Tipitaka.org |
Việt dịch: HT. Thích Minh Châu |
1. Kasibhāradvājasuttaṃ |
I. Cày Ruộng (S.i,172) |
197. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā magadhesu viharati dakkhiṇāgirismiṃ ekanāḷāyaṃ brāhmaṇagāme. Tena kho pana samayena kasibhāradvājassa [kasikabhāradvājassa (ka.)] brāhmaṇassa pañcamattāni naṅgalasatāni payuttāni honti vappakāle. Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena kasibhāradvājassa brāhmaṇassa kammanto tenupasaṅkami. |
1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Magadha, trên núi Nam Sơn, tại làng Bà-la-môn tên Ekanàlà. 2) Lúc bấy giờ là thời gian gieo mạ, và Bà-la-môn Kasi Bhàradvàja sắp đặt sẵn sàng khoảng năm trăm lưỡi cày. 3) Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến nông trường của Bà-la-môn Kasi Bhàradvàja. |
Tena kho pana samayena kasibhāradvājassa brāhmaṇassa parivesanā vattati. Atha kho bhagavā yena parivesanā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Addasā kho kasibhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ piṇḍāya ṭhitaṃ. Disvā bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘ahaṃ kho, samaṇa, kasāmi ca vapāmi ca, kasitvā ca vapitvā ca bhuñjāmi. Tvampi, samaṇa, kasassu ca vapassu ca, kasitvā ca vapitvā ca bhuñjassū’’ti. ‘‘Ahampi kho, brāhmaṇa, kasāmi ca vapāmi ca, kasitvā ca vapitvā ca bhuñjāmī’’ti. Na kho mayaṃ passāma bhoto gotamassa yugaṃ vā naṅgalaṃ vā phālaṃ vā pācanaṃ vā balībadde vā, atha ca pana bhavaṃ gotamo evamāha – ‘‘ahampi kho, brāhmaṇa, kasāmi ca vapāmi ca, kasitvā ca vapitvā ca bhuñjāmī’’ti . Atha kho kasibhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – |
4) Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Kasi Bhàradvàja đang phân phát đồ ăn. 5) Thế Tôn đi đến chỗ phân phát đồ ăn, rồi đứng một bên. 6) Bà-la-môn Kasi Bhàradvàja thấy Thế Tôn đang đứng một bên để khất thực, thấy vậy, bèn nói với Thế Tôn: — Này Sa-môn, tôi cày và tôi gieo mạ; sau khi cày và gieo mạ, tôi ăn. Này Sa-môn, Ông có cày và gieo mạ không; sau khi cày và gieo mạ, Ông ăn? 7) — Này Bà-la-môn, Ta cũng có cày và gieo mạ, sau khi cày và gieo mạ, Ta ăn. 8) — Nhưng chúng tôi không thấy cái ách, cái cày, cái lưỡi cày, cái gậy đâm, hay các con bò đực của Tôn giả Gotama. Tuy vậy Tôn giả Gotama lại nói như sau: “Này Bà-la-môn, Ta cũng có cày và gieo mạ, sau khi cày và gieo mạ, Ta ăn”. 9) Rồi Bà-la-môn Kasi Bhàradvàja nói lên bài kệ với Thế Tôn: |
‘‘Kassako paṭijānāsi, na ca passāmi te kasiṃ; |
Ông nói là nông phu, Ta không thấy Ông cày, Người nông phu được hỏi, Hãy lên tiếng trả lời, |
Kassako pucchito brūhi, kathaṃ jānemu taṃ kasi’’nti. |
Sao chúng tôi biết được, Ông thật sự có cày? 10) (Thế Tôn): Lòng tin là hạt giống, |
‘‘Saddhā bījaṃ tapo vuṭṭhi, paññā me yuganaṅgalaṃ; |
Khổ hạnh là mưa móc, Trí tuệ đối với Ta, Là cày và ách mang, Tàm quý là cán cày, |
Hirī īsā mano yottaṃ, sati me phālapācanaṃ. |
Ý căn là dây cột, Chánh niệm đối với Ta, Là lưỡi cày, gậy đâm. Thân hành được hộ trì, |
‘‘Kāyagutto vacīgutto, āhāre udare yato; |
Khẩu hành được hộ trì Đối với các món ăn, Bụng Ta dùng vừa phải, Ta nhổ lên (tà vạy), |
Saccaṃ karomi niddānaṃ, soraccaṃ me pamocanaṃ. |
Với chơn lý sự thật, Hoan hỷ trong Niết-bàn Là giải thoát của Ta. Tinh tấn đối với Ta, |
‘‘Vīriyaṃ me dhuradhorayhaṃ, yogakkhemādhivāhanaṃ; |
Là khả năng mang ách, Đưa Ta tiến dần đến, An ổn khỏi ách nạn, Đi đến, không trở lui, |
Gacchati anivattantaṃ, yattha gantvā na socati. |
Chỗ Ta đi, không sầu. Như vậy, cày ruộng này, Đưa đến quả bất tử, Sau khi cày cày này, |
‘‘Evamesā kasī kaṭṭhā, sā hoti amatapphalā; |
|
Etaṃ kasiṃ kasitvāna, sabbadukkhā pamuccatī’’ti. |
|
‘‘Bhuñjatu bhavaṃ gotamo. Kassako bhavaṃ. Yañhi bhavaṃ gotamo amatapphalampi kasiṃ kasatī’’ti [bhāsatīti (ka.)]. |
11) — Hãy ăn Tôn giả Gotama, Tôn giả Gotama thật là người nông phu. Tôn giả Gotama cày, sự cày đưa đến quả bất tử. |
|
12) (Thế Tôn): |
‘‘Gāthābhigītaṃ me abhojaneyyaṃ, |
Ta không có hưởng thọ, Vì tụng hát kệ chú, |
Sampassataṃ brāhmaṇa nesa dhammo; |
Thường pháp không phải vậy, Đối vị có tri kiến. |
Gāthābhigītaṃ panudanti buddhā, |
Chư Phật đã loại bỏ, Tụng hát các kệ chú, |
Dhamme sati brāhmaṇa vuttiresā. |
Chơn thật đối với Pháp, Sở hành là như vậy. |
‘‘Aññena ca kevalinaṃ mahesiṃ, |
Bậc Đại Sĩ vẹn toàn, Cúng dường phải khác biệt, |
Khīṇāsavaṃ kukkuccavūpasantaṃ; |
Đoạn tận các lậu hoặc, Trạo hối được lắng dịu, |
Annena pānena upaṭṭhahassu, |
Với những bậc như vậy, Cơm nước phải cúng dường. |
Khettañhi taṃ puññapekkhassa hotī’’ti. |
Thật chính là phước điền, Cho những ai cầu phước. |
Evaṃ vutte, kasibhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama…pe… ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti. |
Được nghe nói vậy, Bà-la-môn Kasi Bhàradvàja bạch Thế Tôn: — Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối cho người có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Vậy nay con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng! |
2. Udayasuttaṃ |
II. Udaya (S.i,173) |
198. Sāvatthinidānaṃ. Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena udayassa brāhmaṇassa nivesanaṃ tenupasaṅkami. Atha kho udayo brāhmaṇo bhagavato pattaṃ odanena pūresi. Dutiyampi kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena udayassa brāhmaṇassa nivesanaṃ tenupasaṅkami…pe… tatiyampi kho udayo brāhmaṇo bhagavato pattaṃ odanena pūretvā bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘pakaṭṭhakoyaṃ samaṇo gotamo punappunaṃ āgacchatī’’ti. |
1) Nhân duyên ở Sàvatthi. 2) Rồi Thế Tôn vào buổi sáng, cầm y bát đi đến trú xứ của Bà-la-môn Udaya. 3) Bà-la-môn Udaya lấy cơm đổ đầy bình bát của Thế Tôn. 4) Lần thứ hai Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi đến trú xứ của Bà-la-môn Udaya… 5) Lần thứ ba, Bà-la-môn Udaya lấy cơm đổ đầy bình bát Thế Tôn và nói với Thế Tôn: – Tham lam là Sa-môn Gotama, đến đi đến lại nhiều lần! |
|
(Thế Tôn): |
‘‘Punappunañceva vapanti bījaṃ, punappunaṃ vassati devarājā; |
Nhiều lần và nhiều lần, Chúng gieo vãi hạt giống. Nhiều lần và nhiều lần, Trời mưa đi, mưa lại. |
Punappunaṃ khettaṃ kasanti kassakā, punappunaṃ dhaññamupeti raṭṭhaṃ. |
Nhiều lần và nhiều lần, Người nông phu cày ruộng. Nhiều lần và nhiều lần, Lúa gạo đến quốc độ. |
‘‘Punappunaṃ yācakā yācayanti, punappunaṃ dānapatī dadanti; |
Nhiều lần và nhiều lần, Hành khất lại xin ăn. Nhiều lần và nhiều lần, Thí chủ lại bố thí. |
Punappunaṃ dānapatī daditvā, punappunaṃ saggamupenti ṭhānaṃ. |
Nhiều lần và nhiều lần, Thí chủ sau khi cho. Nhiều lần và nhiều lần, Được đi đến thiên giới. |
‘‘Punappunaṃ khīranikā duhanti, punappunaṃ vaccho upeti mātaraṃ; |
Nhiều lần và nhiều lần, Người làm sữa vắt sữa, Nhiều lần và nhiều lần, Bò con tìm bò mẹ. |
Punappunaṃ kilamati phandati ca, punappunaṃ gabbhamupeti mando. |
Nhiều lần và nhiều lần, Mệt sức và lao khổ. Nhiều lần và nhiều lần, Kẻ ngu nhập bào thai. |
‘‘Punappunaṃ jāyati mīyati ca, punappunaṃ sivathikaṃ [sīvathikaṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)] haranti; |
Nhiều lần và nhiều lần, Lại sanh rồi lại chết. Nhiều lần và nhiều lần, Họ mang đến nghĩa địa. |
Maggañca laddhā apunabbhavāya, na punappunaṃ jāyati bhūripañño’’ti [punappunaṃ jāyati bhūripaññoti (syā. kaṃ. ka.)]. |
Họ được đường giải thoát, Không đưa đến tái sanh. Bậc đại trí, đại tuệ, Không sanh đi, sanh lại. |
Evaṃ vutte, udayo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama…pe… upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti. |
7) Khi được nói vậy, Bà-la-môn Udaya bạch Thế Tôn: — Thật vi diệu thay Tôn giả Gotama… Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng! |
3. Devahitasuttaṃ |
III. Devahita (S.i,173) |
199. Sāvatthinidānaṃ . Tena kho pana samayena bhagavā vātehābādhiko hoti; āyasmā ca upavāṇo bhagavato upaṭṭhāko hoti. Atha kho bhagavā āyasmantaṃ upavāṇaṃ āmantesi – ‘‘iṅgha me tvaṃ, upavāṇa, uṇhodakaṃ jānāhī’’ti. ‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho āyasmā upavāṇo bhagavato paṭissutvā nivāsetvā pattacīvaramādāya yena devahitassa brāhmaṇassa nivesanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā tuṇhībhūto ekamantaṃ aṭṭhāsi. Addasā kho devahito brāhmaṇo āyasmantaṃ upavāṇaṃ tuṇhībhūtaṃ ekamantaṃ ṭhitaṃ. Disvāna āyasmantaṃ upavāṇaṃ gāthāya ajjhabhāsi – |
1) Nhân duyên ở Sàvatthi. 2) Lúc bấy giờ, Thế Tôn bị bịnh về phong khí và Tôn giả Upavàna là thị giả Thế Tôn. 3) Rồi Thế Tôn gọi Tôn giả Upavàna: — Này Upavàna, Ông có biết làm sao cho Ta nước nóng? 4) — Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Tôn giả Upavàna vâng đáp Thế Tôn, đắp y, cầm y bát, đi đến trú xứ của Bà-la-môn Devahita; sau khi đến, đứng im lặng một bên. 5) Bà-la-môn Devahita thấy Tôn giả Upavàna đứng im lặng một bên, bèn nói lên bài kệ với Tôn giả Upavàna: |
‘‘Tuṇhībhūto bhavaṃ tiṭṭhaṃ, muṇḍo saṅghāṭipāruto; |
Tôn giả đứng im lặng, Trọc đầu, choàng đại y, |
Kiṃ patthayāno kiṃ esaṃ, kiṃ nu yācitumāgato’’ti. |
Ông muốn gì, cầu gì? Ông đến để xin gì? |
|
6) Tôn giả: |
‘‘Arahaṃ sugato loke, vātehābādhiko muni; |
Bậc La-hán, Thiện Thệ, Hiện bị bịnh phong khí, |
Sace uṇhodakaṃ atthi, munino dehi brāhmaṇa. |
Nếu đây có nước nóng, Hãy dâng bậc Đại Thánh! |
‘‘Pūjito pūjaneyyānaṃ, sakkareyyāna sakkato; |
Xứng đáng được cúng dường, Ngài đã được cúng dường. |
Apacito apaceyyānaṃ [apacineyyānaṃ (sī. syā. kaṃ.) ṭīkā oloketabbā], tassa icchāmi hātave’’ti. |
Xứng đáng được tôn kính, Ngài đã được tôn kính, |
|
Xứng đáng được cung kính, Ngài đã được cung kính, |
|
Vì Ngài, tôi muốn được Nước nóng để đem về. |
Atha kho devahito brāhmaṇo uṇhodakassa kājaṃ purisena gāhāpetvā phāṇitassa ca puṭaṃ āyasmato upavāṇassa pādāsi. Atha kho āyasmā upavāṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ uṇhodakena nhāpetvā [nahāpetvā (sī. pī.)] uṇhodakena phāṇitaṃ āloletvā bhagavato pādāsi. Atha kho bhagavato ābādho paṭippassambhi. |
7) Rồi Bà-la-môn Devahita bảo một người lấy đòn gánh gánh nước nóng và một bình đường mật, dâng cho Tôn giả Upavàna. 8) Rồi Tôn giả Upavàna đi đến Thế Tôn, dùng nước nóng tắm cho Thế Tôn, dùng đường mật pha với nước nóng dâng lên Thế Tôn dùng. 9) Và bệnh phong khí của Thế Tôn được nhẹ bớt. |
Atha kho devahito brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho devahito brāhmaṇo bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – |
10) Rồi Bà-la-môn Devahita đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. 11) Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Devahita nói lên bài kệ với Thế Tôn: |
‘‘Kattha dajjā deyyadhammaṃ, kattha dinnaṃ mahapphalaṃ; |
Chỗ nào người thí chủ, Xứng đáng nên bố thí? |
Kathañhi yajamānassa, kathaṃ ijjhati dakkhiṇā’’ti. |
Chỗ nào sự bố thí, Đưa đến quả báo lớn? |
‘‘Pubbenivāsaṃ yo vedī, saggāpāyañca passati; |
Cúng dường phải thế nào? Cung kính phải thế nào? |
|
12) (Thế Tôn): |
Atho jātikkhayaṃ patto, abhiññāvosito muni. |
Ai biết được đời trước, Thấy Thiên giới, ác thú, |
‘‘Ettha dajjā deyyadhammaṃ, ettha dinnaṃ mahapphalaṃ; |
Đoạn diệt được tái sanh, Thắng trí, bậc Mâu-ni. |
Evañhi yajamānassa, evaṃ ijjhati dakkhiṇā’’ti. |
Nên bố thí vị ấy, Bố thí được quả lớn. |
|
Cúng dường phải như vậy, Cung kính phải như vậy. |
Evaṃ vutte, devahito brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ bho gotama…pe… upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti. |
13) Khi được nghe nói vậy, Bà-la-môn Devahita bạch Thế Tôn: — Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!… Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng! |
4. Mahāsālasuttaṃ |
IV. Mahàsàla: Đại phú giả hay y choàng thô. |
200. Sāvatthinidānaṃ . Atha kho aññataro brāhmaṇamahāsālo lūkho lūkhapāvuraṇo [lūkhapāpuraṇo (sī. syā. kaṃ. pī.)] yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho taṃ brāhmaṇamahāsālaṃ bhagavā etadavoca – ‘‘kinnu tvaṃ, brāhmaṇa, lūkho lūkhapāvuraṇo’’ti? ‘‘Idha me, bho gotama, cattāro puttā. Te maṃ dārehi saṃpuccha gharā nikkhāmentī’’ti. ‘‘Tena hi tvaṃ, brāhmaṇa, imā gāthāyo pariyāpuṇitvā sabhāyaṃ mahājanakāye sannipatite puttesu ca sannisinnesu bhāsassu – |
1) Nhân duyên ở Sàvatthi. 2) Rồi một Bà-la-môn đại phú, dáng bộ tiều tụy, đắp y thô xấu, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm; sau nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. 3) Thế Tôn nói với vị Bà-la-môn đại phú đang ngồi xuống một bên: — Này Bà-la-môn, sao dáng bộ ông tiều tụy? Sao ông đắp y thô xấu? 4) — Thưa Tôn giả Gotama, ở đây bốn đứa con trai của con, chúng âm mưu với vợ của chúng, trục xuất con ra khỏi nhà. 5) — Vậy này Bà-la-môn, hãy đọc thuộc bài kệ này, và khi nào quần chúng hội họp trong thính đường và cả các người con cùng ngồi họp, hãy đọc lên bài kệ: |
‘‘Yehi jātehi nandissaṃ, yesañca bhavamicchisaṃ; |
Khi chúng sanh, tôi mừng Tôi muốn chúng sinh thành. |
Te maṃ dārehi saṃpuccha, sāva vārenti sūkaraṃ. |
Cùng vợ, chúng âm mưu, (Chống tôi và đuổi tôi), |
‘‘Asantā kira maṃ jammā, tāta tātāti bhāsare; |
Chẳng khác gì con chó, Xua đuổi bầy heo lợn, |
Rakkhasā puttarūpena, te jahanti vayogataṃ. |
Ác độc và lỗ mãng, Chúng gọi tôi: “Cha thân”. |
‘‘Assova jiṇṇo nibbhogo, khādanā apanīyati; |
Chúng thật quỷ Dạ-xoa, Đội lốt là con tôi, |
Bālakānaṃ pitā thero, parāgāresu bhikkhati. |
Và chúng trục xuất tôi, Khi tôi đến tuổi già, |
‘‘Daṇḍova kira me seyyo, yañce puttā anassavā; |
Như ngựa già suy nhược, Bị tẩn xuất chuồng ăn. |
Caṇḍampi goṇaṃ vāreti, atho caṇḍampi kukkuraṃ. |
Nay cha già bọn trẻ, Phải ăn xin nhà người, |
‘‘Andhakāre pure hoti, gambhīre gādhamedhati; |
Thà cho tôi cái gậy, Hơn lũ con bất hiếu. |
Daṇḍassa ānubhāvena, khalitvā patitiṭṭhatī’’ti. |
Với gậy, chận bò dữ, Chận được loại chó dữ, |
|
Chỗ tối dò an toàn, Chỗ sâu, tìm chân đứng, |
|
Với sức mạnh chiếc gậy, Vấp ngã đứng dậy được. |
Atha kho so brāhmaṇamahāsālo bhagavato santike imā gāthāyo pariyāpuṇitvā sabhāyaṃ mahājanakāye sannipatite puttesu ca sannisinnesu abhāsi – |
6) Bà-la-môn đại phú ấy học thuộc lòng bài kệ này từ Thế Tôn. Khi quần chúng tụ hội tại thính đường và giữa các người con đang ngồi họp, vị ấy đọc lên bài kệ: |
‘‘Yehi jātehi nandissaṃ, yesañca bhavamicchisaṃ; |
Khi chúng sanh, tôi mừng, Tôi muốn chúng sinh thành. |
Te maṃ dārehi saṃpuccha, sāva vārenti sūkaraṃ. |
Cùng vợ, chúng âm mưu, (Chống tôi và đuổi tôi), |
‘‘Asantā kira maṃ jammā, tāta tātāti bhāsare; |
Chẳng khác gì con chó, Xua đuổi bầy heo lợn. |
Rakkhasā puttarūpena, te jahanti vayogataṃ. |
Ác độc và lỗ mãng, Chúng gọi tôi: “Cha thân”. |
‘‘Assova jiṇṇo nibbhogo, khādanā apanīyati; |
Chúng thật quỷ Dạ-xoa, Đội lốt là con tôi, |
Bālakānaṃ pitā thero, parāgāresu bhikkhati. |
Và chúng trục xuất tôi, Khi tôi đến tuổi già, |
‘‘Daṇḍova kira me seyyo, yañce puttā anassavā; |
Như ngựa già, suy nhược, Bị tẩn xuất chuồng ăn. |
Caṇḍampi goṇaṃ vāreti, atho caṇḍampi kukkuraṃ. |
Nay cha già bọn trẻ, Phải ăn xin nhà người. |
‘‘Andhakāre pure hoti, gambhīre gādhamedhati; |
Thà cho tôi cái gậy, Hơn lũ con bất hiếu. |
Daṇḍassa ānubhāvena, khalitvā patitiṭṭhatī’’ti. |
Với gậy, chận bò dữ, Chận được loài chó dữ. |
|
Chỗ tối, dò an toàn, Chỗ sâu, tìm chân đứng, |
|
Với sức mạnh chiếc gậy, Vấp ngã, đứng dậy được. |
Atha kho naṃ brāhmaṇamahāsālaṃ puttā gharaṃ netvā nhāpetvā paccekaṃ dussayugena acchādesuṃ. Atha kho so brāhmaṇamahāsālo ekaṃ dussayugaṃ ādāya yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho brāhmaṇamahāsālo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘mayaṃ, bho gotama, brāhmaṇā nāma ācariyassa ācariyadhanaṃ pariyesāma. Paṭiggaṇhatu me bhavaṃ gotamo ācariyadhana’’nti. Paṭiggahesi bhagavā anukampaṃ upādāya. Atha kho so brāhmaṇamahāsālo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama…pe… upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti. |
8) Rồi những người con Bà-la-môn đại phú ấy, dắt người cha về nhà, tắm rửa và mỗi người đắp cho cha một bộ áo. 9) Rồi Bà-la-môn đại phú ấy cầm một bộ áo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. 10) Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn đại phú ấy bạch Thế Tôn: — Thưa Tôn giả Gotama, chúng con Bà-la-môn, có dâng cúng sở phí cho bậc Đạo Sư. Mong Tôn giả Gotama chấp nhận sở phí cho bậc Đạo Sư của con. 11) Và Thế Tôn vì lòng từ chấp nhận. 12) Rồi Bà-la-môn đại phú ấy bạch Thế Tôn: — Thật vi diệu thay Tôn giả Gotama!… Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng! |
5. Mānatthaddhasuttaṃ |
V. Mànatthada (S.i,177) |
201. Sāvatthinidānaṃ . Tena kho pana samayena mānatthaddho nāma brāhmaṇo sāvatthiyaṃ paṭivasati. So neva mātaraṃ abhivādeti, na pitaraṃ abhivādeti, na ācariyaṃ abhivādeti, na jeṭṭhabhātaraṃ abhivādeti. Tena kho pana samayena bhagavā mahatiyā parisāya parivuto dhammaṃ deseti. Atha kho mānatthaddhassa brāhmaṇassa etadahosi – ‘‘ayaṃ kho samaṇo gotamo mahatiyā parisāya parivuto dhammaṃ deseti. Yaṃnūnāhaṃ yena samaṇo gotamo tenupasaṅkameyyaṃ. Sace maṃ samaṇo gotamo ālapissati, ahampi taṃ ālapissāmi. No ce maṃ samaṇo gotamo ālapissati, ahampi nālapissāmī’’ti. Atha kho mānatthaddho brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā tuṇhībhūto ekamantaṃ aṭṭhāsi. Atha kho bhagavā taṃ nālapi. Atha kho mānatthaddho brāhmaṇo – ‘nāyaṃ samaṇo gotamo kiñci jānātī’ti tatova puna nivattitukāmo ahosi. Atha kho bhagavā mānatthaddhassa brāhmaṇassa cetasā cetoparivitakkamaññāya mānatthaddhaṃ brāhmaṇaṃ gāthāya ajjhabhāsi – |
1) Nhân duyên tại Sàvatthi. 2) Lúc bấy giờ, Bà-la-môn tên Mànatthada trú ở Sàvatthi. Vị này không cung kính mẹ, không cung kính cha, không cung kính Đạo sư, không cung kính anh trưởng. 3) Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang thuyết pháp, có đại chúng đoanh vây. 4) Rồi Bà-la-môn Mànatthada suy nghĩ như sau: “Sa-môn Gotama nay đang thuyết pháp có đại chúng đoanh vây. Vậy ta hãy đi đến Sa-môn Gotama. Nếu Sa-môn Gotama nói chuyện với ta, ta cũng sẽ nói chuyện với Sa-môn Gotama. Nếu Sa-môn Gotama không nói chuyện với ta, ta cũng sẽ không nói chuyện với Sa-môn Gotama”. 5) Rồi Bà-la-môn Mànatthada đi đến Thế Tôn; sau khi đến, liền đứng một bên và im lặng. 6) Và Thế Tôn không nói chuyện với Bà-la-môn ấy. 7) Bà-la-môn Mànatthada suy nghĩ: “Sa-môn Gotama này không biết gì hết”, bèn muốn trở về. 8) Rồi Thế Tôn với tâm tư của mình biết được tâm tư của Bà-la-môn Mànatthada, liền nói lên bài kệ với Bà-la-môn Mànatthada: |
‘‘Na mānaṃ brāhmaṇa sādhu, atthikassīdha brāhmaṇa; |
Hỡi này Bà-la-môn, Kiêu mạn không có tốt, Ở đây không có ai, |
Yena atthena āgacchi, tamevamanubrūhaye’’ti. |
Bà-la-môn nên biết. Ông đến, mục đích gì, Hãy nói lên cho biết? |
Atha kho mānatthaddho brāhmaṇo – ‘‘cittaṃ me samaṇo gotamo jānātī’’ti tattheva bhagavato pādesu sirasā nipatitvā bhagavato pādāni mukhena ca paricumbati pāṇīhi ca parisambāhati, nāmañca sāveti – ‘‘mānatthaddhāhaṃ, bho gotama, mānatthaddhāhaṃ, bho gotamā’’ti. Atha kho sā parisā abbhutacittajātā [abbhutacittajātā (sī. syā. kaṃ. pī.), acchariyabbhutacittajātā (ka.)] ahosi – ‘acchariyaṃ vata bho, abbhutaṃ vata bho! Ayañhi mānatthaddho brāhmaṇo neva mātaraṃ abhivādeti, na pitaraṃ abhivādeti, na ācariyaṃ abhivādeti, na jeṭṭhabhātaraṃ abhivādeti; atha ca pana samaṇe gotame evarūpaṃ paramanipaccakāraṃ karotī’ti. Atha kho bhagavā mānatthaddhaṃ brāhmaṇaṃ etadavoca – ‘‘alaṃ, brāhmaṇa , uṭṭhehi, sake āsane nisīda. Yato te mayi cittaṃ pasanna’’nti. Atha kho mānatthaddho brāhmaṇo sake āsane nisīditvā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – |
9) Bà-la-môn Mànatthada suy nghĩ: “Sa-môn Gotama biết tâm tư của ta”, cúi đầu đảnh lễ chaân Thế Tôn, lấy miệng hôn chân Thế Tôn, lấy tay thoa vuốt và nói lên tên của mình: — Tôn giả Gotama, con là Mànatthada. Tôn giả Gotama, con là Mànatthada. 10) Rồi đại chúng ấy tâm khởi lên kinh dị vi diệu: “Thật là vi diệu, thưa Ngài! Thật là hy hữu, thưa Ngài! Bà-la-môn Mànatthada không bao giờ cung kính mẹ, không bao giờ cung kính cha, không bao giờ cung kính Đạo sư, không bao giờ cung kính anh trưởng, nay lại hạ mình tột cùng như vậy trước Sa-môn Gotama.” 11) Rồi Thế Tôn nói với Bà-la-môn Mànatthada: — Thôi vừa rồi Bà-la-môn. Hãy đứng dậy và ngồi lại trên ghế của Ông. Lòng tín thành của Ông đối với Ta từ đâu đến? 12) Rồi Bà-la-môn Mànatthada sau khi ngồi trên ghế của mình, nói lên bài kệ với Thế Tôn: |
‘‘Kesu na mānaṃ kayirātha, kesu cassa sagāravo; |
Đối ai không nên kiêu? Đối ai nên kính trọng? |
Kyassa apacitā assu, kyassu sādhu supūjitā’’ti. |
Đối ai nên tôn kính? Cúng dường ai, tốt lành? |
|
13) (Thế Tôn): |
‘‘Mātari pitari cāpi, atho jeṭṭhamhi bhātari; |
Với mẹ và với cha, Với anh nhiều tuổi hơn, |
Ācariye catutthamhi, |
Với thầy là thứ tư, Không nên sanh kiêu mạn, |
Tesu na mānaṃ kayirātha; |
Nên kính trọng vị ấy, Nên tôn kính vị ấy, |
Tesu assa sagāravo, |
Cúng dường họ, tốt lành. Các bậc A-la-hán, |
Tyassa apacitā assu; |
Thanh lương, lậu hoặc đoạn, Việc nên làm đã làm, |
Tyassu sādhu supūjitā. |
Hãy nhiếp phục kiêu mạn, Bậc Vô thượng tôn ấy, |
‘‘Arahante sītībhūte, katakicce anāsave; |
Ông thật nên đảnh lễ. |
Nihacca mānaṃ athaddho, te namasse anuttare’’ti. |
|
Evaṃ vutte, mānatthaddho brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama…pe… upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti. |
14) Khi được nghe nói vậy, Bà-la-môn Mànatthada bạch Thế Tôn: — Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!… Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng! |
6. Paccanīkasuttaṃ |
VI. Paccaniika (S.i,179) |
202. Sāvatthinidānaṃ . Tena kho pana samayena paccanīkasāto nāma brāhmaṇo sāvatthiyaṃ paṭivasati. Atha kho paccanīkasātassa brāhmaṇassa etadahosi – ‘‘yaṃnūnāhaṃ yena samaṇo gotamo tenupasaṅkameyyaṃ. Yaṃ yadeva samaṇo gotamo bhāsissati taṃ tadevassāhaṃ [tadeva sāhaṃ (ka.)] paccanīkāssa’’nti [paccanīkassanti (pī.), paccanīkasātanti (ka.)]. Tena kho pana samayena bhagavā abbhokāse caṅkamati. Atha kho paccanīkasāto brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ caṅkamantaṃ etadavoca – ‘bhaṇa samaṇadhamma’nti. |
1) Nhân duyên ở Sàvatthi. 2) Lúc bấy giờ Bà-la-môn tên là Paccaniikasàta ở tại Sàvatthi. 3) Rồi Bà-la-môn Paccaniikasàta suy nghĩ như sau: “Ta hãy đi đến Sa-môn Gotama, và Sa-môn Gotama có nói điều gì, ta sẽ nói lời phản ngược lại”. 4) Lúc bấy giờ Thế Tôn đang đi kinh hành ngoài trời. 5) Rồi Ba-la-môn Paccaniikasàta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói với Thế Tôn đang đi kinh hành: — Này Sa-môn, hãy thuyết pháp. 6) (Thế Tôn): |
‘‘Na paccanīkasātena, suvijānaṃ subhāsitaṃ; |
Không thuyết pháp với ông, Này Paccanìka! Tâm ông thật ô uế, Và đầy những thù hận, |
Upakkiliṭṭhacittena, sārambhabahulena ca. |
Làm sao biết tốt đẹp, Làm sao nói tốt đẹp! Ai nhiếp phục thù hận, Nhiếp phục tâm chống đối, |
‘‘Yo ca vineyya sārambhaṃ, appasādañca cetaso; |
Từ bỏ mọi sân tâm, Vị ấy biết tốt đẹp, Vị ấy nói tốt đẹp. |
Āghātaṃ paṭinissajja, sa ve [sace (syā. kaṃ. ka.)] jaññā subhāsita’’nti. |
|
Evaṃ vutte, paccanīkasāto brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotama…pe… upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti. |
7) Khi được nghe nói vậy, Bà-la-môn Paccaniikasàta bạch Thế Tôn: — Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!… Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng! |
7. Navakammikasuttaṃ |
VII. Navakammika (S.i,179) |
203. Ekaṃ samayaṃ bhagavā kosalesu viharati aññatarasmiṃ vanasaṇḍe . Tena kho pana samayena navakammikabhāradvājo brāhmaṇo tasmiṃ vanasaṇḍe kammantaṃ kārāpeti. Addasā kho navakammikabhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ aññatarasmiṃ sālarukkhamūle nisinnaṃ pallaṅkaṃ ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā. Disvānassa etadahosi – ‘‘ahaṃ kho imasmiṃ vanasaṇḍe kammantaṃ kārāpento ramāmi. Ayaṃ samaṇo gotamo kiṃ kārāpento ramatī’’ti? Atha kho navakammikabhāradvājo brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami. Upasaṅkamitvā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – |
1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng. 2) Lúc bấy giờ Bà-la-môn Navakammika Bhàradvàa đang làm công việc tại khu rừng ấy. 3) Bà-la-môn Navakammika thấy Thế Tôn ngồi kiết-già dưới gốc cây, lưng thẳng và để niệm trước mặt. 4) Thấy vậy, vị Bà-la-môn suy nghĩ: “Ta thích làm việc về củi gỗ tại khu rừng này. Còn Sa-môn Gotama thời thích làm việc gì?” 5) Rồi Bà-la-môn Navakammika đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên bài kệ với Thế Tôn: |
‘‘Ke nu kammantā karīyanti, bhikkhu sālavane tava; |
Nay Ông làm việc gì, Trong rừng cây sa-la, |
Yadekako araññasmiṃ, ratiṃ vindati gotamo’’ti. |
Khiến Ông sống một mình, Vui gì Ông tìm được, Tỷ-kheo Gotama? |
|
6) (Thế Tôn): |
‘‘Na me vanasmiṃ karaṇīyamatthi, |
Ta không phải làm gì, Trong khu rừng (sa-la). |
Ucchinnamūlaṃ me vanaṃ visūkaṃ; |
Với Ta, rễ đã cắt, Cả khu rừng rậm rạp, |
Svāhaṃ vane nibbanatho visallo, |
Như vậy Ta được thoát, Mọi rừng rú chông gai. |
Eko rame aratiṃ vippahāyā’’ti. |
Tâm Ta không bị đâm, Một mình sống an lạc, |
|
Đoạn trừ mọi bất mãn, Sống thích thú hoan hỷ. |
Evaṃ vutte, navakammikabhāradvājo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama…pe… upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti. |
7) Được nghe nói vậy, Bà-la-môn Navakammika Bhàradvàja bạch Thế Tôn: — Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!… Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng! |
8. Kaṭṭhahārasuttaṃ |
VIII. Katthahàra (S.i,180) |
204. Ekaṃ samayaṃ bhagavā kosalesu viharati aññatarasmiṃ vanasaṇḍe. Tena kho pana samayena aññatarassa bhāradvājagottassa brāhmaṇassa sambahulā antevāsikā kaṭṭhahārakā māṇavakā yena vanasaṇḍo tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā addasaṃsu bhagavantaṃ tasmiṃ vanasaṇḍe nisinnaṃ pallaṅkaṃ ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā. Disvāna yena bhāradvājagotto brāhmaṇo tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhāradvājagottaṃ brāhmaṇaṃ etadavocuṃ – ‘‘yagghe, bhavaṃ jāneyyāsi! Asukasmiṃ vanasaṇḍe samaṇo nisinno pallaṅkaṃ ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā’’. Atha kho bhāradvājagotto brāhmaṇo tehi māṇavakehi saddhiṃ yena so vanasaṇḍo tenupasaṅkami. Addasā kho bhagavantaṃ tasmiṃ vanasaṇḍe nisinnaṃ pallaṅkaṃ ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā. Disvāna yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – |
1) Một thời Thế Tôn sống ở giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng. 2) Lúc bấy giờ, nhiều thanh niên lượm củi, đệ tử của Bà-la-môn thuộc dòng họ Bhàradvàja, đi đến khu rừng ấy. 3) Sau khi đến, họ thấy Thế Tôn ngồi kiết-già trong khu rừng ấy, lưng thẳng và để niệm trước mặt. Thấy vậy, họ liền đi đến Bà-la-môn thuộc dòng họ Bhàradvàja. 4) Sau khi đến, họ nói với Bà-la-môn thuộc dòng họ Bhàradvàja: — Tôn giả có biết không, tại một khu rừng kia, có vị Sa-môn ngồi kiết-già, lưng thẳng và để niệm trước mặt?. 5) Rồi Bà-la-môn thuộc dòng họ Bhàradvàja cùng với các thanh niên ấy đi đến khu rừng và thấy Thế Tôn tại khu rừng ấy, đang ngồi kiết-già, lưng thẳng và để niệm trước mặt. Thấy vậy họ liền đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên bài kệ với Thế Tôn: |
‘‘Gambhīrarūpe bahubherave vane, |
Trong khu rừng thâm u, Nhiều dễ sợ khủng khiếp, |
Suññaṃ araññaṃ vijanaṃ vigāhiya; |
Rừng trống không, hoang vắng, Ngài vào sâu một mình, |
Aniñjamānena ṭhitena vaggunā, |
Thân bất động, kiên trì, Đẹp đẽ và uy nghi. |
Sucārurūpaṃ vata bhikkhu jhāyasi. |
Này Tỷ-kheo, Ngài thiền Với tâm tư định tĩnh. |
‘‘Na yattha gītaṃ napi yattha vāditaṃ, |
Ở đây không ca hát, Ở đây không nói năng, |
Eko araññe vanavassito muni; |
Cô độc trong rừng sâu, Bậc Thánh nhơn an trú, |
Accherarūpaṃ paṭibhāti maṃ idaṃ, |
Như vậy đối với con, Thật kỳ diệu hy hữu. |
Yadekako pītimano vane vase. |
Khi Ngài sống một mình, Hoan hỷ trong rừng vắng, |
‘‘Maññāmahaṃ lokādhipatisahabyataṃ, |
Con nghĩ, Ngài ước nguyện, Đồng sanh làm thân hữu, |
Ākaṅkhamāno tidivaṃ anuttaraṃ; |
Với bậc Thế giới chủ, Tại vô thượng Tam thiên. |
Kasmā bhavaṃ vijanamaraññamassito, |
Vậy sao bậc Tôn giả, Không bỏ rừng hoang vắng, |
Tapo idha kubbasi brahmapattiyā’’ti. |
Tu khổ hạnh ở đây, Để đạt Phạm thiên quả? |
|
6) (Thế Tôn): |
‘‘Yā kāci kaṅkhā abhinandanā vā, |
Phàm có ước vọng gì, Hay những ái lạc gì, |
Anekadhātūsu puthū sadāsitā; |
Những gì kẻ phàm phu, Thường chấp trước các giới, |
Aññāṇamūlappabhavā pajappitā, |
Các tham ái khởi lên, Từ gốc rễ vô minh, |
Sabbā mayā byantikatā samūlikā. |
Tất cả Ta đoạn tận, Trừ cả gốc lẫn rễ. |
‘‘Svāhaṃ akaṅkho asito anūpayo, |
Nay Ta không ước nguyện, Không tham ái, chấp trước, |
Sabbesu dhammesu visuddhadassano; |
Đối với tất cả pháp, Ta thấy đều thanh tịnh. |
Pappuyya sambodhimanuttaraṃ sivaṃ, |
Đạt được Chánh Đẳng Giác, Và mục đích tối thượng, |
Jhāyāmahaṃ brahma raho visārado’’ti. |
Ta tu tập Thiền định, Vắng lặng, không sợ hãi. |
Evaṃ vutte, bhāradvājagotto brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama abhikkantaṃ, bho gotama…pe… ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti. |
7) Khi được nghe nói vậy, Bà-la-môn thuộc dòng họ Bhàradvàja bạch Thế Tôn: — Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!.. từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng! |
9. Mātuposakasuttaṃ |
IX. Màtaposaka: Nuôi dưỡng mẹ (S.i,181) |
205. Sāvatthinidānaṃ. Atha kho mātuposako brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho mātuposako brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘ahañhi, bho gotama, dhammena bhikkhaṃ pariyesāmi, dhammena bhikkhaṃ pariyesitvā mātāpitaro posemi. Kaccāhaṃ, bho gotama, evaṃkārī kiccakārī homī’’ti? ‘‘Taggha tvaṃ, brāhmaṇa, evaṃkārī kiccakārī hosi. Yo kho, brāhmaṇa, dhammena bhikkhaṃ pariyesati, dhammena bhikkhaṃ pariyesitvā mātāpitaro poseti, bahuṃ so puññaṃ pasavatī’’ti. |
1) Nhân duyên ở Sàvatthi. 2) Rồi Bà-la-môn Màtaposaka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, bèn ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Màtaposaka nói với Thế Tôn: — Thưa Tôn giả Gotama, tôi tìm món ăn thiết thực theo thường pháp. Sau khi tìm món ăn thiết thực theo thường pháp, tôi nuôi dưỡng mẹ cha. Thưa Tôn giả Gotama, tôi làm như vậy; tôi có làm đúng trách nhiệm không? 4) — Này Bà-la-môn, Ông làm như vậy là làm đúng trách nhiệm. Này Bà-la-môn, ai tìm đồ ăn thiết thực theo thường pháp; sau khi tìm đồ ăn thiết thực theo thường pháp, lại nuôi dưỡng mẹ cha thì người ấy được nhiều công đức. |
‘‘Yo mātaraṃ pitaraṃ vā, macco dhammena posati; |
Người nào theo thường pháp, Nuôi dưỡng mẹ và cha, Chính do công hạnh này, |
Tāya naṃ pāricariyāya, mātāpitūsu paṇḍitā; |
Đối với cha, với mẹ, Nhờ vậy, bậc Hiền Thánh, Trong đời này tán thán, |
Idheva naṃ pasaṃsanti, pecca sagge pamodatī’’ti. |
Sau khi chết, được sanh, Hưởng an lạc, chư Thiên. |
Evaṃ vutte, mātuposako brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotama…pe… upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti. |
5) Khi được nghe nói vậy, Bà-la-môn Màtaposaka bạch Thế Tôn: — Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay Tôn giả Gotama!… Mong Tôn giả nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng! |
10. Bhikkhakasuttaṃ |
X. Bhikkhaka (S.i,182) |
206. Sāvatthinidānaṃ. Atha kho bhikkhako brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho bhikkhako brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘ahampi kho, bho gotama, bhikkhako, bhavampi bhikkhako, idha no kiṃ nānākaraṇa’’nti? |
1) Nhân duyên ở Sàvatthi. 2) Rồi Bà-la-môn Bhikkhaka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, bèn ngồi một bên. 3) Ngồi một bên Bà-la-môn Bhikkhaka bạch Thế Tôn: — Thưa Tôn giả Gotama, con là người khất thực và Tôn giả cũng là người khất thực. Vậy có sự sai khác gì giữa chúng ta? 4) (Thế Tôn): |
‘‘Na tena bhikkhako hoti, yāvatā bhikkhate pare; |
Không phải ai xin ăn, Cũng gọi là khất sĩ. |
Vissaṃ dhammaṃ samādāya, bhikkhu hoti na tāvatā. |
Nếu chấp trì độc pháp, Không còn gọi Tỷ-kheo. |
‘‘Yodha puññañca pāpañca, bāhitvā brahmacariyaṃ; |
Ai sống ở đời này, Từ bỏ các phước báo, |
Saṅkhāya loke carati, sa ve bhikkhūti vuccatī’’ti. |
Đoạn trừ mọi ác pháp, Hành trì theo Phạm hạnh, |
|
Sống đời sống chánh trí, Vị ấy xứng “Tỷ-kheo”. |
Evaṃ vutte, bhikkhako brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotama…pe… upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti. |
5) Khi được nghe nói vậy, Bà-la-môn Bhikkhaka bạch Thế Tôn: — Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!… Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng! |
11. Saṅgāravasuttaṃ |
XI. Sangàrava (S.i,182) |
207. Sāvatthinidānaṃ. Tena kho pana samayena saṅgāravo nāma brāhmaṇo sāvatthiyaṃ paṭivasati udakasuddhiko, udakena parisuddhiṃ pacceti, sāyaṃ pātaṃ udakorohanānuyogamanuyutto viharati. Atha kho āyasmā ānando pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisi. Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘idha, bhante, saṅgāravo nāma brāhmaṇo sāvatthiyaṃ paṭivasati udakasuddhiko , udakena suddhiṃ pacceti, sāyaṃ pātaṃ udakorohanānuyogamanuyutto viharati. Sādhu, bhante, bhagavā yena saṅgāravassa brāhmaṇassa nivesanaṃ tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyā’’ti. Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena. |
1) Nhân duyên ở Sàvatthi. 2) Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Sangàrava trú ở Sàvatthi, là nhà Tịnh thủy hành, tin tưởng nhờ nước được thanh tịnh, sáng chiều theo hạnh xuống nước (để tắm cho thanh tịnh). 3) Rồi Tôn giả Ananda vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực. Khất thực xong, sau bữa ăn, trên con đường đi khất thực trở về Tôn giả đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. 4) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn: — Ở đây, bạch Thế Tôn, Bà-la-môn Sangàrava trú ở Sàvatthi, là nhà Tịnh thủy hành, tin tưởng nhờ nước được thanh tịnh, sáng chiều theo hạnh xuống nước (để tắm cho thanh tịnh). Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn vì lòng từ mẫn đi đến trú xứ của Bà-la-môn Sangàrava. 5) Thế Tôn im lặng nhận lời. |
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena saṅgāravassa brāhmaṇassa nivesanaṃ tenupasaṅkami ; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi. Atha kho saṅgāravo brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho saṅgāravaṃ brāhmaṇaṃ bhagavā etadavoca – ‘‘saccaṃ kira tvaṃ, brāhmaṇa, udakasuddhiko, udakena suddhiṃ paccesi, sāyaṃ pātaṃ udakorohanānuyogamanuyutto viharasī’’ti? ‘‘Evaṃ, bho gotama’’. ‘‘Kiṃ pana tvaṃ, brāhmaṇa, atthavasaṃ sampassamāno udakasuddhiko, udakasuddhiṃ paccesi, sāyaṃ pātaṃ udakorohanānuyogamanuyutto viharasī’’ti? ‘‘Idha me, bho gotama [idha me bho gotama ahaṃ (pī. ka.)], yaṃ divā pāpakammaṃ kataṃ hoti, taṃ sāyaṃ nhānena [nahānena (sī. syā. kaṃ. pī.)] pavāhemi, yaṃ rattiṃ pāpakammaṃ kataṃ hoti taṃ pātaṃ nhānena pavāhemi. Imaṃ khvāhaṃ, bho gotama, atthavasaṃ sampassamāno udakasuddhiko, udakena suddhiṃ paccemi, sāyaṃ pātaṃ udakorohanānuyogamanuyutto viharāmī’’ti. |
6) Rồi Thế Tôn vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát đi đến trú xứ của Bà-la-môn Sangàrava; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. 7) Rồi Bà-la-môn Sangàrava đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. 8) Thế Tôn nói với Bà-la-môn Sangàrava đang ngồi một bên: — Có đúng sự thật chăng, này Bà-la-môn, Ông là nhà Tịnh thủy hành, tin tưởng nhờ nước được thanh tịnh, sáng chiều sống theo hạnh xuống nước (để tắm cho thanh tịnh)? 9) — Thưa đúng vậy, Tôn giả Gotama. 10) — Này Bà-la-môn, nhằm mục đích lợi ích gì, Ông là nhà Tịnh thủy hành, tin tưởng nhờ nước được thanh tịnh, sáng chiều sống theo hạnh xuống nước (để tắm cho thanh tịnh)? 11) — Ở đây, Tôn giả Gotama, ban ngày tôi làm ác nghiệp gì, buổi chiều tôi tắm để gội sạch ác nghiệp ấy; buổi tối tôi làm ác nghiệp gì, buổi sáng hôm sau tôi tắm để gội sạch ác nghiệp ấy. Tôn giả Gotama, do nhằm mục đích như vậy, tôi là nhà Tịnh thủy hành tin tưởng nhờ nước được thanh tịnh, sáng chiều tôi sống theo hạnh xuống nước (để tắm cho thanh tịnh). |
‘‘Dhammo rahado brāhmaṇa sīlatittho, |
12) (Thế Tôn): Chánh pháp là ao hồ, Giới là bến nước tắm, |
Anāvilo sabbhi sataṃ pasattho; |
Không cấu uế, trong sạch, Được thiện nhơn tán thán, |
Yattha have vedaguno sinātā, |
Là chỗ bậc có trí, Thường tắm, trừ uế tạp, |
Anallagattāva [anallīnagattāva (ka.)] taranti pāra’’nti. |
Khi tay chân trong sạch, Họ qua bờ bên kia. |
Evaṃ vutte, saṅgāravo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotama…pe… upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti. |
13) Khi được nghe nói vậy, Bà-la-môn Sangàrava bạch Thế Tôn: — Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!… Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng! |
12. Khomadussasuttaṃ |
XII. Khomadusa (S.i,154) |
208. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sakkesu viharati khomadussaṃ nāmaṃ sakyānaṃ nigamo. Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya khomadussaṃ nigamaṃ piṇḍāya pāvisi. Tena kho pana samayena khomadussakā brāhmaṇagahapatikā sabhāyaṃ sannipatitā honti kenacideva karaṇīyena, devo ca ekamekaṃ phusāyati. Atha kho bhagavā yena sā sabhā tenupasaṅkami. Addasaṃsu khomadussakā brāhmaṇagahapatikā bhagavantaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna etadavocuṃ – ‘‘ke ca muṇḍakā samaṇakā, ke ca sabhādhammaṃ jānissantī’’ti? Atha kho bhagavā khomadussake brāhmaṇagahapatike gāthāya ajjhabhāsi – |
1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Sakka, tại thị trấn của dân chúng Sakka tên là Khomadussa. 2) Rồi Thế Tôn vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào thị trấn Khomadussa để khất thực. 3) Lúc bấy giờ các Bà-la-môn gia chủ ở Khomadussa đang tụ họp tại hội trường để giải quyết một vài vấn đề và trời đang mưa nhỏ hột. 4) Rồi Thế Tôn đi đến hội trường ấy. 5) Các Bà-la-môn gia chủ ở Khomadussa thấy Thế Tôn từ xa đi đến. 6) Thấy vậy, họ bèn nói: — Những Sa-môn đầu trọc ấy là ai? Và họ có thể biết gì về quy tắc của hội trường? 7) Rồi Thế Tôn nói lên bài kệ với các Bà-la-môn gia chủ ở Khomadussa: |
‘‘Nesā sabhā yattha na santi santo, |
Không thể có hội trường, Nếu không có thiện nhân. |
Santo na te ye na vadanti dhammaṃ; |
Không thể có thiện nhân, Nếu không nói đúng pháp. |
Rāgañca dosañca pahāya mohaṃ, |
Những ai đã đoạn trừ, Cả tham, sân và ái, |
Dhammaṃ vadantā ca bhavanti santo’’ti. |
Nói lên lời đúng pháp, Họ mới thật thiện nhân. |
Evaṃ vutte, khomadussakā brāhmaṇagahapatikā bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotama; seyyathāpi, bho gotama, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya – cakkhumanto rūpāni dakkhantīti, evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito. Ete mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāma dhammañca bhikkhusaṅghañca. Upāsake no bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupete saraṇaṃ gate’’ti. |
8) Khi được nghe nói vậy, các Bà-la-môn gia chủ ở Khomadussa bạch Thế Tôn: — Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem ánh sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Chúng con xin quy y Thế Tôn Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng. |
Upāsakavaggo dutiyo. |
|
Tassuddānaṃ – |
|
Kasi udayo devahito, aññataramahāsālaṃ; |
|
Mānathaddhaṃ paccanīkaṃ, navakammikakaṭṭhahāraṃ; |
|
Mātuposakaṃ bhikkhako, saṅgāravo ca khomadussena dvādasāti. |
|
Brāhmaṇasaṃyuttaṃ samattaṃ. |
|