhayissati, yadidaṃ aggapadasmi’’nti. Aṭṭhamaṃ. | 31) — Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Moggalàna! Vì rằng, giữa Ðạo sư và nam đệ tử, ý nghĩa với ý nghĩa, văn ngôn với văn ngôn có sự tương đồng, có sự tương hòa, không có sự mâu thuẫn, tức là tối thượng văn cú. 32) Thưa Tôn giả Moggalàna, nay tôi đi đến Sa-môn Gotama, sau khi đến tôi hỏi về ý nghĩa này. Sa-môn Gotama với những câu văn, với những lời văn đã trả lời về ý nghĩa này giống như Tôn giả Moggalàna. Thật vi diệu thay, Tôn giả Moggalàna! Thật hy hữu thay, Tôn giả Moggalàna! Vì rằng, giữa Ðạo sư và nam đệ tử, ý nghĩa với ý nghĩa, văn ngôn với văn ngôn có sự tương đồng, có sự tương hòa, không có sự mâu thuẫn, tức là tối thượng văn cú. |
9. Kutūhalasālāsuttaṃ | IX. Luận Nghị Ðường (Kutùhalasàlà) (S.iv,398) |
418. Atha kho vacchagotto paribbājako yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho vacchagotto paribbājako bhagavantaṃ etadavoca – | 1). .. 2) Rồi du sĩ Vacchagotta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi một bên, du sĩ Vacchagotta thưa với Thế Tôn: |
‘‘Purimāni, bho gotama, divasāni purimatarāni sambahulānaṃ nānātitthiyānaṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ paribbājakānaṃ kutūhalasālāyaṃ sannisinnānaṃ sannipatitānaṃ ayamantarākathā udapādi – ‘ayaṃ kho pūraṇo kassapo saṅghī ceva gaṇī ca gaṇācariyo ca ñāto yasassī titthakaro sādhusammato bahujanassa. Sopi sāvakaṃ abbhatītaṃ kālaṅkataṃ upapattīsu byākaroti – ‘asu amutra upapanno, asu amutra upapanno’ti. Yopissa sāvako uttamapuriso paramapuriso paramapattipatto tampi sāvakaṃ abbhatītaṃ kālaṅkataṃ upapattīsu byākaroti – ‘asu amutra upapanno, asu amutra upapanno’’’ti. | — Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi tụ tập, tụ hội tại Luận nghị đường, và câu chuyện sau đây được khởi lên: “Vị Pùrana Kassapa này là vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng”. Khi nói về một đệ tử từ trần, mệnh chung, họ nói sanh xứ của vị ấy như sau: “Vị này sanh tại chỗ này. Vị này sanh tại chỗ này”. Nếu đệ tử là vị thượng nhân, tối thượng nhân, đã đạt địa vị tối thắng, khi vị này từ trần, mệnh chung, họ nói sanh xứ của vị ấy như sau: “Vị này sanh tại chỗ này. Vị này sanh tại chỗ này”. |
‘‘Ayampi kho makkhali gosālo…pe… ayampi kho nigaṇṭho nāṭaputto…pe… ayampi kho sañcayo [sañjayo (sī. syā. kaṃ. pī.)] belaṭṭhaputto…pe… ayampi kho pakudho [pakuddho (pī.)] kaccāno…pe… ayampi kho ajito kesakambalo saṅghī ceva gaṇī ca gaṇācariyo ca ñāto yasassī titthakaro sādhusammato bahujanassa. Sopi sāvakaṃ abbhatītaṃ kālaṅkataṃ upapattīsu byākaroti – ‘asu amutra upapanno, asu amutra upapanno’ti. Yopissa sāvako uttamapuriso paramapuriso paramapattipatto tampi sāvakaṃ abbhatītaṃ kālaṅkataṃ upapattīsu byākaroti – ‘asu amutra upapanno, asu amutra upapanno’’’ti. | 4-9) Makkhali Gosàla… Nigantha Nàtaputta… Sanjaya Belatthiputta… Pakuddha Kaccàyana… vị Ajita Kesakambala này là vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng. Khi nói về một đệ tử từ trần, mệnh chung, họ nói sanh xứ của vị ấy như sau: “Vị này sanh tại chỗ này. Vị này sanh tại chỗ này”. Nếu đệ tử là vị thượng nhân, tối thượng nhân, đã đạt địa vị tối thắng, khi vị này từ trần, mệnh chung, họ nói sanh xứ của vị ấy như sau: “Vị này sanh tại chỗ này. Vị này sanh tại chỗ này”. |
‘‘Ayampi kho samaṇo gotamo saṅghī ceva gaṇī ca gaṇācariyo ca ñāto yasassī titthakaro sādhusammato bahujanassa. Sopi sāvakaṃ abbhatītaṃ kālaṅkataṃ upapattīsu byākaroti – ‘asu amutra upapanno, asu amutra upapanno’ti. Yopissa [yo ca khvassa (pī.)] sāvako uttamapuriso paramapuriso paramapattipatto tañca sāvakaṃ abbhatītaṃ kālaṅkataṃ upapattīsu na byākaroti – ‘asu amutra upapanno, asu amutra upapanno’ti. Api ca kho naṃ evaṃ byākaroti – ‘acchecchi taṇhaṃ, vivattayi saṃyojanaṃ, sammā mānābhisamayā antamakāsi dukkhassā’ti. Tassa mayhaṃ, bho gotama, ahu deva kaṅkhā, ahu vicikicchā – ‘kathaṃ nāma [kathañhi nāma (syā. kaṃ. pī. ka.) kathaṃ kathaṃ nāma (chakkaṅguttare pañcamavagge dutiyasutte)] samaṇassa gotamassa dhammo abhiññeyyo’’’ti [dhammābhiññeyyāti (pī. ka.) dhammo… aññeyyo (chakkaṅguttare)]? | 10) Còn Sa-môn Gotama này là vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng. Khi nói về một đệ tử đã từ trần, đã mệnh chung, Sa-môn Gotama nói sanh xứ của vị ấy như sau: “Vị này sanh tại chỗ này. Vị này sanh tại chỗ này”. Nếu đệ tử là bậc thượng nhân, tối thắng nhân đã đạt địa vị tối thượng, khi vị này từ trần, mệnh chung, Sa-môn Gotama không có trả lời: “Vị này sanh tại chỗ này. Vị này sanh tại chỗ này”. Nhưng Ngài nói về vị ấy như sau: “Vị ấy đã chặt đứt ái, đã phá hủy các kiết phược, nhờ chơn chánh thấy rõ kiêu mạn, đã đoạn tận khổ đau”. 11) Thưa Tôn giả Gotama, con có khởi lên phân vân và nghi ngờ như sau: “Như thế nào, cần phải thấu hiểu pháp của Sa-môn Gotama?” |
‘‘Alañhi te, vaccha, kaṅkhituṃ, alaṃ vicikicchituṃ. Kaṅkhanīye ca pana te ṭhāne vicikicchā uppannā. Saupādānassa khvāhaṃ, vaccha, upapattiṃ paññāpemi no anupādānassa. Seyyathāpi, vaccha, aggi saupādāno jalati, no anupādāno; evameva khvāhaṃ, vaccha, saupādānassa upapattiṃ paññāpemi, no anupādānassā’’ti. | 12) — Này Vaccha, thôi vừa rồi sự phân vân của Ông. Thôi vừa rồi sự nghi ngờ của Ông. Chính do trên điểm Ông phân vân mà nghi ngờ được khởi lên. Ta tuyên bố sự sanh khởi, này Vaccha, đối với những ai có chấp thủ, không phải đối với ai không có chấp thủ. 13) Ví như, này Vaccha, một ngọn lửa cháy đỏ khi nào có nhiên liệu (saupàdàna), không phải không có nhiên liệu. Cũng vậy, này Vaccha, Ta tuyên bố về sanh khởi đối với người có chấp thủ (sanh y), không phải với người không có chấp thủ. |
‘‘Yasmiṃ, bho gotama, samaye acci vātena khittā dūrampi gacchati, imassa pana bhavaṃ gotamo kiṃ upādānasmiṃ paññāpetī’’ti? ‘‘Yasmiṃ kho, vaccha, samaye acci vātena khittā dūrampi gacchati, tamahaṃ vātūpādānaṃ paññāpemi. Vāto hissa, vaccha, tasmiṃ samaye upādānaṃ hotī’’ti. ‘‘Yasmiñca pana, bho gotama, samaye imañca kāyaṃ nikkhipati, satto ca aññataraṃ kāyaṃ anupapanno hoti, imassa pana bhavaṃ gotamo kiṃ upādānasmiṃ paññāpetī’’ti? ‘‘Yasmiṃ kho, vaccha, samaye imañca kāyaṃ nikkhipati, satto ca aññataraṃ kāyaṃ anupapanno hoti, tamahaṃ taṇhūpādānaṃ vadāmi. Taṇhā hissa, vaccha, tasmiṃ samaye upādānaṃ hotī’’ti [hotīti…pe… (ka.)]. Navamaṃ. | 14) — Thưa Tôn giả Gotama, trong khi có gió thổi ngọn lửa đi thật xa, thời Tôn giả Gotama tuyên bố cái gì làm nhiên liệu cho ngọn lửa này? — Này Vaccha, trong khi có gió thổi ngọn lửa đi thật xa, thời Ta nói chính gió là nhiên liệu. Trong khi ấy, này Vaccha, chính gió là nhiên liệu (upàdàna). 15) — Thưa Tôn giả Gotama, trong khi một loài hữu tình quăng bỏ thân này để sanh vào một thân khác, thời Tôn giả Gotama tuyên bố cái gì làm nhiên liệu cho thân này? — Này Vaccha, trong khi một loài hữu tình quăng bỏ thân này và sanh vào một thân khác, này Vaccha, Ta tuyên bố rằng trong khi ấy chính ái (tanhà) là nhiên liệu (upàdànam). |
10. Ānandasuttaṃ | X. Ananda (hay Sự có mặt của ngã) (S.iv,400) |
419. Atha kho vacchagotto paribbājako yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho vacchagotto paribbājako bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kiṃ nu kho, bho gotama, atthattā’’ti? Evaṃ vutte, bhagavā tuṇhī ahosi. ‘‘Kiṃ pana, bho gotama, natthattā’’ti? Dutiyampi kho bhagavā tuṇhī ahosi. Atha kho vacchagotto paribbājako uṭṭhāyāsanā pakkāmi. | 1). .. 2) Rồi du sĩ Vacchagotta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi một bên, du sĩ Vacchagotta thưa với Thế Tôn: — Thưa Tôn giả Gotama, có tự ngã không? Khi được hỏi vậy, Thế Tôn im lặng. — Thưa Tôn giả Gotama, có tự ngã không? Lần thứ hai, Tôn giả Gotama giữ im lặng. |
Atha kho āyasmā ānando acirapakkante vacchagotte paribbājake bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kiṃ nu kho, bhante, bhagavā vacchagottassa paribbājakassa pañhaṃ puṭṭho na byākāsī’’ti? ‘‘Ahañcānanda, vacchagottassa paribbājakassa ‘atthattā’ti puṭṭho samāno ‘atthattā’ti byākareyyaṃ, ye te, ānanda, samaṇabrāhmaṇā sassatavādā tesametaṃ saddhiṃ [tesametaṃ laddhi (sī.)] abhavissa. Ahañcānanda, vacchagottassa paribbājakassa ‘natthattā’ti puṭṭho samāno ‘natthattā’ti byākareyyaṃ, ye te, ānanda, samaṇabrāhmaṇā ucchedavādā tesametaṃ saddhiṃ abhavissa. Ahañcānanda, vacchagottassa paribbājakassa ‘atthattā’ti puṭṭho samāno ‘atthattā’ti byākareyyaṃ, api nu me taṃ, ānanda, anulomaṃ abhavissa ñāṇassa uppādāya – ‘sabbe dhammā anattā’’’ti? ‘‘No hetaṃ, bhante’’. ‘‘Ahañcānanda, vacchagottassa paribbājakassa ‘natthattā’ti puṭṭho samāno ‘natthattā’ti byākareyyaṃ, sammūḷhassa, ānanda, vacchagottassa paribbājakassa bhiyyo sammohāya abhavissa – ‘ahuvā me nūna pubbe attā, so etarahi natthī’’’ti. Dasamaṃ. | Rồi du sĩ Vacchagotta từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. 4) Rồi Tôn giả Ananda, sau khi du sĩ Vacchagotta ra đi không bao lâu, liền bạch Thế Tôn: — Bạch Thế Tôn, vì sao Thế Tôn không trả lời câu hỏi của du sĩ Vacchagotta? 5) — Này Ananda, nếu được hỏi: “Có tự ngã không?”, và Ta trả lời cho du sĩ Vacchagotta là: “Có tự ngã”, như vậy, này Ananda, thuộc về phái các Sa-môn, Bà-la-môn chấp thường kiến. 6) Và này Ananda, nếu được hỏi: “Có phải không có tự ngã?”Và Ta trả lời cho du sĩ Vacchagotta là: “Không có tự ngã”, như vậy, này Ananda, là thuộc về phái các Sa-môn, Bà-la-môn chấp đoạn kiến. 7) Lại nữa, này Ananda, nếu được hỏi: “Có tự ngã không?” và Ta trả lời cho du sĩ Vacchagotta là: “Có tự ngã”, như vậy, câu trả lời của Ta có phù hợp với trí khởi lên rằng: “Tất cả các pháp là vô ngã”? — Thưa không, bạch Thế Tôn. 8) — Lại nữa, này Ananda, nếu được hỏi: “Có phải không có tự ngã?” và Ta trả lời cho du sĩ Vacchagotta là: “Không có tự ngã”, như vậy, này Ananda, lại làm cho du sĩ Vacchagotta càng ngơ ngác bối rối hơn nữa: “Trước đây ta có tự ngã, nay không có tự ngã nữa”. |
11. Sabhiyakaccānasuttaṃ | XI.Sabhiya (S.iv,401) |
420. Ekaṃ samayaṃ āyasmā sabhiyo kaccāno ñātike viharati giñjakāvasathe. Atha kho vacchagotto paribbājako yenāyasmā sabhiyo kaccāno tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā sabhiyena kaccānena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho vacchagotto paribbājako āyasmantaṃ sabhiyaṃ kaccānaṃ etadavoca – ‘‘kiṃ nu kho bho, kaccāna, hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti? ‘‘Abyākataṃ kho etaṃ, vaccha, bhagavatā – ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. ‘‘Kiṃ pana, bho kaccāna, na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti? ‘‘Etampi kho, vaccha, abyākataṃ bhagavatā – ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. | 1) Một thời, Tôn giả Sabhiya Kaccàna trú ở Nàtika, tại ngôi nhà bằng gạch. 2) Rồi du sĩ Vacchagotta đi đến Tôn giả Sabhiya Kaccàna; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sabhiya Kaccàna những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi một bên, du sĩ Vacchagotta nói với Tôn giả Sabhiya Kaccàna như sau: — Thưa Tôn giả Kaccàna, có phải Như Lai có tồn tại sau khi chết? — Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời: “Như Lai có tồn tại sau khi chết”. 4) — Thế là, thưa Tôn giả Kaccàna, Như Lai không tồn tại sau khi chết? — Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả lời: “Như Lai không tồn tại sau khi chết”. 5) Thế là, thưa Tôn giả Kaccàna, Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết? |
‘‘Kiṃ nu kho, bho kaccāna, hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti? ‘‘Abyākataṃ kho etaṃ, vaccha, bhagavatā – ‘hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. ‘‘Kiṃ pana, bho kaccāna, neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’ti? ‘‘Etampi kho, vaccha, abyākataṃ bhagavatā – ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’’ti. | — Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả lời: “Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết”. 6) — Thế là, thưa Tôn giả Kaccàna, Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết? — Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả lời: “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”. |
‘‘‘Kiṃ nu kho, bho kaccāna, hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti, iti puṭṭho samāno – ‘abyākataṃ kho etaṃ, vaccha, bhagavatā – hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vadesi. ‘Kiṃ pana, bho kaccāna, na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti, iti puṭṭho samāno – ‘abyākataṃ kho etaṃ, vaccha, bhagavatā – na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vadesi. ‘Kiṃ nu kho, bho kaccāna, hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti, iti puṭṭho samāno – ‘abyākataṃ kho etaṃ, vaccha, bhagavatā – hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vadesi. ‘Kiṃ pana, bho kaccāna, neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti, iti puṭṭho samāno – ‘etampi kho, vaccha, abyākataṃ bhagavatā – neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti vadesi. Ko nu kho, bho kaccāna, hetu, ko paccayo, yenetaṃ abyākataṃ samaṇena gotamenā’’ti? ‘‘Yo ca, vaccha, hetu, yo ca paccayo paññāpanāya rūpīti vā arūpīti vā saññīti vā asaññīti vā nevasaññīnāsaññīti vā, so ca hetu, so ca paccayo sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ aparisesaṃ nirujjheyya. Kena naṃ paññāpayamāno paññāpeyya rūpīti vā arūpīti vā saññīti vā asaññīti vā nevasaññīnāsaññīti vā’’ti. ‘‘Kīvaciraṃ pabbajitosi, bho kaccānā’’ti? ‘‘Naciraṃ, āvuso, tīṇi vassānī’’ti. ‘‘Yassapa’ssa, āvuso, etamettakena ettakameva taṃpa’ssa bahu, ko pana vādo evaṃ [ko pana vādo eva (sī. pī.)] abhikkante’’ti! Ekādasamaṃ. | 7) — Thưa Tôn giả Kaccàna, vì sao khi được hỏi: “Như Lai có tồn tại sau khi chết?”, Tôn giả lại nói: “Này Vaccha, Thế Tôn không có trả lời: ‘Như Lai có tồn tại sau khi chết’”? 8) Thưa Tôn giả Kaccàna, vì sao khi được hỏi: “Như Lai không có tồn tại sau khi chết?”, Tôn giả lại nói: “Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời: ‘Như Lai không có tồn tại sau khi chết””? 9) Thưa Tôn giả Kaccàna, vì sao khi được hỏi: “Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết?”, Tôn giả lại nói: “Này Vaccha, Thế Tôn không trả lời: ‘Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết’”? 10) Thưa Tôn giả Kaccàna, vì sao khi được hỏi: “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?” Tôn giả lại nói: “Này Vaccha, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết””. 11) Thưa Tôn giả Kaccàna, do nhân gì, do duyên gì, Sa-môn Gotama lại không trả lời về vấn đề ấy? 12) — Này Vaccha, do nhân gì, do duyên gì, mà trình bày người ấy là có sắc, hay không có sắc, có tưởng hay không có tưởng, không có tưởng hay không không có tưởng, thì khi nhân ấy, duyên ấy được đoạn diệt không có dư tàn, một cách toàn diện, một cách hoàn toàn, khi ấy lấy cái gì để trình bày người ấy là có sắc, hay không có sắc, có tưởng hay không có tưởng, không có tưởng hay không không có tưởng? 13) — Này Tôn giả Kaccàna, Tôn giả xuất gia đã bao lâu? — Thưa Hiền giả, không lâu, chỉ có ba năm. 14) — Hãy xem, với thời gian ngắn như vậy, lại được thấy nhiều như vậy. Còn nói gì đến các vấn đề vi diệu! |
Abyākatasaṃyuttaṃ samattaṃ. | |
Tassuddānaṃ – | |
Khemātherī anurādho, sāriputtoti koṭṭhiko; | |
Moggallāno ca vaccho ca, kutūhalasālānando; | |
Sabhiyo ekādasamanti; | |
Saḷāyatanavaggo catuttho. | |
Tassuddānaṃ – | |
Saḷāyatanavedanā, mātugāmo jambukhādako; | |
Sāmaṇḍako moggallāno, citto gāmaṇi saṅkhataṃ; | |
Abyākatanti dasadhāti. | |
Saḷāyatanavaggasaṃyuttapāḷi niṭṭhitā. | -Hết Tập IV- |