9. Vanasaṃyuttaṃ

[09] Chương IX – Tương ưng rừng

Tipitaka.org Việt dịch: HT. Thích Minh Châu
1. Vivekasuttaṃ I. Viễn Ly (S.i,197)
221. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ aññataro bhikkhu kosalesu viharati aññatarasmiṃ vanasaṇḍe. Tena kho pana samayena so bhikkhu divāvihāragato pāpake akusale vitakke vitakketi gehanissite. Atha kho yā tasmiṃ vanasaṇḍe adhivatthā devatā tassa bhikkhuno anukampikā atthakāmā taṃ bhikkhuṃ saṃvejetukāmā yena so bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ gāthāhi ajjhabhāsi – 1) Như vầy tôi nghe. Một thời, một Tỷ-kheo trú giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng. 2) Lúc bấy giờ Tỷ-kheo ấy, trong lúc đi nghỉ ban ngày, khởi lên những tư tưởng ác, bất thiện, liên hệ đến gia đình. 3) Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy, thương xót Tỷ-kheo ấy, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác, liền đi đến Tỷ-kheo ấy. 4) Sau khi đến, vị Thiện ấy nói lên những bài kệ với vị Tỷ-kheo này:
‘‘Vivekakāmosi vanaṃ paviṭṭho, Ông ước muốn viễn ly, Đã sống trong rừng núi,
Atha te mano niccharatī bahiddhā; Nay tâm Ông vọng động, Dong duổi theo ngoại giới.
Jano janasmiṃ vinayassu chandaṃ, Ông đối mặt với Ông, Hãy chế ngự lòng dục,
Tato sukhī hohisi vītarāgo. Nhờ vậy, Ông hạnh phúc, Thoát ly được tham ái.
‘‘Aratiṃ pajahāsi sato, bhavāsi sataṃ taṃ sārayāmase; Hãy từ bỏ bất mãn, Sống an trú chánh niệm,
Pātālarajo hi duttaro, mā taṃ kāmarajo avāhari. Ông thành người hiền thiện, Được chúng tôi tán thán.
‘‘Sakuṇo yathā paṃsukunthito [paṃsukuṇṭhito (ka.), paṃsukuṇḍito (sī. syā. kaṃ. pī.)], vidhunaṃ pātayati sitaṃ rajaṃ; Trừ bụi trần địa ngục, Thật rất khó vượt qua,
Evaṃ bhikkhu padhānavā satimā, vidhunaṃ pātayati sitaṃ raja’’nti. Ông chớ vận chuyển theo, Các bụi trần dục vọng,
  Như chim, thân dính bụi, Rung thân khiến bụi rơi.
  Cũng vậy vị Tỷ-kheo, Tinh cần, trú chánh niệm,
  Vùng vẫy khiến rơi rớt, Những bụi đời dính thân.
Atha kho so bhikkhu tāya devatāya saṃvejito saṃvegamāpādīti. 5) Tỷ-kheo ấy được vị Thiên cảnh giác, tâm hết sức xúc động.
2. Upaṭṭhānasuttaṃ II. Săn Sóc, Hầu Hạ (S.i,197)
222. Ekaṃ samayaṃ aññataro bhikkhu kosalesu viharati aññatarasmiṃ vanasaṇḍe. Tena kho pana samayena so bhikkhu divāvihāragato supati. Atha kho yā tasmiṃ vanasaṇḍe adhivatthā devatā tassa bhikkhuno anukampikā atthakāmā taṃ bhikkhuṃ saṃvejetukāmā yena so bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ gāthāhi ajjhabhāsi – 1) Một thời, một Tỷ-kheo trú giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng. 2) Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo ấy đang ngủ ngày. 3) Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy, thương xót Tỷ-kheo ấy, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác, liền đi đến Tỷ-kheo ấy. 4) Sau khi đến, vị ấy nói lên những bài kệ cho Tỷ-kheo ấy:
‘‘Uṭṭhehi bhikkhu kiṃ sesi, ko attho supitena [supinena (sī.)] te; Tỷ-kheo, hãy thức dậy, Sao Ông hãy còn nằm?
Āturassa hi kā niddā, sallaviddhassa ruppato. Ông được lợi ích gì, Trong giấc ngủ của ông?
‘‘Yāya saddhāya pabbajito [yāya saddhāpabbajito (sī. syā. kaṃ.)], agārasmānagāriyaṃ; Kẻ bịnh, kẻ trúng tên, Bị đánh sao ngủ được?
Tameva saddhaṃ brūhehi, mā niddāya vasaṃ gamī’’ti. Vì lòng tin, xuất gia, Bỏ nhà, sống không nhà,
  Tín ấy cần phát triển, Chớ để ngủ chinh phục.
  5) (Vị Tỷ-kheo):
‘‘Aniccā addhuvā kāmā, yesu mandova mucchito; Các dục là vô thường, Chỉ kẻ ngu say đắm,
Baddhesu [khandhesu (sī.)] muttaṃ asitaṃ, kasmā pabbajitaṃ tape. Đã giải thoát triền phược, Không còn bị ái trước.
‘‘Chandarāgassa vinayā, avijjāsamatikkamā; Hạnh xuất gia như vậy, Sao để dục nhiệt não?
Taṃ ñāṇaṃ paramodānaṃ [pariyodātaṃ (sī. pī.), paramodātaṃ (syā. kaṃ.), paramavodānaṃ (sī. aṭṭha.)], kasmā pabbajitaṃ tape. Đã nhiếp phục dục ái, Vượt thoát (lưới) vô minh,
‘‘Chetvā [bhetvā (sī. syā. kaṃ. pī.)] avijjaṃ vijjāya, āsavānaṃ parikkhayā; Với chánh trí thanh tịnh, Hạnh xuất gia như vậy,
Asokaṃ anupāyāsaṃ, kasmā pabbajitaṃ tape. Sao để dục nhiệt não? Với minh phá vô minh,
‘‘Āraddhavīriyaṃ pahitattaṃ, niccaṃ daḷhaparakkamaṃ; Đoạn diệt các lậu hoặc, Không sầu, không ưu não,
Nibbānaṃ abhikaṅkhantaṃ, kasmā pabbajitaṃ tape’’ti. Hạnh xuất gia như vậy, Sao để dục nhiệt não?
  Tinh tấn và nhiệt tâm, Thường dõng mãnh cầu tiến,
  Hướng vọng đến Niết-bàn, Hạnh xuất gia như vậy, Sao để dục nhiệt não? 
3. Kassapagottasuttaṃ III. Kassapagotta: Thợ Săn: (S.i,198)
223. Ekaṃ samayaṃ āyasmā kassapagotto kosalesu viharati aññatarasmiṃ vanasaṇḍe. Tena kho pana samayena āyasmā kassapagotto divāvihāragato aññataraṃ chetaṃ ovadati. Atha kho yā tasmiṃ vanasaṇḍe adhivatthā devatā āyasmantaṃ kassapagottaṃ saṃvejetukāmā yenāyasmā kassapagotto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ kassapagottaṃ gāthāhi ajjhabhāsi – 1) Một thời, Tôn giả Kassapagotta trú giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng. 2) Lúc bấy giờ, Tôn giả Kassapagotta, trong khi nghỉ ban ngày, khuyên dạy một người thợ săn. 3) Một vị Thiên trú ở khu rừng ấy, thương xót Tỷ-kheo ấy, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác, liền đi đến Tỷ-kheo ấy. 4) Sau khi đến, vị ấy nói lên những bài kệ với Tôn giả Kassapagotta:
‘‘Giriduggacaraṃ chetaṃ, appapaññaṃ acetasaṃ; Trên sườn núi cheo leo, Người thợ săn đang trèo,
Akāle ovadaṃ bhikkhu, mandova paṭibhāti maṃ. Là hạng người thiếu trí, Không sáng suốt, ngu si,
‘‘Suṇāti na vijānāti, āloketi na passati; Tỷ-kheo có khuyên dạy, Thật uổng phí thời gian.
Dhammasmiṃ bhaññamānasmiṃ, atthaṃ bālo na bujjhati. Ta nghĩ làm như vậy, Tự tỏ thiếu trí tuệ.
‘‘Sacepi dasa pajjote, dhārayissasi kassapa; Có nghe cũng không hiểu, Có nhìn cũng không thấy,
Neva dakkhati rūpāni, cakkhu hissa na vijjatī’’ti. Dầu cho có thuyết pháp, Kẻ ngu không thấy đích.
  Tôn giả Kassapa, Nếu Ông có cầm tay
  Cho đến mười bó đuốc, Người ấy không thấy được,
  Các sắc pháp đối diện, Vì người ấy không mắt.
Atha kho āyasmā kassapagotto tāya devatāya saṃvejito saṃvegamāpādīti. 5) Tôn giả Kassapagotta được vị Thiên ấy cảnh giác, tâm hết sức xúc động.
4. Sambahulasuttaṃ IV. Đa Số hay Du Hành (S.i,199)
224. Ekaṃ samayaṃ sambahulā bhikkhū kosalesu viharanti aññatarasmiṃ vanasaṇḍe. Atha kho te bhikkhū vassaṃvuṭṭhā [vassaṃvutthā (sī. syā. kaṃ. pī.)] temāsaccayena cārikaṃ pakkamiṃsu. Atha kho yā tasmiṃ vanasaṇḍe adhivatthā devatā te bhikkhū apassantī paridevamānā tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi – 1) Một thời, nhiều Tỷ-kheo trú giữa dân chúng Kosala tại một khu rừng. 2) Các Tỷ-kheo ấy an cư mùa mưa xong, sau ba tháng, bắt đầu đi du hành. 3) Một vị Thiên trú ở khu rừng ấy, không thấy các Tỷ-kheo ấy, liền than van, ưu buồn, ngay lúc ấy nói lên bài kệ này:
‘‘Arati viya mejja khāyati, Hôm nay tâm của ta, Cảm thấy không vui vẻ,
Bahuke disvāna vivitte āsane; Khi thấy nhiều chỗ ngồi, Trống không, không có người.
Te cittakathā bahussutā, Những bậc Đa văn ấy, Thuyết pháp thật mỹ diệu.
Kome gotamasāvakā gatā’’ti. Đệ tử Gotama, Hiện nay đang ở đâu?
Evaṃ vutte, aññatarā devatā taṃ devataṃ gāthāya paccabhāsi – 4) Khi nghe nói vậy, một vị Thiên khác nói lên những bài kệ cho vị Thiên ấy:
‘‘Māgadhaṃ gatā kosalaṃ gatā, ekacciyā pana vajjibhūmiyā; Họ đi Magadha, Họ đi Kosala, Và một số vị ấy, Đi đến đất Vajjà.
Magā viya asaṅgacārino, aniketā viharanti bhikkhavo’’ti. Như nai thoát bẫy sập, Chạy nhảy khắp bốn phương. Tỷ-kheo không nhà cửa, Sống giải thoát như vậy.
5. Ānandasuttaṃ V. Ananda (S.i,199)
225. Ekaṃ samayaṃ āyasmā ānando kosalesu viharati aññatarasmiṃ vanasaṇḍe. Tena kho pana samayena āyasmā ānando ativelaṃ gihisaññattibahulo viharati. Atha kho yā tasmiṃ vanasaṇḍe adhivatthā devatā āyasmato ānandassa anukampikā atthakāmā āyasmantaṃ ānandaṃ saṃvejetukāmā yenāyasmā ānando tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ gāthāya ajjhabhāsi – 1) Một thời, Tôn giả Ananda trú giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng. 2) Lúc bấy giờ, Tôn giả Ananda sống quá bận rộn bởi nhiều liên hệ với cư sĩ. 3) Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy thương xót Tôn giả Ananda, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác, liền đi đến Tôn giả Ananda. Sau khi đến, vị ấy nói lên những bài kệ với Tôn giả Ananda:
‘‘Rukkhamūlagahanaṃ pasakkiya, nibbānaṃ hadayasmiṃ opiya; Ông đã quyết lựa chọn, Đời sống dưới gốc cây, Tâm Ông quyết nhập một Với mục đích Niết-bàn.
Jhā gotama mā pamādo [mā ca pamādo (sī. pī.)], kiṃ te biḷibiḷikā karissatī’’ti. Cù-đàm, hãy Thiền tư, Và sống, chớ phóng dật, Đối với Ông, ích gì, Tạp thoại, vô vị ấy?
Atha kho āyasmā ānando tāya devatāya saṃvejito saṃvegamāpādīti. 4) Tôn giả Ananda, được vị Thiên ấy cảnh giác, tâm hết sức xúc động.
6. Anuruddhasuttaṃ VI. Anuruddha. (S.i,200)
226. Ekaṃ samayaṃ āyasmā anuruddho kosalesu viharati aññatarasmiṃ vanasaṇḍe. Atha kho aññatarā tāvatiṃsakāyikā devatā jālinī nāma āyasmato anuruddhassa purāṇadutiyikā yenāyasmā anuruddho tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ anuruddhaṃ gāthāya ajjhabhāsi – 1) Một thời Tôn giả Anuruddha trú ở giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng. 2) Rồi một Thiên nữ ở chúng Tàvatimsa, tên là Jàlinii, đời trước là vợ của Tôn giả Anuruddha, đi đến Tôn giả Anuruddha. 3) Sau khi đến, vị ấy nói lên bài kệ với Tôn giả Anuruddha:
‘‘Tattha cittaṃ paṇidhehi, yattha te vusitaṃ pure; Hãy hướng tâm tư Ông, Vào đời trước của Ông, 
Tāvatiṃsesu devesu, sabbakāmasamiddhisu; Giữa Tam thập tam thiên, Mọi ái dục thành tựu, Và Ông được chói sáng, Giữa Thiên nữ đoanh vây.
Purakkhato parivuto, devakaññāhi sobhasī’’ti. Đối với Ông, ích gì, Tạp thoại, vô vị ấy?
  4) (Anuruddha):
‘‘Duggatā devakaññāyo, sakkāyasmiṃ patiṭṭhitā; Bất hạnh thay Thiên nữ, Họ kiên trú thân kiến,
Te cāpi duggatā sattā, devakaññāhi patthitā’’ti. Cũng bất hạnh, họ sanh, Bị Thiên nữ chinh phục.
  5) (Jàlinii):
‘‘Na te sukhaṃ pajānanti, ye na passanti nandanaṃ; Họ chưa biết hạnh phúc, Chưa thấy Dandana,
Āvāsaṃ naradevānaṃ, tidasānaṃ yasassina’’nti. Trú xứ các Thiền nhơn, Danh xưng giới Tam thập.
  6) (Anuruddha):
‘‘Na tvaṃ bāle vijānāsi, yathā arahataṃ vaco; Kẻ ngu, Bà không biết, Lời nói bậc La-hán,
Aniccā sabbasaṅkhārā, uppādavayadhammino; Mọi hành là vô thường, Phải chịu luật sanh diệt,
Uppajjitvā nirujjhanti, tesaṃ vūpasamo sukho. Chúng sanh rồi chúng diệt, Nhiếp chúng là an lạc.
‘‘Natthi dāni punāvāso, devakāyasmi jālini; Hiện nay đối với ta, Không còn chỗ trú xứ,
Vikkhīṇo jātisaṃsāro, natthi dāni punabbhavo’’ti. Trên cảnh giới chư Thiên, Ôi này Jàlinì!
  Đường sanh tử đứt đoạn, Nay tái sanh không còn.
7. Nāgadattasuttaṃ VII. Nàgadatta (S.i,200)
227. Ekaṃ samayaṃ āyasmā nāgadatto kosalesu viharati aññatarasmiṃ vanasaṇḍe. Tena kho pana samayena āyasmā nāgadatto atikālena gāmaṃ pavisati, atidivā paṭikkamati. Atha kho yā tasmiṃ vanasaṇḍe adhivatthā devatā āyasmato nāgadattassa anukampikā atthakāmā āyasmantaṃ nāgadattaṃ saṃvejetukāmā yenāyasmā nāgadatto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ nāgadattaṃ gāthāhi ajjhabhāsi – 1) Một thời Tôn giả Nàgadatta trú giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng. 2) Lúc bấy giờ, Tôn giả Nàgadatta đi vào làng quá sớm và trở về quá chiều. 3) Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy, thương xót Tôn giả Nàgadatta, muốn lợi ích, muốn cảnh giác, liền đi đến Tôn giả Nàgadatta. 4) Sau khi đến, vị ấy nói lên những bài kệ với Tôn giả Nàgadatta:
‘‘Kāle pavisa nāgadatta, divā ca āgantvā ativelacārī; Này Nàgadatta, Hãy vào (làng) đúng thời, Và khi từ làng về, Hãy về cho thật sớm.
Saṃsaṭṭho gahaṭṭhehi, samānasukhadukkho. Ông sống quá liên hệ, Với các hàng cư sĩ, Bị vấn vương quá nhiều, Những cảm thọ khổ lạc.
‘‘Bhāyāmi nāgadattaṃ suppagabbhaṃ, kulesu vinibaddhaṃ; Ta sợ kẻ bạt mạng, Nàgadatta này, Lại bị trói, bị buộc, Trong gia đình thế sự.
Mā heva maccurañño balavato, antakassa vasaṃ upesī’’ti [vasameyyāti (sī. pī.), vasamesīti (syā. kaṃ.)]. Chớ để mình rơi vào, Cường lực của tử thần, Làm sao tránh né được, Khỏi Ác ma chi phối!
Atha kho āyasmā nāgadatto tāya devatāya saṃvejito saṃvegamāpādīti. 5) Tôn giả Nàgadatta được vị Thiên ấy cảnh giác, tâm hết sức xúc động.
8. Kulagharaṇīsuttaṃ VIII. Gia Phụ hay Say Đắm (S.i,201)
228. Ekaṃ samayaṃ aññataro bhikkhu kosalesu viharati aññatarasmiṃ vanasaṇḍe. Tena kho pana samayena so bhikkhu aññatarasmiṃ kule ativelaṃ ajjhogāḷhappatto viharati. Atha kho yā tasmiṃ vanasaṇḍe adhivatthā devatā tassa bhikkhuno anukampikā atthakāmā taṃ bhikkhuṃ saṃvejetukāmā yā tasmiṃ kule kulagharaṇī, tassā vaṇṇaṃ abhinimminitvā yena so bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ gāthāya ajjhabhāsi – 1) Một thời, một Tỷ-kheo trú ở giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng. 2) Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo ấy sống thân mật quá đáng đối với một gia đình. 3) Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy, vì thương xót Tỷ-kheo ấy, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác vị ấy, biến hình thành gia phụ của gia đình ấy và đi đến Tỷ-kheo ấy. 4) Sau khi đến, vị ấy nói lên những bài kệ với Tỷ-kheo ấy:
‘‘Nadītīresu saṇṭhāne, sabhāsu rathiyāsu ca; Trên bờ sông, cửa chợ, Tại trạm nghỉ, lộ trình, Dân chúng thường tập hợp,
Janā saṅgamma mantenti, mañca tañca [tvañca (ka.)] kimantara’’nti. Tranh luận liền khởi lên. Giữa ta và giữa Ông, Có gì là sai khác?
  5) (Vị Tỷ-kheo):
‘‘Bahūhi saddā paccūhā, khamitabbā tapassinā; Nhiều tiếng qua tiếng lại, Bậc khổ hạnh kham nhẫn,
Na tena maṅku hotabbaṃ, na hi tena kilissati. Chớ cảm thấy bực phiền, Chớ phát sinh nhiễm trước.
‘‘Yo ca saddaparittāsī, vane vātamigo yathā; Ai bị tiếng rối loạn, Như nai trong rừng rú,
Lahucittoti taṃ āhu, nāssa sampajjate vata’’nti. Được gọi là khinh tâm, Khó tu hành thành tựu.
9. Vajjiputtasuttaṃ IX. Vajjiputta: Bạt-kỳ Tử hay Tỳ-xá-lỵ (S.i,201)
229. Ekaṃ samayaṃ aññataro vajjiputtako bhikkhu vesāliyaṃ viharati aññatarasmiṃ vanasaṇḍe. Tena kho pana samayena vesāliyaṃ vajjiputtako sabbaratticāro hoti. Atha kho so bhikkhu vesāliyā tūriya-tāḷita-vādita-nigghosasaddaṃ sutvā paridevamāno tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi – 1) Một thời, một Tỷ-kheo Vajjiputtaka trú ở Vesàli tại một khu rừng. 2) Lúc bấy giờ một cuộc lễ được tổ chức suốt đêm ở Vesàli. 3) Tỷ-kheo ấy được nghe tiếng nhạc khí, tiếng cồng v.v… đánh lên, tiếng ồn ào khởi lên, liền than thở, nói lên ngay lúc ấy những bài kệ này:
‘‘Ekakā mayaṃ araññe viharāma, Chúng ta sống một mình, Trong khu rừng cô độc,
Apaviddhaṃva [apaviṭṭhaṃva (syā. kaṃ.)] vanasmiṃ dārukaṃ; Như khúc gỗ lột vỏ, Lăn lóc trong rừng sâu,
Etādisikāya rattiyā, Trong đêm tối hân hoan, Như hiện tại đêm nay,
Ko su nāmamhehi [nāma amhehi (sī. pī.)] pāpiyo’’ti. Ai sống đời bất hạnh, Như chúng ta hiện sống?
Atha kho yā tasmiṃ vanasaṇḍe adhivatthā devatā tassa bhikkhuno anukampikā atthakāmā taṃ bhikkhuṃ saṃvejetukāmā yena so bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ gāthāya ajjhabhāsi – 4) Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy, có lòng thương xót Tỷ-kheo ấy, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác liền đi đến Tỷ-kheo ấy. Sau khi đến, vị ấy nói lên những bài kệ:
‘‘Ekakova tvaṃ araññe viharasi, apaviddhaṃva vanasmiṃ dārukaṃ; 5) Ông sống chỉ một mình, Trong khu rừng cô độc, Như khúc gỗ lột vỏ, Lăn lóc trong rừng sâu.
Tassa te bahukā pihayanti, nerayikā viya saggagāmina’’nti. Rất nhiều người thèm muốn, Đời sống như ông vậy, Như kẻ đọa địa ngục, Thèm muốn sanh thiên giới.
Atha kho so bhikkhu tāya devatāya saṃvejito saṃvegamāpādīti. 6) Rồi Tỷ-kheo ấy được vị Thiên ấy cảnh giác, tâm hết sức xúc động.
10. Sajjhāyasuttaṃ X. Tụng Học Kinh Điển hay Pháp (S.i,202)
230. Ekaṃ samayaṃ aññataro bhikkhu kosalesu viharati aññatarasmiṃ vanasaṇḍe. Tena kho pana samayena so bhikkhu yaṃ sudaṃ pubbe ativelaṃ sajjhāyabahulo viharati so aparena samayena appossukko tuṇhībhūto saṅkasāyati. Atha kho yā tasmiṃ vanasaṇḍe adhivatthā devatā tassa bhikkhuno dhammaṃ asuṇantī yena so bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ gāthāya ajjhabhāsi – 1) Một thời, một Tỷ-kheo sống giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng. 2) Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo ấy trước kia siêng năng tụng kinh rất nhiều, sau một thời gian, trở thành thụ động, im lặng, an phận. 3) Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy không được nghe pháp từ Tỷ-kheo ấy, liền đi đến vị ấy. 4) Sau khi đến, vị Thiên ấy nói lên những bài kệ cho Tỷ-kheo ấy:
‘‘Kasmā tuvaṃ dhammapadāni bhikkhu, nādhīyasi bhikkhūhi saṃvasanto; Này Tỷ-kheo, sao Ông Sống chung các Tỷ-kheo, Lại không chịu tụng đọc, Các kinh điển pháp cú?
Sutvāna dhammaṃ labhatippasādaṃ, diṭṭheva dhamme labhatippasaṃsa’’nti. Ai nghe thuyết Chánh pháp, Tâm sanh được tịnh tín. Và ngay đời hiện tại, Được mọi người tán thán.
  5) (Vị Tỷ-kheo):
‘‘Ahu pure dhammapadesu chando, yāva virāgena samāgamimha; Trước kia đối pháp cú, Ta tha thiết tìm hiểu, Cho đến khi chứng được, Quả vị bậc ly dục;
Yato virāgena samāgamimha, yaṃ kiñci diṭṭhaṃva sutaṃ mutaṃ vā; Từ khi chứng ly dục, Mọi thấy, nghe, xúc cảm, Nhờ trí tuệ hiểu biết, Đều được bỏ một bên.
Aññāya nikkhepanamāhu santo’’ti. Chính các bậc Hiền thiện, Giảng dạy là như vậy.  
11. Akusalavitakkasuttaṃ XI. Bất Chánh Tư Duy: (S.i,203)
231. Ekaṃ samayaṃ aññataro bhikkhu kosalesu viharati aññatarasmiṃ vanasaṇḍe. Tena kho pana samayena so bhikkhu divāvihāragato pāpake akusale vitakke vitakketi, seyyathidaṃ – kāmavitakkaṃ, byāpādavitakkaṃ, vihiṃsāvitakkaṃ. Atha kho yā tasmiṃ vanasaṇḍe adhivatthā devatā tassa bhikkhuno anukampikā atthakāmā taṃ bhikkhuṃ saṃvejetukāmā yena so bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ gāthāhi ajjhabhāsi – 1) Một thời, một Tỷ-kheo trú ở giữa dân chúng Kosala tại một khu rừng. 2) Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo ấy, khi đang nghỉ ban ngày, khởi lên những tư duy ác, bất thiện, như dục tư duy, sân tư duy, hại tư duy. 3) Rồi vị Thiên trú ở khu rừng ấy, vì lòng thương xót Tỷ-kheo, muốn lợi ích, muốn cảnh giác, liền đi đến Tỷ-kheo ấy. 4) Sau khi đến, vị Thiên ấy nói lên những bài kệ cho Tỷ-kheo:
‘‘Ayoniso manasikārā, so vitakkehi khajjasi; Ông tác ý bất chánh, Nên say đắm tư duy.
Ayoniso [ayoniṃ (pī. ka.)] paṭinissajja, yoniso anucintaya. Hãy từ bỏ bất chánh, Hãy tư duy chơn chánh,
‘‘Satthāraṃ dhammamārabbha, saṅghaṃ sīlāni attano; Nương tựa Phật, Pháp, Tăng, Giữ giới, không thối chuyển,
Adhigacchasi pāmojjaṃ, pītisukhamasaṃsayaṃ; Ông chắc chắn chứng đạt, Hân hoan và hỷ lạc.
Tato pāmojjabahulo, dukkhassantaṃ karissasī’’ti. Với hân hoan sung mãn, Ông chấm dứt khổ đau.
Atha kho so bhikkhu tāya devatāya saṃvejito saṃvegamāpādīti. 5) Rồi Tỷ-kheo ấy, được vị Thiên ấy cảnh giác, tâm hết sức xúc động.
12. Majjhanhikasuttaṃ XII. Giưã Trưa hay Tiếng Động (S.i,203)
232. Ekaṃ samayaṃ aññataro bhikkhu kosalesu viharati aññatarasmiṃ vanasaṇḍe. Atha kho tasmiṃ vanasaṇḍe adhivatthā devatā yena so bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā tassa bhikkhuno santike imaṃ gāthaṃ abhāsi – 1) Một thời, một Tỷ-kheo trú ở giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng. 2) Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy đi đến Tỷ-kheo. 3) Sau khi đến, nói lên những bài kệ này trước mặt Tỷ-kheo:
‘‘Ṭhite majjhanhike kāle, sannisīvesu [sannisinnesu (syā. kaṃ. pī.)] pakkhisu; Nay chính giờ giữa trưa, Chim chóc đậu im lặng,
Saṇateva brahāraññaṃ, taṃ bhayaṃ paṭibhāti maṃ. Rừng lớn vang tiếng động, Khiến ta run, hoảng sợ.
  4) (Vị Tỷ-kheo):
‘‘Ṭhite majjhanhike kāle, sannisīvesu pakkhisu; Nay chính giờ giữa trưa, Chim chóc đậu im lặng,
Saṇateva brahāraññaṃ, sā rati paṭibhāti ma’’nti. Rừng lớn vang tiếng động, Hoan hỷ đến với ta.
13. Pākatindriyasuttaṃ XIII. Không Chế Ngự Căn hay Nhiều Tỷ Kheo (S.i,203)
233. Ekaṃ samayaṃ sambahulā bhikkhū kosalesu viharanti aññatarasmiṃ vanasaṇḍe uddhatā unnaḷā capalā mukharā vikiṇṇavācā muṭṭhassatino asampajānā asamāhitā vibbhantacittā pākatindriyā. Atha kho yā tasmiṃ vanasaṇḍe adhivatthā devatā tesaṃ bhikkhūnaṃ anukampikā atthakāmā te bhikkhū saṃvejetukāmā yena te bhikkhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā te bhikkhū gāthāhi ajjhabhāsi – 1) Một thời, rất nhiều Tỷ-kheo trú ở giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng nọ, cống cao, ngạo mạn, ồn ào, lắm miệng, lắm lời, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, các căn không chế ngự. 2) Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy, vì lòng thương xót các Tỷ-kheo, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác, liền đi đến các Tỷ-kheo. 3) Sau khi đến, vị Thiên ấy nói lên những bài kệ với các Tỷ-kheo:
‘‘Sukhajīvino pure āsuṃ, bhikkhū gotamasāvakā; Xưa sống thật an lạc, Chúng đệ tử Cù-đàm,
Anicchā piṇḍamesanā, anicchā sayanāsanaṃ; Không tham tìm món ăn, Không tham tìm chỗ trú,
Loke aniccataṃ ñatvā, dukkhassantaṃ akaṃsu te. Biết đời là vô thường, Họ chấm dứt khổ đau.
‘‘Dupposaṃ katvā attānaṃ, gāme gāmaṇikā viya; Nay tự làm ác hạnh, Như thôn trưởng trong làng,
Bhutvā bhutvā nipajjanti, parāgāresu mucchitā. Họ ăn, ăn ngã gục, Thèm khát vật nhà người.
‘‘Saṅghassa añjaliṃ katvā, idhekacce vadāmahaṃ; Con vái chào chúng Tăng, Đảnh lễ một vài vị,
Apaviddhā [apaviṭṭhā (syā. kaṃ.)] anāthā te, yathā petā tatheva te. Vất vưởng, không hướng dẫn. Họ sống như ngạ quỉ.
‘‘Ye kho pamattā viharanti, te me sandhāya bhāsitaṃ; Những ai sống phóng dật, Vì họ, con nói lên,
Ye appamattā viharanti, namo tesaṃ karomaha’’nti. Những ai không phóng dật, Chân thành con đảnh lễ.
Atha kho te bhikkhū tāya devatāya saṃvejitā saṃvegamāpādunti. 4) Các Tỷ-kheo ấy, được vị Thiên ấy cảnh giác, tâm hết sức xúc động.
14. Gandhatthenasuttaṃ XIV. Sen Hồng hay Sen Trắng (S.i,204)
234. Ekaṃ samayaṃ aññataro bhikkhu kosalesu viharati aññatarasmiṃ vanasaṇḍe. Tena kho pana samayena so bhikkhu pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto pokkharaṇiṃ ogāhetvā padumaṃ upasiṅghati. Atha kho yā tasmiṃ vanasaṇḍe adhivatthā devatā tassa bhikkhuno anukampikā atthakāmā taṃ bhikkhuṃ saṃvejetukāmā yena so bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ gāthāya ajjhabhāsi – 1) Một thời, một Tỷ-kheo trú giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng. 2) Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo ấy ăn xong, trên con đường đi khất thực trở về, đi xuống hồ nước và ngửi bông sen hồng. 3) Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy, thương xót Tỷ-kheo, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác liền đi đến Tỷ-kheo. 4) Sau khi đến, vị Thiên ấy liền nói lên những bài kệ với Tỷ-kheo:
‘‘Yametaṃ vārijaṃ pupphaṃ, adinnaṃ upasiṅghasi; Hoa này từ nước sanh, Không cho, Ông ngửi trộm. Như vậy một loại trộm,
Ekaṅgametaṃ theyyānaṃ, gandhatthenosi mārisā’’ti. Ta gọi Ông trộm hương, Này thân hữu của ta. 
  5) (Vị Tỷ-kheo):
‘‘Na harāmi na bhañjāmi, ārā siṅghāmi vārijaṃ; Không lấy đi, không bẻ, Đứng xa, ta ngửi hoa,
Atha kena nu vaṇṇena, gandhatthenoti vuccati. Vậy do hình tướng gì, Được gọi là “trộm hương”?
‘‘Yvāyaṃ bhisāni khanati, puṇḍarīkāni bhañjati; Ai đào rễ củ sen, Ăn dùng các loại sen.
Evaṃ ākiṇṇakammanto, kasmā eso na vuccatī’’ti. Do các hành động ấy, Sao không gọi trộm hương?
  6) (Vị Thiên):
‘‘Ākiṇṇaluddo puriso, dhāticelaṃva makkhito; Người ty tiện độc ác, Như vải nhớp vú em,
Tasmiṃ me vacanaṃ natthi, tvañcārahāmi vattave. Với hạng người như vậy, Lời ta không liên hệ.
‘‘Anaṅgaṇassa posassa, niccaṃ sucigavesino; Nhưng chính thật cho Ông, Chính lời ta tương ưng
Vālaggamattaṃ pāpassa, abbhāmattaṃva khāyatī’’ti. Với người không cấu uế, Thường hướng cầu thanh tịnh.
  Với kẻ ác nhìn thấy, Nhỏ như đầu sợi lông,
  Vị ấy xem thật lớn, Như đầu mây trên trời.
  7) (Vị Tỷ-kheo):
‘‘Addhā maṃ yakkha jānāsi, atho me anukampasi; Thật sự này Dạ-xoa, Ông biết ta, thương ta,
Punapi yakkha vajjāsi, yadā passasi edisa’’nti. Hãy nói lại với ta, Khi thấy ta như vậy.
  8) (Vị Thiên):
‘‘Neva taṃ upajīvāma, napi te bhatakāmhase; Ta không tùy thuộc Ông, Ông cũng không làm bậy,
Tvameva bhikkhu jāneyya, yena gaccheyya suggati’’nti. Này Tỷ-kheo nên biết, Ông có thể sanh Thiên.
Atha kho so bhikkhu tāya devatāya saṃvejito saṃvegamāpādīti. 9) Vị Tỷ-kheo ấy được vị Thiên ấy cảnh giác, tâm hết sức xúc động.
Vanasaṃyuttaṃ samattaṃ.  
Tassuddānaṃ –  
Vivekaṃ upaṭṭhānañca, kassapagottena sambahulā;  
Ānando anuruddho ca, nāgadattañca kulagharaṇī.  
Vajjiputto ca vesālī, sajjhāyena ayoniso;  
Majjhanhikālamhi pākatindriya, padumapupphena cuddasa bhaveti.