Tipitaka.org |
Việt dịch: HT. Thích Minh Châu |
1. Sanaṅkumārasuttaṃ |
I. Sanamkumàra – Thường Đồng tử (S.i,153) |
182. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati sappinītīre. Atha kho brahmā sanaṅkumāro abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ sappinītīraṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho brahmā sanaṅkumāro bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi – |
1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương Xá), trên bờ sông Sappini. 2) Rồi Phạm thiên Sanamkumàra, khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng bờ sông Sappini, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi đứng một bên. 3) Đứng một bên, Phạm thiên Sanamkumàra nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn: |
‘‘Khattiyo seṭṭho janetasmiṃ, ye gottapaṭisārino; |
Sát-đế-lỵ tối thắng, Giữa người tin giai cấp. |
Vijjācaraṇasampanno, so seṭṭho devamānuse’’ti. |
Vị đầy đủ trí, đức, Tối thắng giữa Nhơn, Thiên. |
Idamavoca brahmā sanaṅkumāro. Samanuñño satthā ahosi. Atha kho brahmā sanaṅkumāro ‘‘samanuñño me satthā’’ti bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyīti. |
4) Phạm thiên Sanamkumàra nói như vậy, và bậc Đạo Sư chấp nhận. 5) Rồi Phạm thiên Sanamkumàra biết được: “Thế Tôn đã chấp nhận ta”, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài và biến mất tại chỗ. |
2. Devadattasuttaṃ |
II. Devadatta (S.i,153) |
183. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate acirapakkante devadatte. Atha kho brahmā sahampati abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ gijjhakūṭaṃ pabbataṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho brahmā sahampati devadattaṃ ārabbha bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi – |
1) Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha, trên núi Linh Thứu, khi Devadatta bỏ đi không bao lâu. 2) Rồi Phạm thiên Sahampati, khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng núi Linh Thứu, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. 3) Đứng một bên, Phạm thiên Sahampati nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về Devadatta: |
‘‘Phalaṃ ve kadaliṃ hanti, phalaṃ veḷuṃ phalaṃ naḷaṃ; |
Cây chuối bị trái giết, Cũng vậy cây tre, lau. |
Sakkāro kāpurisaṃ hanti, gabbho assatariṃ yathā’’ti. |
Danh vọng giết kẻ ác, Như thai giết con la. |
3. Andhakavindasuttaṃ |
III. Andhakavinda (S.i,154) |
184. Ekaṃ samayaṃ bhagavā māgadhesu viharati andhakavinde. Tena kho pana samayena bhagavā rattandhakāratimisāyaṃ abbhokāse nisinno hoti, devo ca ekamekaṃ phusāyati. Atha kho brahmā sahampati abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ andhakavindaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho brahmā sahampati bhagavato santike imā gāthāyo abhāsi – |
1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Magadha, tại Andhakavinda. 2) Lúc bấy giờ Thế Tôn ngồi ở ngoài trời, trong bóng đêm, trong khi trời mưa từng hột một. 3) Rồi Phạm thiên Sahampati, trong khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Andhakavinda, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. 4) Đứng một bên, Phạm thiên Sahampati nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn: |
‘‘Sevetha pantāni senāsanāni, |
Hãy ở chỗ núi non, Xa vắng các xóm làng, |
Careyya saṃyojanavippamokkhā; |
Hãy sống đời giải thoát, Từ bỏ các kiết sử ! |
Sace ratiṃ nādhigaccheyya tattha, |
Nếu tại đấy không đạt Điều Ông ưa, Ông thích, |
Saṅghe vase rakkhitatto satīmā. |
Hãy sống giữa chúng Tăng, Hộ trì, giữ chánh niệm, |
‘‘Kulākulaṃ piṇḍikāya caranto, |
Và bộ hành khất thực, Nhà này đến nhà khác, |
Indriyagutto nipako satīmā; |
Các căn được hộ trì, Thận trọng, giữ chánh niệm. |
Sevetha pantāni senāsanāni, |
Hãy ở chỗ núi non, Xa vắng các xóm làng, |
Bhayā pamutto abhaye vimutto. |
Thoát ly mọi sợ hãi, Vô úy, sống giải thoát. |
‘‘Yattha bheravā sarīsapā [siriṃ sapā (sī. syā. kaṃ. pī.)], |
Những chỗ có rắn độc, Có đêm chớp, sấm vang, |
Vijju sañcarati thanayati devo; |
Trong đêm đen tối mịt, Vị Tỷ-kheo lặng ngồi, |
Andhakāratimisāya rattiyā, |
Không run, không hoảng sợ, Lông tóc không dựng ngược, |
Nisīdi tattha bhikkhu vigatalomahaṃso. |
Chính mắt con thấy vậy, Không phải chỉ nghe đồn. |
‘‘Idañhi jātu me diṭṭhaṃ, nayidaṃ itihītihaṃ; |
Chính trong một Phạm hạnh, Ngàn người thoát tử thần. |
Ekasmiṃ brahmacariyasmiṃ, sahassaṃ maccuhāyinaṃ. |
Hơn năm trăm hữu học, Mười, mười lần một trăm, |
‘‘Bhiyyo [bhīyo (sī. syā. kaṃ. pī.)] pañcasatā sekkhā, dasā ca dasadhā dasa; |
Tất cả chúng Dự lưu, Khỏi sanh loại bàng sanh. |
Sabbe sotasamāpannā, atiracchānagāmino. |
Còn các vị còn lại, Theo con đều hưởng phước, |
‘‘Athāyaṃ [atthāyaṃ-itipi dī. ni. 2.290] itarā pajā, puññabhāgāti me mano; |
Con đếm không kể xiết, Sợ rơi vào vọng ngữ. |
Saṅkhātuṃ nopi sakkomi, musāvādassa ottapa’’nti [ottapeti (sī. syā. kaṃ. pī.), ottappeti (ka.)]. |
|
4. Aruṇavatīsuttaṃ |
IV. Arunavàti (S.i,155) |
185. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati…pe… tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘bhikkhavo’’ti. ‘‘Bhadante’’ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca – |
1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi…,… 2) Ở đấy, Thế Tôn gọi các vị Tỷ-kheo: — Này các Tỷ-kheo. 3) — Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. 4) Thế Tôn nói như sau: |
‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, rājā ahosi aruṇavā nāma. Rañño kho pana, bhikkhave, aruṇavato aruṇavatī nāma rājadhānī ahosi. Aruṇavatiṃ kho pana, bhikkhave, rājadhāniṃ [aruṇavatiyaṃ kho pana bhikkhave rājadhāniyaṃ (pī. ka.)] sikhī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho upanissāya vihāsi. Sikhissa kho pana, bhikkhave, bhagavato arahato sammāsambuddhassa abhibhūsambhavaṃ nāma sāvakayugaṃ ahosi aggaṃ bhaddayugaṃ. |
5) — Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có vị vua tên là Arunavà. Này các Tỷ-kheo, kinh đô vua Arunavà này tên là Arunavati. Này các Tỷ-kheo, gần kinh đô Arunavati, Thế Tôn Sikhì bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác an trú. 6) Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có hai vị đệ tử xuất chúng, thượng túc, tên là Abhibhu và Sambhava. |
Atha kho, bhikkhave, sikhī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho abhibhuṃ bhikkhuṃ āmantesi – ‘āyāma, brāhmaṇa, yena aññataro brahmaloko tenupasaṅkamissāma, yāva bhattassa kālo bhavissatī’ti. ‘Evaṃ, bhante’ti kho bhikkhave, abhibhū bhikkhu sikhissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa paccassosi. Atha kho, bhikkhave, sikhī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho abhibhū ca bhikkhu – seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya evameva – aruṇavatiyā rājadhāniyā antarahitā tasmiṃ brahmaloke pāturahesuṃ. |
7) Rồi này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhì bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác gọi Tỷ-kheo Abhibhu: ” — Này Bà-la-môn, chúng ta hãy đi đến một Phạm thiên giới cho đến thời dùng bữa ăn”. 8) “– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.” Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Abhibhu vâng đáp Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác. 9) Rồi này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác và Tỷ-kheo Abhibhu, như nhà lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, cũng vậy (hai vị) biến mất ở kinh đô Arunavati và hiện ra ở Phạm thiên giới ấy. |
‘‘Atha kho, bhikkhave, sikhī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho abhibhuṃ bhikkhuṃ āmantesi – ‘paṭibhātu, brāhmaṇa, taṃ brahmuno ca brahmaparisāya ca brahmapārisajjānañca dhammī kathā’ti. ‘Evaṃ, bhante’ti kho, bhikkhave, abhibhū bhikkhu sikhissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa paṭissutvā, brahmānañca brahmaparisañca brahmapārisajje ca dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṃsesi. Tatra sudaṃ, bhikkhave, brahmā ca brahmaparisā ca brahmapārisajjā ca ujjhāyanti khiyyanti [khīyanti (sī. syā. kaṃ. pī.)] vipācenti – ‘acchariyaṃ vata , bho, abbhutaṃ vata bho, kathañhi nāma satthari sammukhībhūte sāvako dhammaṃ desessatī’’’ti ! |
10) Rồi này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán Chánh Đẳng Chánh Giác bảo Tỷ-kheo Abhibhu: ” — Này Bà-la-môn, hãy nói bài pháp cho Phạm thiên này, cho Phạm phụ thiên và cho Phạm chúng thiên”. 11) “– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.” Tỷ-kheo Abhibhu vâng đáp Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, tuyên thuyết bài pháp cho Phạm thiên ấy, cho Phạm phụ thiên và cho Phạm chúng thiên, khích lệ, làm họ phấn khởi, làm họ hoan hỷ. 12) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Phạm thiên, Phạm phụ thiên và Phạm chúng thiên cảm thấy xúc phạm, bực bội, tức tối và nói rằng: “Thật là hy hữu, thật là vi diệu, làm sao một đệ tử lại thuyết pháp trước mặt bậc Đạo Sư?”. |
‘‘Atha kho, bhikkhave, sikhī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho abhibhuṃ bhikkhuṃ āmantesi – ‘ujjhāyanti kho te, brāhmaṇa, brahmā ca brahmaparisā ca brahmapārisajjā ca – acchariyaṃ vata, bho, abbhutaṃ vata, bho, kathañhi nāma satthari sammukhībhūte sāvako dhammaṃ desessatīti! Tena hi tvaṃ brāhmaṇa, bhiyyosomattāya brahmānañca brahmaparisañca brahmapārisajje ca saṃvejehī’ti. ‘Evaṃ, bhante’ti kho, bhikkhave, abhibhū bhikkhu sikhissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa paṭissutvā dissamānenapi kāyena dhammaṃ desesi, adissamānenapi kāyena dhammaṃ desesi, dissamānenapi heṭṭhimena upaḍḍhakāyena adissamānena uparimena upaḍḍhakāyena dhammaṃ desesi, dissamānenapi uparimena upaḍḍhakāyena adissamānena heṭṭhimena upaḍḍhakāyena dhammaṃ desesi. Tatra sudaṃ, bhikkhave, brahmā ca brahmaparisā ca brahmapārisajjā ca acchariyabbhutacittajātā ahesuṃ – ‘acchariyaṃ vata, bho, abbhutaṃ vata, bho, samaṇassa mahiddhikatā mahānubhāvatā’’’ti! |
13) Rồi này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác bảo Tỷ-kheo Abhibhu: “– Này Bà-la-môn, Phạm thiên, Phạm thụ thiên, và Phạm chúng thiên ấy cảm thấy xúc phạm, bực bội, tức tối, nói rằng: ‘Thật là hy hữu, thật là vi diệu, làm sao một đệ tử lại thuyết pháp trước mặt bậc Đạo Sư?’ Vậy này Bà-la-môn, hãy làm cho Phạm thiên, Phạm phụ thiên và Phạm chúng thiên càng dao động bội phần hơn nữa”. 14) “– Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Abhibhu vâng đáp Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, hiện thân thuyết pháp, tàng thân thuyết pháp, hiện nửa thân dưới không hiện nửa thân trên thuyết pháp, hiện nửa thân trên không hiện nửa thân giữa thuyết pháp. 15) Ở đây, này các Tỷ-kheo, Phạm thiên, Phạm phụ thiên và Phạm chúng thiên, tâm khởi lên hy hữu, kỳ diệu nói rằng: “Thật là hy hữu, thật là kỳ diệu, đại thần lực và đại uy lực của vị Sa-môn”. |
‘‘Atha kho abhibhū bhikkhu sikhiṃ bhagavantaṃ arahantaṃ sammāsambuddhaṃ etadavoca – ‘abhijānāmi khvāhaṃ, bhante, bhikkhusaṅghassa majjhe evarūpiṃ vācaṃ bhāsitā – pahomi khvāhaṃ āvuso, brahmaloke ṭhito sahassilokadhātuṃ [sahassīlokadhātuṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)] sarena viññāpetu’nti. ‘Etassa, brāhmaṇa, kālo, etassa, brāhmaṇa, kālo; yaṃ tvaṃ, brāhmaṇa, brahmaloke ṭhito sahassilokadhātuṃ sarena viññāpeyyāsī’ti. ‘Evaṃ, bhante’ti kho, bhikkhave, abhibhū bhikkhu sikhissa bhagavato arahato sammāsambuddhassa paṭissutvā brahmaloke ṭhito imā gāthāyo abhāsi – |
16) Rồi Tỷ-kheo Abhibhu bạch Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác: “– Bạch Thế Tôn, con xác nhận với lời nói này giữa chúng Tỷ-kheo Tăng: “Đứng ở Phạm thiên giới, con có thể khiến cho ngàn thế giới nghe được tiếng của con.” 17) “– Này Bà-la-môn, nay là thời cho sự việc ấy. Này Bà-la-môn, nay là thời cho sự việc ấy. Này Bà-la-môn, Ông hãy đứng ở Phạm thiên giới và làm cho ngàn thế giới nghe được tiếng nói của ông”. 18) “– Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Abhibhu vâng đáp Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, đứng ở Phạm thiên giới và nói lên bài kệ này: |
‘‘Ārambhatha [ārabbhatha (sabbattha)] nikkamatha [nikkhamatha (sī. pī.)], yuñjatha buddhasāsane; |
“Hãy đứng dậy, lên đường, Hãy dấn thân Phật giáo, |
Dhunātha maccuno senaṃ, naḷāgāraṃva kuñjaro. |
Hãy đánh bại Ma quân, Như voi phá chòi lá. |
‘‘Yo imasmiṃ dhammavinaye, appamatto vihassati; |
Ai trong pháp luật này, An trú không phóng dật, |
Pahāya jātisaṃsāraṃ, dukkhassantaṃ karissatī’’ti. |
Đoạn tận vòng sống chết, Sẽ chấm dứt khổ đau”. |
‘‘Atha kho, bhikkhave, sikhī ca bhagavā arahaṃ sammāsambuddho abhibhū ca bhikkhu brahmānañca brahmaparisañca brahmapārisajje ca saṃvejetvā – seyyathāpi nāma…pe… tasmiṃ brahmaloke antarahitā aruṇavatiyā rājadhāniyā pāturahesuṃ. Atha kho, bhikkhave, sikhī bhagavā arahaṃ sammāsambuddho bhikkhū āmantesi – ‘assuttha no, tumhe, bhikkhave, abhibhussa bhikkhuno brahmaloke ṭhitassa gāthāyo bhāsamānassā’ti? ‘Assumha kho mayaṃ, bhante, abhibhussa bhikkhuno brahmaloke ṭhitassa gāthāyo bhāsamānassā’ti. ‘Yathā kathaṃ pana tumhe, bhikkhave, assuttha abhibhussa bhikkhuno brahmaloke ṭhitassa gāthāyo bhāsamānassā’’’ti? Evaṃ kho mayaṃ, bhante, assumha abhibhussa bhikkhuno brahmaloke ṭhitassa gāthāyo bhāsamānassa – |
19) Này các Tỷ-kheo, rồi Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác và Tỷ-kheo Abhibhu, sau khi làm cho Phạm thiên, Phạm phụ thiên và Phạm chúng thiên dao động, như người lực sĩ…,… biến mất ở Phạm thiên giới ấy và hiện ra ở Arunavati. 20) Rồi này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác gọi các vị Tỷ-kheo: “– Này các Tỷ kheo, các Ông có nghe bài kệ do Tỷ-kheo Abhibhu đứng tại Phạm thiên giới, nói lên không?”. 21) “– Bạch Thế Tôn, chúng con có nghe bài kệ do Tỷ-kheo Abhibhu đứng tại Phạm thiên giới đã nói lên.” 22) “– Này các Tỷ-kheo, như thế nào các ông nghe bài kệ do Tỷ-kheo Abhibhu đứng lên tại Phạm thiên giới đã nói lên?” 23) “– Bạch Thế Tôn, chúng con nghe bài kệ do Tỷ-kheo Abhibhu đứng tại Phạm thiên giới đã nói lên như sau: |
‘‘Ārambhatha nikkamatha, yuñjatha buddhasāsane; |
Hãy đứng dậy, lên đường, Hãy dấn thân Phật giáo. |
Dhunātha maccuno senaṃ, naḷāgāraṃva kuñjaro. |
Hãy đánh bại Ma quân, Như voi phá chòi lá. |
‘‘Yo imasmiṃ dhammavinaye, appamatto vihassati; |
Ai trong pháp luật này, Ai trú không phóng dật, |
Pahāya jātisaṃsāraṃ, dukkhassantaṃ karissatī’’ti. |
Đoạn tận vòng sống chết, Sẽ chấm dứt khổ đau. |
‘‘‘Evaṃ kho mayaṃ, bhante, assumha abhibhussa bhikkhuno brahmaloke ṭhitassa gāthāyo bhāsamānassā’ti. ‘Sādhu sādhu, bhikkhave; sādhu kho tumhe, bhikkhave! Assuttha abhibhussa bhikkhuno brahmaloke ṭhitassa gāthāyo bhāsamānassā’’’ti. |
24) Như vậy, bạch Thế Tôn, chúng con đã nghe bài kệ do Tỷ-kheo Abhibhu đứng tại Phạm thiên giới đã nói lên.” 25) “– Lành thay, lành thay, này các Tỷ-kheo. Lành thay, này các Tỷ-kheo! Các Ông đã được nghe bài kệ do Tỷ-kheo Abhibhu đứng tại Phạm thiên giới, đã nói lên”. |
Idamavoca bhagavā, attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti. |
26) Thế Tôn đã nói như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. |
5. Parinibbānasuttaṃ |
V. Parinibhàna – Bát-Niết-Bàn (S.i,157) |
186. Ekaṃ samayaṃ bhagavā kusinārāyaṃ viharati upavattane mallānaṃ sālavane antarena yamakasālānaṃ parinibbānasamaye. Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘handa dāni, bhikkhave , āmantayāmi vo – ‘vayadhammā saṅkhārā, appamādena sampādethā’ti. Ayaṃ tathāgatassa pacchimā vācā’’. |
1) Một thời Thế Tôn ở Kusinàrà, tại Upavattana, trong rừng cây ta-la, giữa dân chúng Mallà, giữa hai cây ta-la song thọ trong khi Ngài nhập Niết-bàn. 2) Rồi Thế Tôn nói với các vị Tỷ-kheo: — Này các Tỷ-kheo, nay Ta khuyên các Ông, hãy tinh tấn, chớ phóng dật. Các pháp hữu vi là vô thường. Đây là những lời cuối cùng của Như Lai. |
Atha kho bhagavā paṭhamaṃ jhānaṃ [paṭhamajjhānaṃ (syā. kaṃ.) evaṃ dutiyaṃ jhānaṃ iccādīsupi] samāpajji. Paṭhamā jhānā [paṭhamajjhānā (syā. kaṃ.) evaṃ dutiyā jhānā iccādīsupi] vuṭṭhahitvā dutiyaṃ jhānaṃ samāpajji. Dutiyā jhānā vuṭṭhahitvā tatiyaṃ jhānaṃ samāpajji. Tatiyā jhānā vuṭṭhahitvā catutthaṃ jhānaṃ samāpajji. Catutthā jhānā vuṭṭhahitvā ākāsānañcāyatanaṃ samāpajji. Ākāsānañcāyatanā vuṭṭhahitvā viññāṇañcāyatanaṃ samāpajji. Viññāṇañcāyatanā vuṭṭhahitvā ākiñcaññāyatanaṃ samāpajji. Ākiñcaññāyatanā vuṭṭhahitvā nevasaññānāsaññāyatanaṃ samāpajji. Nevasaññānāsaññāyatanā vuṭṭhahitvā saññāvedayitanirodhaṃ samāpajji. |
3) Rồi Thế Tôn vào định sơ Thiền. Ra sơ Thiền, Ngài vào Thiền thứ hai. Ra Thiền thứ hai, Ngài vào Thiền thứ ba. Ra Thiền thứ ba, Ngài vào Thiền thứ thư. Ra Thiền thứ tư, Ngài vào Không vô biên xứ. Ra Không vô biên xứ, Ngài vào Thức vô biên xứ. Ra Thức vô biên xứ, Ngài vào Vô sở hữu xứ. Ra Vô sở hữu xứ, Ngài vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ. |
Saññāvedayitanirodhā vuṭṭhahitvā nevasaññānāsaññāyatanaṃ samāpajji. Nevasaññānāsaññāyatanā vuṭṭhahitvā ākiñcaññāyatanaṃ samāpajji. Ākiñcaññāyatanā vuṭṭhahitvā viññāṇañcāyatanaṃ samāpajji. Viññāṇañcāyatanā vuṭṭhahitvā ākāsānañcāyatanaṃ samāpajji. Ākāsānañcāyatanā vuṭṭhahitvā catutthaṃ jhānaṃ samāpajji. Catutthā jhānā vuṭṭhahitvā tatiyaṃ jhānaṃ samāpajji. Tatiyā jhānā vuṭṭhahitvā dutiyaṃ jhānaṃ samāpajji. Dutiyā jhānā vuṭṭhahitvā paṭhamaṃ jhānaṃ samāpajji. Paṭhamā jhānā vuṭṭhahitvā dutiyaṃ jhānaṃ samāpajji. Dutiyā jhānā vuṭṭhahitvā tatiyaṃ jhānaṃ samāpajji. Tatiyā jhānā vuṭṭhahitvā catutthaṃ jhānaṃ samāpajji. Catutthā jhānā vuṭṭhahitvā samanantaraṃ bhagavā parinibbāyi. Parinibbute bhagavati saha parinibbānā brahmā sahampati imaṃ gāthaṃ abhāsi – |
4) Ra Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ngài vào Vô sở hữu xứ. Ra Vô sở hữu xứ, Ngài vào Thức vô biên xứ. Ra Thức vô biên xứ, Ngài vào Không vô biên xứ. Ra Không vô biên xứ, Ngài vào Thiền thứ tư. Ra Thiền thứ tư, Ngài vào Thiền thứ ba. Ra Thiền thứ ba, Ngài vào Thiền thứ hai. Ra Thiền thứ hai, Ngài vào sơ Thiền. Ra sơ Thiền, Ngài vào Thiền thứ hai. Ra Thiền thứ hai, Ngài vào Thiền thứ ba. Ra Thiền thứ ba, Ngài vào Thiền thứ tư. Ra Thiền thứ tư, Thế Tôn liền nhập diệt. 5) Khi Thế Tôn diệt độ, nhân sự diệt độ này, Phạm thiên Brahmà nói lên bài kệ: |
‘‘Sabbeva nikkhipissanti, bhūtā loke samussayaṃ; |
Mọi sinh vật ở đời, Tử bỏ thân năm uẩn, |
Yattha etādiso satthā, loke appaṭipuggalo; |
Bậc Đạo Sư cũng vậy, Đấng Tuyệt Luân trên đời, |
Tathāgato balappatto, sambuddho parinibbuto’’ti. |
Như Lai, đấng Hùng Lực, Bậc Giác Ngộ nhập diệt. |
Parinibbute bhagavati saha parinibbānā sakko devānamindo imaṃ gāthaṃ abhāsi – |
6) Khi Thế Tôn diệt độ, nhân sự diệt độ này, Thiên chủ Sakha nói lên bài kệ: |
‘‘Aniccā vata saṅkhārā, uppādavayadhammino; |
Các hành là vô thường, Có sanh phải có diệt, |
Uppajjitvā nirujjhanti, tesaṃ vūpasamo sukho’’ti. |
Sau khi sanh, chúng diệt, Tịnh chỉ chúng, an lạc. |
Parinibbute bhagavati saha parinibbānā āyasmā ānando imaṃ gāthaṃ abhāsi – |
7) Khi Thế Tôn diệt độ, nhân sự diệt độ này, Tôn giả Anada nói lên bài kệ: |
‘‘Tadāsi yaṃ bhiṃsanakaṃ, tadāsi lomahaṃsanaṃ; |
Thật kinh khủng bàng hoàng, Thật lông tóc dựng ngược, |
Sabbākāravarūpete, sambuddhe parinibbute’’ti. |
Bậc Thắng Tướng đầy đủ, Bậc Giác Ngộ nhập diệt. |
Parinibbute bhagavati saha parinibbānā āyasmā anuruddho imā gāthāyo abhāsi – |
8) Khi Thế Tôn diệt độ, nhân sự diệt độ này Tôn giả Anuruddha (A-nậu-lâu-đa) nói lên bài kệ: |
‘‘Nāhu assāsapassāso, ṭhitacittassa tādino; |
Không thở ra, thở vào, Tâm trú vào chánh định, |
Anejo santimārabbha, cakkhumā parinibbuto [yaṃ kālamakarī muni (mahāparinibbānasutte)]. |
Không tham ái, tịch tịnh, Bậc Biến Nhãn diệt độ. |
‘‘Asallīnena cittena, vedanaṃ ajjhavāsayi; |
Với tâm an, bất động, Ngài cảm thọ lâm chung, |
Pajjotasseva nibbānaṃ, vimokkho cetaso ahū’’ti. |
Như đèn sáng chợt tắt, Tâm giải thoát Niết-bàn. |
Dutiyo vaggo. |
|
Tassuddānaṃ – |
|
Brahmāsanaṃ devadatto, andhakavindo aruṇavatī; |
|
Parinibbānena ca desitaṃ, idaṃ brahmapañcakanti. |
|
Brahmasaṃyuttaṃ samattaṃ. [ito paraṃ marammapotthakesu evampi dissati –§brahmāyācanaṃ agāravañca, brahmadevo bako ca brahmā.§aññataro ca brahmākokālikañca, tissakañca turū ca§brahmā kokālikabhikkhu, sanaṅkumārena devadattaṃ.§andhakavindaṃ aruṇavati, parinibbānena pannarasāti] |
|