8. Vaṅgīsasaṃyuttaṃ

[08] Chương VIII -Tương Ưng Trưởng Lão Vangìsa

Tipitaka.org Việt dịch: HT. Thích Minh Châu
1. Nikkhantasuttaṃ I. Xuất Ly (S.i,185)
209. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ āyasmā vaṅgīso āḷaviyaṃ viharati aggāḷave cetiye āyasmatā nigrodhakappena upajjhāyena saddhiṃ. Tena kho pana samayena āyasmā vaṅgīso navako hoti acirapabbajito ohiyyako vihārapālo. Atha kho sambahulā itthiyo samalaṅkaritvā yena aggāḷavako ārāmo tenupasaṅkamiṃsu vihārapekkhikāyo. Atha kho āyasmato vaṅgīsassa tā itthiyo disvā anabhirati uppajjati, rāgo cittaṃ anuddhaṃseti. Atha kho āyasmato vaṅgīsassa etadahosi – ‘‘alābhā vata me, na vata me lābhā; dulladdhaṃ vata me, na vata me suladdhaṃ; yassa me anabhirati uppannā, rāgo cittaṃ anuddhaṃseti, taṃ kutettha labbhā, yaṃ me paro anabhiratiṃ vinodetvā abhiratiṃ uppādeyya. Yaṃnūnāhaṃ attanāva attano anabhiratiṃ vinodetvā abhiratiṃ uppādeyya’’nti. Atha kho āyasmā vaṅgīso attanāva attano anabhiratiṃ vinodetvā abhiratiṃ uppādetvā tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi – 1) Như vầy tôi nghe. Một thời Tôn giả Vangìa trú ở Alavi, tại ngôi đền ở Aggàlava, cùng với Tôn giả Nigrodha Kappa, là vị giáo thọ sư. 2) Lúc bấy giờ, Tôn giả Vangìsa là tân Tỷ-kheo, xuất gia chưa bao lâu, được ở lại để coi ngôi tịnh xá. 3) Rồi một số đông phụ nữ, sau khi trang điểm, đi đến khu vườn để xem tịnh xá. 4) Tôn giả Vangìsa thấy các phụ nữ ấy, tâm sanh bất mãn, bị lòng dục quấy phá. 5) Rồi Tôn giả Vangìsa suy nghĩ: “Thật bất lợi cho ta! Thật không lợi cho ta! Thật bất hạnh cho ta! Thật không may cho ta! Vì rằng tâm sanh bất mãn nơi ta, và ta bị lòng dục quấy phá. Làm thế nào ngay hiện tại có người khác có thể đoạn trừ bất mãn nơi ta và làm khởi lên thỏa mãn cho ta? Hay là ta tự mình đoạn trừ bất mãn nơi ta và làm cho thỏa mãn khởi lên cho ta?” 6) Rồi Tôn giả Vangìsa sau khi tự mình đoạn trừ bất mãn và làm cho thỏa mãn khởi lên, liền ngay trong lúc ấy, nói lên những bài kệ này:
‘‘Nikkhantaṃ vata maṃ santaṃ, agārasmānagāriyaṃ; Với ta đã xuất gia, Bỏ nhà, sống không nhà,
Vitakkā upadhāvanti, pagabbhā kaṇhato ime. Tâm tư nay chạy loạn, Khởi lên từ đen tối.
‘‘Uggaputtā mahissāsā, sikkhitā daḷhadhammino; Con nhà bậc thượng lưu, Thiện xảo trong cung pháp,
Samantā parikireyyuṃ, sahassaṃ apalāyinaṃ. Ngàn người bắn tứ phía, Vẫn không bỏ chạy loạn.
‘‘Sacepi etato [ettato (sī. pī. ka.), ettakā (syā. kaṃ.)] bhiyyo, āgamissanti itthiyo; Nếu phụ nữ có đến, Dầu nhiều hơn, đông hơn,
Neva maṃ byādhayissanti [byāthayissanti (?)], dhamme samhi patiṭṭhitaṃ. Sẽ không não loạn ta, Vì ta trú Chánh pháp,
‘‘Sakkhī hi me sutaṃ etaṃ, buddhassādiccabandhuno; Chính ta từng được nghe, Phật, dòng họ mặt trời,
Nibbānagamanaṃ maggaṃ, tattha me nirato mano. Thuyết giảng Niết-bàn đạo, Ở đây ta ưa thích.
‘‘Evañce maṃ viharantaṃ, pāpima upagacchasi; Nếu ta trú như vậy, Ác ma, Ông có đến,
Tathā maccu karissāmi, na me maggampi dakkhasī’’ti. Sở hành ta là vậy, Ông đâu thấy đường ta,
2. Aratisuttaṃ II. Bất lạc: Arati (S.i,186)
210. Ekaṃ samayaṃ…pe… āyasmā vaṅgīso āḷaviyaṃ viharati aggāḷave cetiye āyasmatā nigrodhakappena upajjhāyena saddhiṃ. Tena kho pana samayena āyasmā nigrodhakappo pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto vihāraṃ pavisati, sāyaṃ vā nikkhamati aparajju vā kāle. Tena kho pana samayena āyasmato vaṅgīsassa anabhirati uppannā hoti, rāgo cittaṃ anuddhaṃseti. Atha kho āyasmato vaṅgīsassa etadahosi – ‘‘alābhā vata me, na vata me lābhā; dulladdhaṃ vata me, na vata me suladdhaṃ; yassa me anabhirati uppannā, rāgo cittaṃ anuddhaṃseti; taṃ kutettha labbhā, yaṃ me paro anabhiratiṃ vinodetvā abhiratiṃ uppādeyya. Yaṃnūnāhaṃ attanāva attano anabhiratiṃ vinodetvā abhiratiṃ uppādeyya’’nti. Atha kho āyasmā vaṅgīso attanāva attano anabhiratiṃ vinodetvā abhiratiṃ uppādetvā tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi – 1) Một thời…,… 2) Tôn giả Vangìsa trú ở Alavi, tại ngôi đền ở Aggàvi cùng với giáo thọ sư Tôn giả Nigrodha Kappa. 3) Lúc bấy giờ, Tôn giả Nigrodha Kappa sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, đi vào tịnh xá và không ra khỏi tịnh xá cho đến chiều hay ngày mai. 4) Lúc bấy giờ Tôn giả Vangìsa tâm sanh bất mãn, bị lòng dục quấy phá. 5) Rồi Tôn giả Vangìsa suy nghĩ: “Thật bất lợi cho ta! Thật bất lợi cho ta! Thật không lợi cho ta! Thật bất hạnh cho ta! Thật không may cho ta! Vì rằng tâm sanh bất mãn nơi ta, và ta bị lòng dục quấy phá. Làm thế nào ngay hiện tại có người khác có thể đoạn trừ bất mãn nơi ta và làm khởi lên thỏa mãn cho ta? Hay là ta tự mình đoạn trừ bất mãn nơi ta và làm cho thỏa mãn khởi lên cho ta?” 6) Rồi Tôn giả Vangìsa sau khi tự mình đoạn trừ bất mãn và làm thỏa mãn khởi lên, liền ngay trong lúc ấy nói lên bài kệ này:
‘‘Aratiñca ratiñca pahāya, sabbaso gehasitañca vitakkaṃ; Ta bỏ lạc, bất lạc, Mọi tâm tư gia sự, Không tạo một chỗ nào, Thành cơ sở tham dục.
Vanathaṃ na kareyya kuhiñci, nibbanatho arato sa hi bhikkhu [sa bhikkhu (ka.)]. Ai thoát khỏi rừng tham, Thoát ly mọi tham dục, Ly tham không đắm trước, Xứng danh chơn Tỷ-kheo.
‘‘Yamidha pathaviñca vehāsaṃ, rūpagatañca jagatogadhaṃ; Phàm địa giới, không giới, Cả sắc giới trong đời, Mọi vật đều biến hoại, Mọi sự đều vô thường.
Kiñci parijīyati sabbamaniccaṃ, evaṃ samecca caranti mutattā. Ai hiểu biết như vậy, Sở hành sẽ chân chính. Chúng sanh thường chấp trước, Đối với các sanh y,
‘‘Upadhīsu janā gadhitāse [gathitāse (sī.)], diṭṭhasute paṭighe ca mute ca; Đối vật họ thấy, nghe Họ ngửi, nếm, xúc chạm. Ở đây, ai đoạn dục, Tâm tư không nhiễm ô,
Ettha vinodaya chandamanejo, yo ettha na limpati taṃ munimāhu. Không mắc dính chỗ này, Vị ấy danh Mâu-ni. Đối với sáu mươi pháp, Thuộc vọng tưởng phi pháp,
‘‘Atha saṭṭhinissitā savitakkā, puthū janatāya adhammā niviṭṭhā; Phàm phu thường chấp trước, Chấp thủ và tham đắm. Tỷ-kheo không phiền não, Không nói lời ác ngữ,
Na ca vaggagatassa kuhiñci, no pana duṭṭhullabhāṇī sa bhikkhu. Sáng suốt, tâm thường định, Không dối trá, thận trọng, Thoát ly mọi tham ái. Vị Mâu-ni chứng đạt,
‘‘Dabbo cirarattasamāhito, akuhako nipako apihālu; Cảnh Niết-bàn tịch tịnh, Chờ đón thời mệnh chung, Với tâm tư vắng lặng, Thanh thoát nhập Niết-bàn.
Santaṃ padaṃ ajjhagamā muni paṭicca, parinibbuto kaṅkhati kāla’’nti.  
3. Pesalasuttaṃ III. Khinh Miệt Kẻ Ôn Hòa: Pessalà Atìmannanà (S.i,187)
211. Ekaṃ samayaṃ āyasmā vaṅgīso āḷaviyaṃ viharati aggāḷave cetiye āyasmatā nigrodhakappena upajjhāyena saddhiṃ. Tena kho pana samayena āyasmā vaṅgīso attano paṭibhānena aññe pesale bhikkhū atimaññati. Atha kho āyasmato vaṅgīsassa etadahosi – ‘‘alābhā vata me, na vata me lābhā; dulladdhaṃ vata me, na vata me suladdhaṃ; yvāhaṃ attano paṭibhānena aññe pesale bhikkhū atimaññāmī’’ti. Atha kho āyasmā vaṅgīso attanāva attano vippaṭisāraṃ uppādetvā tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi – 1) Một thời Tôn giả Vangìsa trú ở Alavi, tại đền Aggàlavi, cùng với giáo thọ sư là Tôn giả Nigrodha Kappa. 2) Lúc bấy giờ, Tôn giả Vangìsa thường hay khinh miệt các vị Tỷ- kheo ôn hòa khác vì khả năng biệt tài của mình. 3) Rồi Tôn giả Vangìsa suy nghĩ: “Thật bất lợi cho ta! Thật không lợi cho ta! Thật bất hạnh cho ta! Thật không may cho ta! Vì rằng ta khinh miệt các vị Tỷ-kheo ôn hòa khác vì khả năng biện tài của ta”. 4) Rồi Tôn giả Vangìsa, tự hối trách mình, liền ngay khi ấy, nói lên những bài kệ này:
‘‘Mānaṃ pajahassu gotama, mānapathañca pajahassu; Đệ tử Gotama, Hãy từ bỏ kiêu mạn, Và cũng tự bỏ luôn, Con đường đến kiêu mạn.
Asesaṃ mānapathasmiṃ, samucchito vippaṭisārīhuvā cirarattaṃ. Nếu hoàn toàn đắm say, Trong con đường kiêu mạn, Sẽ tự mình hối trách, Trong thời gian lâu dài.
‘‘Makkhena makkhitā pajā, mānahatā nirayaṃ papatanti; Những ai khinh khi người, Với khinh khi kiêu mạn, Đi con đường kiêu mạn, Sẽ đọa lạc địa ngục.
Socanti janā cirarattaṃ, mānahatā nirayaṃ upapannā. Những người ấy sầu khổ, Trong thời gian lâu dài, Do kiêu mạn dắt dẫn, Phải sanh vào địa ngục.
‘‘Na hi socati bhikkhu kadāci, maggajino sammāpaṭipanno; Tỷ-kheo không bao giờ Phải sầu muộn buồn thảm, Thắng lợi trên chánh đạo, Sở hành được chân chánh,
Kittiñca sukhañca anubhoti, dhammadasoti tamāhu pahitattaṃ. Vị ấy được thọ hưởng, Danh dự và an lạc, Chơn thực được danh xưng, Là bậc hưởng Pháp lạc.
‘‘Tasmā akhilodha padhānavā, nīvaraṇāni pahāya visuddho; Do vậy ở đời này, Không thô lậu, tinh tấn Đoạn trừ mọi triền cái, Sống thanh tịnh trong sạch,
Mānañca pahāya asesaṃ, vijjāyantakaro samitāvī’’ti. Và đoạn tận kiêu mạn, Hoàn toàn, không dư thừa, Chấm dứt (mọi phiền não), Với trí tuệ quang minh, Ngài được xem là bậc Sống tịch tịnh an lạc.  
4. Ānandasuttaṃ IV. Ananda (S.i,188)
212. Ekaṃ samayaṃ āyasmā ānando sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho āyasmā ānando pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisi āyasmatā vaṅgīsena pacchāsamaṇena. Tena kho pana samayena āyasmato vaṅgīsassa anabhirati uppannā hoti, rāgo cittaṃ anuddhaṃseti. Atha kho āyasmā vaṅgīso āyasmantaṃ ānandaṃ gāthāya ajjhabhāsi – 1) Một thời Tôn giả Ananda trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại tịnh xá ông Anàthapinkika (Cấp Cô Độc). 2) Rồi Tôn giả Ananda vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực với Tôn giả Vangìsa là Sa-môn thị giả. 3) Lúc bây giờ Tôn giả Vangìsa tâm sanh bất mãn, bị lòng dục quấy phá. 4) Rồi Tôn giả Vangìsa nói lên bài kệ với Tôn giả Ananda:
‘‘Kāmarāgena ḍayhāmi, cittaṃ me pariḍayhati; Dục ái đốt cháy tôi, Tâm tôi bị thiêu cháy. Thật là điều tốt lành,
Sādhu nibbāpanaṃ brūhi, anukampāya gotamā’’ti. Đệ tử Gotama, Vì lòng từ thương tưởng, Nói pháp tiêu lửa hừng.
  5) (Ananda):
‘‘Saññāya vipariyesā, cittaṃ te pariḍayhati; Chính vì điên đảo tưởng, Tâm Ông bị thiêu đốt,
Nimittaṃ parivajjehi, subhaṃ rāgūpasaṃhitaṃ. Hãy từ bỏ tịnh tướng, Hệ lụy đến tham dục,
‘‘Saṅkhāre parato passa, dukkhato mā ca attato; Nhìn các hành vô thường, Khổ đau, không phải ngã,
Nibbāpehi mahārāgaṃ, mā ḍayhittho punappunaṃ. Dập tắt đại tham dục, Chớ để bị cháy dài;
‘‘Asubhāya cittaṃ bhāvehi, ekaggaṃ susamāhitaṃ; Hãy tu tâm bất tịnh, Nhứt tâm, khéo định tĩnh,
Sati kāyagatā tyatthu, nibbidābahulo bhava. Tu tập thân niệm trú, Hành nhiều hạnh yểm ly;
‘‘Animittañca bhāvehi, mānānusayamujjaha; Hãy tập hạnh vô tướng, Đoạn diệt mạn tùy miên,
Tato mānābhisamayā, upasanto carissasī’’ti. Nhờ quán sâu kiêu mạn, Hạnh Ông được an tịnh.
5. Subhāsitasuttaṃ V. Khéo Nói (S.i,188)
213. Sāvatthinidānaṃ. Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘bhikkhavo’’ti. ‘‘Bhadante’’ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca – 1) Tại Sàvatthi, Jetavana. 2) Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: — Này các Tỷ-kheo. 3) — Thưa vâng, Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. 4) Thế Tôn nói như sau: –
‘‘Catūhi, bhikkhave, aṅgehi samannāgatā vācā subhāsitā hoti, no dubbhāsitā; anavajjā ca ananuvajjā ca viññūnaṃ. Katamehi catūhi? Idha, bhikkhave, bhikkhu subhāsitaṃyeva bhāsati no dubbhāsitaṃ, dhammaṃyeva bhāsati no adhammaṃ, piyaṃyeva bhāsati no appiyaṃ, saccaṃyeva bhāsati no alikaṃ. Imehi kho, bhikkhave, catūhi aṅgehi samannāgatā vācā subhāsitā hoti, no dubbhāsitā, anavajjā ca ananuvajjā ca viññūna’’nti. Idamavoca bhagavā, idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā – Đầy đủ bốn đức tánh, này các Tỷ-kheo, lời nói được xem là thiện thuyết, không phải ác thuyết, vô tội và không bị người có trí chỉ trích. Thế nào là bốn? 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nói lời thiện thuyết, không nói lời ác thuyết, nói lời đúng pháp, không nói lời phi pháp, nói lời ái ngữ, không nói lời ác ngữ, nói lời chơn ngữ, không nói lời phi chơn. Đầy đủ bốn đức tính này, này các Tỷ-kheo, lời nói được xem là thiện thuyết, không phải ác thuyết, vô tội và không bị người có trí chỉ trích. 6) Thế Tôn nói như vậy. Sau khi nói như vậy, bậc Thiện Thệ, Đạo Sư lại nói thêm:
‘‘Subhāsitaṃ uttamamāhu santo, Bậc Thiện Nhơn dạy rằng: Thứ nhất là thiện thuyết,
Dhammaṃ bhaṇe nādhammaṃ taṃ dutiyaṃ; Thứ hai nói đúng pháp, Chớ nói lời phi pháp,
Piyaṃ bhaṇe nāppiyaṃ taṃ tatiyaṃ, Thứ ba nói ái ngữ, Chớ nói lời ác ngữ,
Saccaṃ bhaṇe nālikaṃ taṃ catuttha’’nti. Thứ tư, nói chơn thực, Chớ nói lời phi chơn.
Atha kho āyasmā vaṅgīso uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘paṭibhāti maṃ bhagavā, paṭibhāti maṃ sugatā’’ti. ‘‘Paṭibhātu taṃ vaṅgīsā’’ti bhagavā avoca. Atha kho āyasmā vaṅgīso bhagavantaṃ sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthavi – 7) Rồi Tôn giả Vangìsa từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng về Thế Tôn và bạch Thế Tôn: — Thế Tôn, hãy soi sáng cho con! Thiện Thệ, hãy soi sáng cho con! 8) Thế Tôn nói: — Này Vangìsa, mong rằng Ông được soi sáng! 9) Rồi Tôn giả Vangìsa trước mặt Thế Tôn, nói lên những bài kệ tán thán thích đáng:
‘‘Tameva vācaṃ bhāseyya, yāyattānaṃ na tāpaye; Ai nói lên lời gì, Lời ấy không khổ mình,
Pare ca na vihiṃseyya, sā ve vācā subhāsitā. Lại không làm hại người, Lời ấy là thiện thuyết.
‘‘Piyavācaṃva bhāseyya, yā vācā paṭinanditā; Ai nói lời ái ngữ, Lời nói khiến hoan hỷ,
Yaṃ anādāya pāpāni, paresaṃ bhāsate piyaṃ. Lời nói không ác độc, Lời ấy là ái ngữ.
‘‘Saccaṃ ve amatā vācā, esa dhammo sanantano; Các lời nói chơn thật, Là lời nói bất tử,
Sacce atthe ca dhamme ca, āhu santo patiṭṭhitā. Như vậy là thường pháp, Từ thuở thật ngàn xưa.
‘‘Yaṃ buddho bhāsate vācaṃ, khemaṃ nibbānapattiyā; Bậc Thiện Nhân được xem, An trú trên chơn thực,
Dukkhassantakiriyāya, sā ve vācānamuttamā’’ti. Trên nghĩa và trên pháp, Lời đồn là như vậy.
  Lời đức Phật nói lên, Đạt an ổn Niết-bàn,
  Chấm dứt mọi khổ đau, Thật lời nói tối thượng.
6. Sāriputtasuttaṃ VI. Sàriputta (Xá-lợi-phất) (S.i,189)
214. Ekaṃ samayaṃ āyasmā sāriputto sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena āyasmā sāriputto bhikkhū dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti poriyā vācāya vissaṭṭhāya anelagalāya [aneḷagalāya (sī. ka.), anelagaḷāya (syā. kaṃ. pī.)] atthassa viññāpaniyā. Te ca bhikkhū aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṃ suṇanti. Atha kho āyasmato vaṅgīsassa etadahosi – ‘‘ayaṃ kho āyasmā sāriputto bhikkhū dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti poriyā vācāya vissaṭṭhāya anelagalāya atthassa viññāpaniyā. Te ca bhikkhū aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṃ suṇanti. Yaṃnūnāhaṃ āyasmantaṃ sāriputtaṃ sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthaveyya’’nti. 1) Một thời Tôn giả Sàriputta trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika. 2) Lúc bấy giờ, Tôn giả Sàriputta với bài pháp thoại đang tuyên thuyết, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo, với lời nói lịch sự, thông suốt, không có phều phào, với ý nghĩa rõ ràng minh bạch. Và các vị Tỷ-kheo ấy chú ý, chú tâm, tập trung tâm lực, lắng tai nghe pháp. 3) Rồi Tôn giả Vangìsa suy nghĩ: “Tôn giả Sàriputta với bài pháp thoại đang tuyên thuyết, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo, với lời nói lịch sự, thông suốt, không có phều phào, với ý nghĩa rõ ràng minh bạch. Và các vị Tỷ-kheo ấy chú ý, chú tâm, tập trung tâm lực, lắng tai nghe pháp. Vậy trước mặt Tôn giả Sàriputta, ta hãy nói lên những bài kệ tán thán thích đáng”.
Atha kho āyasmā vaṅgīso uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yenāyasmā sāriputto tenañjaliṃ paṇāmetvā āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca – ‘‘paṭibhāti maṃ, āvuso sāriputta, paṭibhāti maṃ, āvuso sāriputtā’’ti. ‘‘Paṭibhātu taṃ, āvuso vaṅgīsā’’ti. Atha kho āyasmā vaṅgīso āyasmantaṃ sāriputtaṃ sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthavi – 4) Rồi Tôn giả Vangìsa từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng về Tôn giả Sàriputta và nói với Tôn giả Sàriputta: — Hiền giả Sàriputta, một vấn đề đến với tôi. Hiền giả Sàriputta, một vấn đề đến với tôi. 5) — Mong rằng Hiền giả Vangìsa nói lên vấn đề ấy! 6) Rồi Tôn giả Vangìsa, trước mặt Tôn giả Sàriputta, nói lên những lời kệ tán thán thích đáng:
‘‘Gambhīrapañño medhāvī, maggāmaggassa kovido; Trí tuệ thâm, trí giải, Thiện xảo đạo, phi đạo,
Sāriputto mahāpañño, dhammaṃ deseti bhikkhunaṃ. Ngài Sàriputta, Là bậc Đại trí tuệ.
‘‘Saṃkhittenapi deseti, vitthārenapi bhāsati; Chính Ngài đang thuyết pháp, Cho các vị Tỷ-kheo.
Sāḷikāyiva nigghoso, paṭibhānaṃ udīrayi [udīriyi (syā. kaṃ.) udīriyati (sāmaññaphalasuttaṭīkānurūpaṃ)]. Ngài giảng cách tóm tắt, Ngài cũng thuyết rộng rãi.
‘‘Tassa taṃ desayantassa, suṇanti madhuraṃ giraṃ; Như âm thanh vi diệu, Của loại chim Sàli,
Sarena rajanīyena, savanīyena vaggunā; Lời Ngài giảng tuôn trào, Tiếng Ngài nghe ngọt lịm.
Udaggacittā muditā, sotaṃ odhenti bhikkhavo’’ti. Với giọng điệu ái luyến, Êm tai, và mỹ diệu,
  Chúng lắng tai nghe pháp, Tâm phấn khởi hoan hỷ, Này các vị Tỷ-kheo. 
7. Pavāraṇāsuttaṃ VII. Tự Tứ (S.i,190)
215. Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati pubbārāme migāramātupāsāde mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehi sabbeheva arahantehi. Tena kho pana samayena bhagavā tadahuposathe pannarase pavāraṇāya bhikkhusaṅghaparivuto abbhokāse nisinno hoti. Atha kho bhagavā tuṇhībhūtaṃ bhikkhusaṅghaṃ anuviloketvā bhikkhū āmantesi – ‘‘handa dāni, bhikkhave, pavāremi vo. Na ca me kiñci garahatha kāyikaṃ vā vācasikaṃ vā’’ti. 1) Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, Pubbàràma (Đông Viên), Migara – màtu pàsàda (Lộc Mẫu giảng đường), cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, tất cả đều chứng quả A-la-hán. 2) Lúc bấy giờ, Thế Tôn, nhân ngày trăng tròn Bố-tát Tự tứ, Ngài ngồi giữa trời, xung quanh chúng Tỷ-kheo đoanh vây. 3) Rồi Thế Tôn, sau khi nhìn quanh chúng Tỷ-kheo im lặng, liền bảo các Tỷ-kheo: 4) — Này các Tỷ-kheo, nay Ta mời các Ông nói lên, các Ông có điều gì chỉ trích Ta hay không, về thân hay về lời nói?
Evaṃ vutte, āyasmā sāriputto uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘na kho mayaṃ, bhante, bhagavato kiñci garahāma kāyikaṃ vā vācasikaṃ vā. Bhagavā hi , bhante, anuppannassa maggassa uppādetā, asañjātassa maggassa sañjanetā, anakkhātassa maggassa akkhātā, maggaññū maggavidū maggakovido. Maggānugā ca, bhante, etarahi sāvakā viharanti pacchā samannāgatā; ahañca kho, bhante, bhagavantaṃ pavāremi. Na ca me bhagavā kiñci garahati kāyikaṃ vā vācasikaṃ vā’’ti. 5) Được nghe như vậy, Tôn giả Sàriputta từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay vái chào Thế Tôn và bạch Thế Tôn:  — Bạch Thế Tôn, chúng con không có chỉ trích gì Thế Tôn về thân hay về lời nói. Bạch Thế Tôn, con đường chưa sanh khởi, Thế Tôn làm cho sanh khởi; con đường chưa được rõ biết, Thế Tôn làm cho rõ biết; con đường chưa được thuyết giảng, Thế Tôn thuyết giảng. Thế Tôn biết đạo, hiểu đạo, thiện xảo về đạo; và bạch Thế Tôn, các đệ tử nay là những vị sống hành đạo, và sẽ thành tựu (những pháp ấy) về sau. Và bạch Thế Tôn, con xin mời Thế Tôn nói lên, Thế Tôn có điều gì chỉ trích con hay không, về thân hay về lời nói?
‘‘Na khvāhaṃ te, sāriputta, kiñci garahāmi kāyikaṃ vā vācasikaṃ vā. Paṇḍito tvaṃ, sāriputta, mahāpañño tvaṃ, sāriputta , puthupañño tvaṃ, sāriputta, hāsapañño tvaṃ, sāriputta, javanapañño tvaṃ, sāriputta, tikkhapañño tvaṃ, sāriputta, nibbedhikapañño tvaṃ, sāriputta. Seyyathāpi, sāriputta, rañño cakkavattissa jeṭṭhaputto pitarā pavattitaṃ cakkaṃ sammadeva anuppavatteti; evameva kho tvaṃ, sāriputta, mayā anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ sammadeva anuppavattesī’’ti. 6) — Này Sàriputta, Ta không có gì chỉ trích Ông về thân, hay về lời nói. Này Sàriputta, Ông là bậc Đại trí. Này Sàriputta, Ông là bậc Quảng trí. Này Sàriputta, Ông là bậc Tốc trí. Này Sàriputta, Ông là bậc Tiệp trí. Này Sàriputta, Ông là bậc Nhuệ trí. Này Sàriputta, Ông là bậc Thể nhập trí. Này Sàriputta, ví như trưởng tử, con vua Chuyển luân vương, chơn chánh vận chuyển bánh xe đã được vua cha vận chuyển. Cũng vậy, này Sàriputta, Ông chơn chánh chuyển vận pháp luân vô thượng đã được Ta chuyển vận.
‘‘No ce kira me, bhante, bhagavā kiñci garahati kāyikaṃ vā vācasikaṃ vā. Imesaṃ pana, bhante, bhagavā pañcannaṃ bhikkhusatānaṃ na kiñci garahati kāyikaṃ vā vācasikaṃ vā’’ti. ‘‘Imesampi khvāhaṃ, sāriputta, pañcannaṃ bhikkhusatānaṃ na kiñci garahāmi kāyikaṃ vā vācasikaṃ vā. Imesañhi, sāriputta, pañcannaṃ bhikkhusatānaṃ saṭṭhi bhikkhū tevijjā, saṭṭhi bhikkhū chaḷabhiññā, saṭṭhi bhikkhū ubhatobhāgavimuttā, atha itare paññāvimuttā’’ti. 7) — Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn không có gì chỉ trích con về thân hay về lời nói, vậy bạch Thế Tôn, đối với khoảng năm trăm Tỷ-kheo này, Thế Tôn có gì chỉ trích hay không, về thân hay về lời nói? 8) — Này Sàriputta, đối với khoảng năm trăm Tỷ-kheo này, Ta không có gì chỉ trích về thân hay về lời nói. Này Sàriputta, trong khoảng năm trăm Tỷ-kheo này, sáu mươi Tỷ-kheo là bậc Tam minh, sáu mươi Tỷ- kheo là bậc chứng được sáu Thắng trí, sáu mươi Tỷ-kheo là bậc Câu giải thoát, và các vị còn lại là bậc Tuệ giải thoát.
Atha kho āyasmā vaṅgīso uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘paṭibhāti maṃ bhagavā, paṭibhāti maṃ sugatā’’ti. ‘‘Paṭibhātu taṃ, vaṅgīsā’’ti bhagavā avoca. Atha kho āyasmā vaṅgīso bhagavantaṃ sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthavi – 9) Rồi Tôn giả Vangìsa từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay vái chào Thế Tôn và bạch Thế Tôn: 10) — Bạch Thế Tôn, một vấn đề đến với con. Bạch Thiện Thệ, một vấn đề đến với con. 11) Thế Tôn nói: — Này Vangìsa, hãy nói lên vấn đề ấy! 12) Rồi Tôn giả Vangìsa trước mặt Thế Tôn nói lên những bài kệ tán thán thích ứng:
‘‘Ajja pannarase visuddhiyā, bhikkhū pañcasatā samāgatā; Nay ngày rằm thanh tịnh, Năm trăm Tỷ-kheo họp,
Saṃyojanabandhanacchidā , anīghā khīṇapunabbhavā isī. Bậc Thánh cắt kiết phược, Vô phiền, đoạn tái sanh.
‘‘Cakkavattī yathā rājā, amaccaparivārito; Như vua Chuyển luân vương, Đại thần hầu xung quanh,
Samantā anupariyeti, sāgarantaṃ mahiṃ imaṃ. Du hành khắp bốn phương, Đất này đến hải biên.
‘‘Evaṃ vijitasaṅgāmaṃ, satthavāhaṃ anuttaraṃ; Như vậy, các đệ tử, Đã chứng được Tam minh,
Sāvakā payirupāsanti, tevijjā maccuhāyino. Sát hại được tử thần, Những vị này hầu hạ,
‘‘Sabbe bhagavato puttā, palāpettha na vijjati; Bậc thắng trận chiến trường, Chủ lữ hành vô thượng.
Taṇhāsallassa hantāraṃ, vande ādiccabandhuna’’nti. Tất cả con Thế Tôn, Không ai là vô dụng,
  Xin chí thành đảnh lễ, Bậc nhổ tên khát ái,
  Xin tâm thành cung kính, Bậc dòng họ mặt trời.
8. Parosahassasuttaṃ VIII. Một Ngàn và Nhiều Hơn (S.i,192)
216. Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ aḍḍhatelasehi bhikkhusatehi. Tena kho pana samayena bhagavā bhikkhū nibbānapaṭisaṃyuttāya dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti. Te ca bhikkhū aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṃ suṇanti. Atha kho āyasmato vaṅgīsassa etadahosi – ‘‘ayaṃ kho bhagavā bhikkhū nibbānapaṭisaṃyuttāya dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti. Te ca bhikkhū aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṃ suṇanti. Yaṃnūnāhaṃ bhagavantaṃ sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthaveyya’’nti. 1) Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Độc) cùng đại chúng Tỷ-kheo 1.250 vị. 2) Lúc bấy giờ Thế Tôn với bài pháp thoại liên hệ đến Niết-bàn, thuyết giảng cho các Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Và những Tỷ-kheo ấy chú tâm, chú ý, tập trung tất cả tâm tư, lắng tai nghe pháp. 3) Rồi Tôn giả Vangìsa suy nghĩ: “Nay Thế Tôn với bài pháp thoại liên hệ đến Niết-bàn, đang thuyết giảng cho các Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Và những Tỷ-kheo ấy chú tâm, chú ý, tập trung tất cả tâm tư, lắng tai nghe pháp. Vậy trước mặt Thế Tôn, ta hãy nói lên những bài kệ tán thán thích ứng.”
Atha kho āyasmā vaṅgīso uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘paṭibhāti maṃ bhagavā, paṭibhāti maṃ sugatā’’ti. ‘‘Paṭibhātu taṃ, vaṅgīsā’’ti bhagavā avoca. Atha kho āyasmā vaṅgīso bhagavantaṃ sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthavi – 4) Rồi Tôn giả Vangìsa, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng về Thế Tôn và bạch Thế Tôn: — Bạch Thế Tôn, một vấn đề đến với con. Bạch Thiện Thệ, một vấn đề đến với con. 5) Thế Tôn đáp: — Này Vangìsa, hãy nói lên vấn đề ấy! 6) Rồi Tôn giả Vangìsa, trước mặt Thế Tôn, nói lên những bài kệ tán thán thích ứng:
‘‘Parosahassaṃ bhikkhūnaṃ, sugataṃ payirupāsati; Hơn một ngàn Tỷ-kheo, Hầu hạ bậc Thiện Thệ,
Desentaṃ virajaṃ dhammaṃ, nibbānaṃ akutobhayaṃ. Ngài thuyết pháp vô cấu, Niết-bàn, không sợ hãi.
‘‘Suṇanti dhammaṃ vimalaṃ, sammāsambuddhadesitaṃ; Họ nghe pháp vô cấu, Bậc Chánh Giác thuyết giảng.
Sobhati vata sambuddho, bhikkhusaṅghapurakkhato. Thượng thủ chúng Tỷ-kheo, Bậch Chánh Giác chói sáng.
‘‘Nāganāmosi bhagavā, isīnaṃ isisattamo; Bạch Thế Tôn, Thiện Thệ, Ngài thật bậc Long Tượng,
Mahāmeghova hutvāna, sāvake abhivassati. Bậc Ẩn Sĩ thứ bảy , Trong các vị Ẩn Sĩ.
‘‘Divāvihārā nikkhamma, satthudassanakamyatā [satthudassanakāmatā (sī. syā. kaṃ.)]; Ngài trở thành mây lớn, Mưa móc ban đệ tử.
Sāvako te mahāvīra, pāde vandati vaṅgīso’’ti. Con từ nghỉ trưa đến, Muốn yết kiến Đạo Sư.
  Ôi bậc Đại Anh hùng! Con là đệ tử Ngài,
  Con tên Vangìsa, Đảnh lễ dưới chân Ngài.
‘‘Kiṃ nu te, vaṅgīsa, imā gāthāyo pubbe parivitakkitā, udāhu ṭhānasova taṃ paṭibhantī’’ti? ‘Na kho me, bhante, imā gāthāyo pubbe parivitakkitā, atha kho ṭhānasova maṃ paṭibhantī’ti. ‘Tena hi taṃ, vaṅgīsa, bhiyyosomattāya pubbe aparivitakkitā gāthāyo paṭibhantū’ti. ‘Evaṃ, bhante’ti kho āyasmā vaṅgīso bhagavato paṭissutvā bhiyyosomattāya bhagavantaṃ pubbe aparivitakkitāhi gāthāhi abhitthavi – 7) — Này Vangìsa, những bài kệ này của Ông, có phải Ông suy nghĩ từ trước hay được khởi lên tại chỗ? 8) — Bạch Thế Tôn, những bài kệ này của con không phải suy nghĩ từ trước, chính được khởi lên tại chỗ. 9) — Vậy này Vangìsa, hãy cho nhiều bài kệ nữa, không suy nghĩ từ trước, được khởi lên tại chỗ. 10) — Thưa vâng bạch Thế Tôn. Tôn giả Vangìsa vâng đáp Thế Tôn và nói lên những bài kệ tán thán Thế Tôn; những bài kệ chưa được suy nghĩ từ trước:
‘‘Ummaggapathaṃ [ummaggasataṃ (syā. kaṃ. ka.)] mārassa abhibhuyya, carati pabhijja khilāni; Thắng ác ma, tà đạo, Ngài sống chướng ngại đoạn.
Taṃ passatha bandhapamuñcakaraṃ, asitaṃ bhāgaso pavibhajaṃ. Hãy thấy bậc Giải Thoát, Thoát ly mọi hệ phược,
‘‘Oghassa nittharaṇatthaṃ, anekavihitaṃ maggaṃ akkhāsi; Phân tích thành từng phần, Hắc, bạch pháp phân minh.
Tasmiñce amate akkhāte, dhammaddasā ṭhitā asaṃhīrā. Ngài nói lên con đường, Nhiều pháp môn khác biệt,
‘‘Pajjotakaro ativijjha [ativijjha dhammaṃ (sī. syā. kaṃ.)], sabbaṭṭhitīnaṃ atikkamamaddasa; Mục đích giúp mọi người, Vượt qua dòng bộc lưu,
Ñatvā ca sacchikatvā ca, aggaṃ so desayi dasaddhānaṃ. Chính trên pháp bất tử, Được Ngài (thường) tuyên thuyết.
‘‘Evaṃ sudesite dhamme, Chúng con bậc pháp kiến, Vững trú không thối chuyển,
Ko pamādo vijānataṃ dhammaṃ [ko pamādo vijānataṃ (sī. syā. kaṃ.)]; Bậc tạo dựng quang minh, Ngài thâm nhập (các pháp),
Tasmā hi tassa bhagavato sāsane; Thấy được chỗ vượt qua, Tất cả mọi kiến xứ.
Appamatto sadā namassamanusikkhe’’ti. Sau khi biết và chứng, Ngài thuyết tối thượng xứ,
  Pháp như vậy khéo giảng. Ai có thể phóng dật,
  Khi được biết pháp ấy, Pháp khéo giảng như vậy?
  Do vậy trong giáo pháp, Đức Thế Tôn, Thiện Thệ.
  Luôn luôn không phóng dật, Hãy đảnh lễ, tu học.
9. Koṇḍaññasuttaṃ IX. Kondanna: Kiều-trần-như (S.i,193)
217. Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Atha kho āyasmā aññāsikoṇḍañño [aññākoṇḍañño (sī. syā. kaṃ.)] sucirasseva yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavato pādesu sirasā nipatitvā bhagavato pādāni mukhena ca paricumbati, pāṇīhi ca parisambāhati, nāmañca sāveti – ‘‘koṇḍaññohaṃ, bhagavā, koṇḍaññohaṃ, sugatā’’ti. Atha kho āyasmato vaṅgīsassa etadahosi – ‘‘ayaṃ kho āyasmā aññāsikoṇḍañño sucirasseva yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavato pādesu sirasā nipatitvā bhagavato pādāni mukhena ca paricumbati, pāṇīhi ca parisambāhati, nāmañca sāveti – ‘koṇḍaññohaṃ, bhagavā, koṇḍaññohaṃ, sugatā’ti. Yaṃnūnāhaṃ āyasmantaṃ aññāsikoṇḍaññaṃ bhagavato sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthaveyya’’nti. 1) Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), tại Veluvanna (Trúc Lâm), chỗ nuôi dưỡng các con sóc. 2) Rồi Tôn giả Annàsi Kondanna, sau một thời gian khá dài, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, miệng hôn, tay xoa bóp chân Thế Tôn và nói lên tên của mình:  — Bạch Thế Tôn, con là Kondanna. Bạch Thiện Thệ, con là Kondanna. 3) Rồi Tôn giả Vangìsa suy nghĩ: “Tôn giả Annàsi Kondanna này, sau một thời gian khá dài, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, miệng hôn, tay xoa bóp chân Thế Tôn và nói lên tên của mình: ‘Bạch Thế Tôn, con là Kondanna. Bạch Thiện Thệ, con là Kondanna’. Vậy ta hãy ở trước mặt Thế Tôn, nói lên những bài kệ thích ứng tán thán Tôn giả Annàsi Kondanna”.
Atha kho āyasmā vaṅgīso uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘paṭibhāti maṃ, bhagavā, paṭibhāti maṃ, sugatā’’ti. ‘‘Paṭibhātu taṃ, vaṅgīsā’’ti bhagavā avoca. Atha kho āyasmā vaṅgīso āyasmantaṃ aññāsikoṇḍaññaṃ bhagavato sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthavi – 4) Rồi Tôn giả Vangìsa từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y về một bên vai, chắp tay hướng về Thế Tôn và bạch Thế Tôn:  — Bạch Thế Tôn, một vấn đề đến với con. Bạch Thiện Thệ, một vấn đề đến với con. 5) Thế Tôn đáp: — Này Vangìsa, hãy nói lên vấn đề ấy! 6) Rồi Tôn giả Vangìsa, trước mặt Thế Tôn, nói lên những bài kệ thích ứng tán thán Tôn giả Kondanna:
‘‘Buddhānubuddho so thero, koṇḍañño tibbanikkamo; Sau đức Phật hiện tại, Trưởng lão được chánh giác,
Lābhī sukhavihārānaṃ, vivekānaṃ abhiṇhaso. Chính là Kondanna, Nhiệt tâm và tinh cần,
‘‘Yaṃ sāvakena pattabbaṃ, satthusāsanakārinā; Chứng được an lạc trú, Sống viễn ly liên tục,
Sabbassa taṃ anuppattaṃ, appamattassa sikkhato. Thực hành lời Sư dạy. Đệ tử chứng được gì,
‘‘Mahānubhāvo tevijjo, cetopariyāyakovido; Tất cả Ngài chứng được, Nhờ tu học tinh tấn,
Koṇḍañño buddhadāyādo [buddhasāvako (pī.)], pāde vandati satthuno’’ti. Đại uy lực Ba minh, Thiện xảo tâm tư người.
  Phật tử Kondanna, Đảnh lễ chân Đạo Sư.
10. Moggallānasuttaṃ X. Moggallàna: Mục-kiền-liên (S.i,194)
218. Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati isigilipasse kāḷasilāyaṃ mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehi sabbeheva arahantehi. Tesaṃ sudaṃ āyasmā mahāmoggallāno cetasā cittaṃ samannesati [samanvesati (syā. aṭṭha.)] vippamuttaṃ nirupadhiṃ. Atha kho āyasmato vaṅgīsassa etadahosi – ‘‘ayaṃ kho bhagavā rājagahe viharati isigilipasse kāḷasilāyaṃ mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehi sabbeheva arahantehi. Tesaṃ sudaṃ āyasmā mahāmoggallāno cetasā cittaṃ samannesati vippamuttaṃ nirupadhiṃ. Yaṃnūnāhaṃ āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ bhagavato sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthaveyya’’nti. 1) Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, trên sườn núi Isigili, tại núi Hắc Sơn, cùng với đại chúng Tỷ-kheo Tăng khoảng năm trăm vị, tất cả là bậc A-la-hán. Tôn giả Mahà Moggallàna với tâm của mình biết được tâm các vị ấy đã được giải thoát, không có sanh y. 2) Rồi Tôn giả Vangìsa suy nghĩ: “Thế Tôn nay trú ở Ràjagaha, trên sườn núi Isigili, tại Hắc Sơn cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, tất cả là bậc A-la-hán. Tôn giả Mahà Moggallàna với tâm của mình được biết tâm các vị ấy đã được giải thoát, không có sanh y. Vậy ta hãy trước mặt Thế Tôn nói lên những bài kệ thích ứng tán thán Tôn giả Mahà Moggallàna”.
Atha kho āyasmā vaṅgīso uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘paṭibhāti maṃ, bhagavā, paṭibhāti maṃ, sugatā’’ti. ‘‘Paṭibhātu taṃ, vaṅgīsā’’ti bhagavā avoca. Atha kho āyasmā vaṅgīso āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ bhagavato sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthavi – 3) Rồi Tôn giả Vangìsa từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng về Thế Tôn và bạch Thế Tôn: — Bạch Thế Tôn, một vấn đề đến với con. Bạch Thiện Thệ, một vấn đề đến với con. 4) Thế Tôn đáp: — Này Vangìsa, hãy nói lên vấn đề ấy! 5) Rồi Tôn giả Vangìsa trước mặt Thế Tôn, nói lên những bài kệ thích ứng tán thán Tôn giả Mahà Moggallàana:
‘‘Nagassa passe āsīnaṃ, muniṃ dukkhassa pāraguṃ; Cao trên sườn đồi núi, Những vị chứng Ba minh,
Sāvakā payirupāsanti, tevijjā maccuhāyino. Những vị đoạn tử thần, Các đệ tử hầu hạ,
‘‘Te cetasā anupariyeti [anupariyesati (sī. syā. kaṃ.)], moggallāno mahiddhiko; Bậc Thánh giả, Mâu-ni, Đã vượt qua đau khổ.
Cittaṃ nesaṃ samannesaṃ [samanvesaṃ (syā. aṭṭha.)], vippamuttaṃ nirūpadhiṃ. Đại thần lực Mục-liên, Quán tâm các vị ấy,
‘‘Evaṃ sabbaṅgasampannaṃ, muniṃ dukkhassa pāraguṃ; Biết họ được giải thoát, Không còn có sanh y.
Anekākārasampannaṃ, payirupāsanti gotama’’nti. Như vậy họ hầu hạ, Mâu-ni Gotama,
  Ngài vượt qua đau khổ, Mọi sở hành đầy đủ, Mọi đức tánh vẹn toàn. 
11. Gaggarāsuttaṃ XI. Gaggarà (S,i,195)
219. Ekaṃ samayaṃ bhagavā campāyaṃ viharati gaggarāya pokkharaṇiyā tīre mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehi sattahi ca upāsakasatehi sattahi ca upāsikāsatehi anekehi ca devatāsahassehi. Tyāssudaṃ bhagavā atirocati [ativirocati (ka.)] vaṇṇena ceva yasasā ca. Atha kho āyasmato vaṅgīsassa etadahosi – ‘‘ayaṃ kho bhagavā campāyaṃ viharati gaggarāya pokkharaṇiyā tīre mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehi sattahi ca upāsakasatehi sattahi ca upāsikāsatehi anekehi ca devatāsahassehi. Tyāssudaṃ bhagavā atirocati vaṇṇena ceva yasasā ca. Yaṃnūnāhaṃ bhagavantaṃ sammukhā sāruppāya gāthāya abhitthaveyya’’nti. 1) Một thời Thế Tôn ở Campà, trên bờ hồ Gaggarà với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, với bảy trăm nam cư sĩ, với bảy trăm nữ cư sĩ và vài ngàn chư Thiên. Giữa đại chúng ấy, Thế Tôn chói sáng vượt bậc về quang sắc và danh xưng. 2) Rồi Tôn giả Vangìsa suy nghĩ: “Nay Thế Tôn trú ở Campà, trên bờ hồ Gaggarà với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, với bảy trăm nam cư sĩ, với bảy trăm nữ cư sĩ và vài ngàn chư Thiên. Giữa đại chúng ấy, Thế Tôn chói sáng vượt bậc về quang sắc và danh xưng. Vậy trước mặt Thế Tôn, ta hãy nói lên những bài kệ tán thán thích ứng”.
Atha kho āyasmā vaṅgīso uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘paṭibhāti maṃ, bhagavā, paṭibhāti maṃ, sugatā’’ti. ‘‘Paṭibhātu taṃ, vaṅgīsā’’ti bhagavā avoca. Atha kho āyasmā vaṅgīso bhagavantaṃ sammukhā sāruppāya gāthāya abhitthavi – 3) Rồi Tôn giả Vangìsa từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng về Thế Tôn và bạch: — Bạch Thế Tôn, một vấn đề đến với con. Bạch Thiện Thệ, một vấn đề đến với con. 4) Thế Tôn đáp: — Này Vangìsa, hãy nói lên vấn đề ấy! 5) Rồi Tôn giả Vangìsa trước mặt Thế Tôn nói lên những bài kệ thích ứng tán thán:
‘‘Cando yathā vigatavalāhake nabhe, Như mặt trăng giữa trời, Mây mù được quét sạch,
Virocati vigatamalova bhāṇumā; Chói sáng như mặt trời, Thanh tịnh, không cấu uế.
Evampi aṅgīrasa tvaṃ mahāmuni, Cũng vậy Ngài thật là Đại Mâu-ni Hiền Thánh,
Atirocasi yasasā sabbaloka’’nti. Danh xưng Ngài sáng chói, Vượt qua mọi thế giới.
12. Vaṅgīsasuttaṃ XII. Vangìsa (S.i,196)
220. Ekaṃ samayaṃ āyasmā vaṅgīso sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme . Tena kho pana samayena āyasmā vaṅgīso aciraarahattappatto hutvā [hoti (sī. syā. kaṃ.)] vimuttisukhaṃ paṭisaṃvedī [vimuttisukhapaṭisaṃvedī (sī. pī.)] tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi – 1) Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetavana tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Độc). 2) Lúc bấy giờ Tôn giả Vangìsa, chứng quả A-la-hán không bao lâu, thọ hưởng giải thoát lạc, ngay trong lúc ấy, nói lên những bài kệ này:
‘‘Kāveyyamattā vicarimha pubbe, gāmā gāmaṃ purā puraṃ; Thuở trước ta mê thơ, Bộ hành khắp mọi nơi,
Athaddasāma sambuddhaṃ, saddhā no upapajjatha. Từ làng này, thành này, Qua làng khác, thành khác,
‘‘So me dhammamadesesi, khandhāyatanadhātuyo [khandhe āyatanāni dhātuyo (syā. kaṃ. pī. ka.)]; Ta thấy bậc Chánh Giác, Tín thành ta sanh khởi.
Tassāhaṃ dhammaṃ sutvāna, pabbajiṃ anagāriyaṃ. Ngài thuyết pháp cho ta, Về uẩn, xứ và giới,
‘‘Bahunnaṃ vata atthāya, bodhiṃ ajjhagamā muni; Sau khi nghe Chánh pháp, Ta bỏ nhà xuất gia.
Bhikkhūnaṃ bhikkhunīnañca, ye niyāmagataddasā. Vì hạnh phúc số đông, Vì thấy đạo hành đạo,
‘‘Svāgataṃ vata me āsi, mama buddhassa santike; Cho Tỷ-kheo Tăng-Ni, Bậc Mâu-ni giác ngộ,
Tisso vijjā anuppattā, kataṃ buddhassa sāsanaṃ. Ngài đã chấp nhận con, Được thành đạo với Ngài,
‘‘Pubbenivāsaṃ jānāmi, dibbacakkhuṃ visodhitaṃ; Con chứng đạt Ba minh, Hành trì theo Phật dạy.
Tevijjo iddhipattomhi, cetopariyāyakovido’’ti. Con biết được đời trước, Chứng thiên nhãn thanh tịnh,
  Ba minh, thần thông lực, Chứng đạt tha tâm thông.
Vaṅgīsasaṃyuttaṃ samattaṃ.  
Tassuddānaṃ –  
Nikkhantaṃ arati ceva, pesalā atimaññanā;  
Ānandena subhāsitā, sāriputtapavāraṇā;  
Parosahassaṃ koṇḍañño, moggallānena gaggarā;  
Vaṅgīsena dvādasāti.