5. Bhikkhunīsaṃyuttaṃ

[05] Chương V – Tương ưng Tỷ kheo ni

Tipitaka.org Việt dịch: HT. Thích Minh Châu
1. Āḷavikāsuttaṃ I. Alavikhà (S.i.128)
162. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho āḷavikā bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisi. Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantā yena andhavanaṃ tenupasaṅkami vivekatthinī. Atha kho māro pāpimā āḷavikāya bhikkhuniyā bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo vivekamhā cāvetukāmo yena āḷavikā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āḷavikaṃ bhikkhuniṃ gāthāya ajjhabhāsi – 1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika. 2) Tỷ-kheo-ni Alavikà, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực. Khất thực ở Sàvatthi xong, sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, Tỷ-kheo-ni đi đến rừng Andha để tìm sự yên tĩnh viễn ly. 3) Ác ma muốn làm Tỷ-kheo-ni Alavikà run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn nàng từ bỏ yên tĩnh viễn ly, nên đi đến Tỷ-kheo-ni Alavikà và nói lên bài kệ:
‘‘Natthi nissaraṇaṃ loke, kiṃ vivekena kāhasi; Đời không có xuất ly, Sống viễn ly làm gì?
Bhuñjassu kāmaratiyo, māhu pacchānutāpinī’’ti. Hãy trọn hưởng dục lạc, Chớ hối hận về sau.
Atha kho āḷavikāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘ko nu khvāyaṃ manusso vā amanusso vā gāthaṃ bhāsatī’’ti? Atha kho āḷavikāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘māro kho ayaṃ pāpimā mama bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo vivekamhā cāvetukāmo gāthaṃ bhāsatī’’ti. Atha kho āḷavikā bhikkhunī ‘‘māro ayaṃ pāpimā’’ iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāhi paccabhāsi – 4) Tỷ-kheo-ni Alavikà suy nghĩ: “Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?” 5) Tỷ-kheo-ni Alavikà suy nghĩ: “Chính Ác ma muốn làm ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn làm ta từ bỏ yên tĩnh viễn ly nên đã nói lên bài kệ đó”. 6) Tỷ-kheo-ni Alavikà biết được: “Đấy là Ác ma”, liền nói lên bài kệ:
‘‘Atthi nissaraṇaṃ loke, paññāya me suphussitaṃ [suphassitaṃ (sī. pī.)]; Ở đời có xuất ly, Nhờ trí tuệ, ta chứng.
Pamattabandhu pāpima, na tvaṃ jānāsi taṃ padaṃ. Này Bà con phóng dật, Biết sao được pháp ấy?
‘‘Sattisūlūpamā kāmā, khandhāsaṃ adhikuṭṭanā; Ái dục như kiếm thương, Đài chém đầu các uẩn.
Yaṃ tvaṃ kāmaratiṃ brūsi, arati mayha sā ahū’’ti. Điều Ông gọi dục lạc, Ta gọi là bất lạc.
Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ āḷavikā bhikkhunī’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti. 7) Ác ma biết được: “Tỷ-kheo-ni Alavikà đã biết ta”, nên buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
2. Somāsuttaṃ II. Somà (S.i.129)
163. Sāvatthinidānaṃ . Atha kho somā bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisi. Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantā yena andhavanaṃ tenupasaṅkami divāvihārāya. Andhavanaṃ ajjhogāhetvā aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisīdi. Atha kho māro pāpimā somāya bhikkhuniyā bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo yena somā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā somaṃ bhikkhuniṃ gāthāya ajjhabhāsi – 1) Nhân duyên ở Sàvatthi. Rồi Tỷ-kheo-ni Somà vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực. 2) Khất thực ở Sàvatthi xong, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, Tỷ-kheo-ni đi đến rừng Andha để nghỉ ban ngày. Sau khi đi sâu vào rừng, nàng ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày. 3) Ác ma muốn làm Tỷ-kheo-ni Somà run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến Tỷ-kheo-ni Somà; sau khi đến, nói lên bài kệ với Tỷ-kheo-ni Somà:
‘‘Yaṃ taṃ isīhi pattabbaṃ, ṭhānaṃ durabhisambhavaṃ; Địa vị khó chứng đạt, Chỉ Thánh nhân chứng đạt,
Na taṃ dvaṅgulapaññāya, sakkā pappotumitthiyā’’ti. Trí nữ nhân hai ngón, Sao hy vọng chứng đạt?
Atha kho somāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘ko nu khvāyaṃ manusso vā amanusso vā gāthaṃ bhāsatī’’ti? Atha kho somāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘māro kho ayaṃ pāpimā mama bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo gāthaṃ bhāsatī’’ti. Atha kho somā bhikkhunī ‘‘māro ayaṃ pāpimā’’ iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāhi paccabhāsi – 4) Tỷ-kheo-ni Somà suy nghĩ: “Ai đã nói bài kệ này? Người hay không phải người?” 5) Tỷ-kheo-ni Somà suy nghĩ: “Đây là Ác ma muốn làm cho ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn ta từ bỏ Thiền định, nên đã nói lên bài kệ đó”. 6) Tỷ-kheo-ni Somà biết được : “Đây là Ác ma”, liền nói lên bài kệ với Ác ma:
‘‘Itthibhāvo kiṃ kayirā, cittamhi susamāhite; Nữ tánh chướng ngại gì, Khi tâm khéo Thiền định,
Ñāṇamhi vattamānamhi, sammā dhammaṃ vipassato. Khi trí tuệ triển khai, Chánh quán pháp vi diệu?
‘‘Yassa nūna siyā evaṃ, itthāhaṃ purisoti vā; Ai tự mình tìm hỏi : “Ta, nữ nhân, nam nhân,
Kiñci vā pana aññasmi [asmīti (syā. kaṃ. pī.)], taṃ māro vattumarahatī’’ti. Hay ta là ai khác?” Xứng nói chuyện Ác ma,Ác ma thật cân xứng. 
Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ somā bhikkhunī’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti. 7) Ác ma biết được: “Tỷ-kheo-ni Somà đã biết ta”, nên buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
3. Kisāgotamīsuttaṃ III. Gotamì (S.i.129)
164. Sāvatthinidānaṃ. Atha kho kisāgotamī bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisi. Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantā yena andhavanaṃ tenupasaṅkami , divāvihārāya. Andhavanaṃ ajjhogāhetvā aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisīdi. Atha kho māro pāpimā kisāgotamiyā bhikkhuniyā bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo yena kisāgotamī bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā kisāgotamiṃ bhikkhuniṃ gāthāya ajjhabhāsi – 1) Nhân duyên ở Sàvatthi. Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamì, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Sàvatthi để khất thực. 2) Khất thực ở Sàvatthi xong, sau bữa ăn, trên con đường đi khất thực trở về, Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamì đi đến rừng Andha để nghỉ ban ngày; sau khi đi sâu vào rừng Andha, đến ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày. 3) Ác ma muốn làm cho Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamì run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamì; sau khi đi đến, liền nói lên bài kệ với Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamì:
‘‘Kiṃ nu tvaṃ mataputtāva, ekamāsi rudammukhī; Sao nàng như mất con, Một mình, mặt ứa lệ.
Vanamajjhagatā ekā, purisaṃ nu gavesasī’’ti. Hay một mình vào rừng, Để tìm đàn ông nào?
Atha kho kisāgotamiyā bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘ko nu khvāyaṃ manusso vā amanusso vā gāthaṃ bhāsatī’’ti? Atha kho kisāgotamiyā bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘māro kho ayaṃ pāpimā mama bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo gāthaṃ bhāsatī’’ti. 4) Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamì suy nghĩ: “Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?” 5) Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamì suy nghĩ: “Đây là Ác ma muốn làm ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến ta từ bỏ Thiền định nên đã nói lên bài kệ đó”.
Atha kho kisāgotamī bhikkhunī ‘‘māro ayaṃ pāpimā’’ iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāhi paccabhāsi – 6) Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamì biết được: “Đây là Ác ma”, liền nói lên bài kệ với Ác ma:
‘‘Accantaṃ mataputtāmhi, purisā etadantikā; Con hại, đã qua rồi, Đàn ông đã chấm dứt,
Na socāmi na rodāmi, na taṃ bhāyāmi āvuso. Ta không sầu, không khóc, Ta sợ gì các Ông?
‘‘Sabbattha vihatā nandī, tamokkhandho padālito; Khắp nơi hỷ, ái đoạn, Khối mê ám nát tan,
Jetvāna maccuno [jetvā namucino (sī.)] senaṃ, viharāmi anāsavā’’ti. Chiến thắng quân thần chết, Vô lậu, ta an trú.
Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ kisāgotamī bhikkhunī’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti. 7) Ác ma biết được: “Tỷ-kheo-ni Kisà Gotamì đã biết ta” nên buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
4. Vijayāsuttaṃ IV. Vijayà
165. Sāvatthinidānaṃ. Atha kho vijayā bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā…pe… aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisīdi. Atha kho māro pāpimā vijayāya bhikkhuniyā bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo yena vijayā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā vijayaṃ bhikkhuniṃ gāthāya ajjhabhāsi – 1) Nhân duyên ở Sàvatthi. Tỷ-kheo-ni Vijayà vào buổi sáng đắp y… và ngồi xuống dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày. 2) Ác Ma muốn làm cho Tỳ-kheo-ni Vijayà sợ hãi … muốn khiến nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến Tỳ-kheo-ni Vijayà; sau khi đến, nói lên bài kệ với Tỳ-kheo-ni Vijayà:
‘‘Daharā tvaṃ rūpavatī, ahañca daharo susu; Nàng vừa trẻ, vừa đẹp, Ta vừa trẻ, vừa xuân,
Pañcaṅgikena turiyena, ehayyebhiramāmase’’ti [ehi ayye ramāmaseti (sī.)]. Với cung đàn năm điệu, Nàng cùng ta vui hưởng.
Atha kho vijayāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘ko nu khvāyaṃ manusso vā amanusso vā gāthaṃ bhāsatī’’ti? Atha kho vijayāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘māro kho ayaṃ pāpimā mama bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo gāthaṃ bhāsatī’’ti. Atha kho vijayā bhikkhunī ‘‘māro ayaṃ pāpimā’’ iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāhi paccabhāsi – 3) Tỷ-kheo-ni Vijayà suy nghĩ : ” Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?” 4) Tỷ-kheo-ni Vijayà suy nghĩ : ” Đây là Ác ma… nói lên bài kệ đó.” 5) Tỷ-kheo-ni Vijayà suy nghĩ : “Đây là Ác ma”, liền nói lên bài kệ với Ác ma:
‘‘Rūpā saddā rasā gandhā, phoṭṭhabbā ca manoramā; Sắc, tiếng, vị, hương, xúc, Làm cho ý đam mê,
Niyyātayāmi tuyheva, māra nāhaṃ tenatthikā. Ta nhường lại Ác ma, Ta đâu có cần chúng.
‘‘Iminā pūtikāyena, bhindanena pabhaṅgunā; Với thân bất tịnh này, Dễ hư hoại mong manh,
Aṭṭīyāmi harāyāmi, kāmataṇhā samūhatā. Ta bực phiền, tủi hổ, Dục ái được đoạn tận.
‘‘Ye ca rūpūpagā sattā, ye ca arūpaṭṭhāyino [āruppaṭṭhāyino (sī. pī.)]; Họ sanh hưởng sắc giới, Chúng vọng vô sắc giới,
Yā ca santā samāpatti, sabbattha vihato tamo’’ti. Thiền chứng an tịnh ấy, Mọi nơi, mê ám diệt.
Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ vijayā bhikkhunī’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti. 6) Ác ma biết được: “Tỷ-kheo-ni Aijayà đã biết ta”, buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
5. Uppalavaṇṇāsuttaṃ V. Uppalavannà (S.i.131)
166. Sāvatthinidānaṃ. Atha kho uppalavaṇṇā bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā…pe… aññatarasmiṃ supupphitasālarukkhamūle aṭṭhāsi. Atha kho māro pāpimā uppalavaṇṇāya bhikkhuniyā bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo yena uppalavaṇṇā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā uppalavaṇṇaṃ bhikkhuniṃ gāthāya ajjhabhāsi – 1) Nhân duyên Sàvatthi. Rồi Tỷ-kheo-ni Uppalavannà vào buổi sáng đắp y… và đứng dưới gốc cây tala có trổ hoa. 2) Ác ma muốn làm cho Tỷ-kheo-ni Uppalavannà run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến Tỷ-kheo-ni Uppalavannà. 3) Sau khi đến, Ác ma nói lên bài kệ này với Tỷ-kheo-ni Uppalavannà:
‘‘Supupphitaggaṃ upagamma bhikkhuni, Này nàng Tỷ-kheo-ni, Dưới gốc cây tala,
Ekā tuvaṃ tiṭṭhasi sālamūle; Đang nở nụ trăm hoa, Nàng đến đứng một mình,
Na catthi te dutiyā vaṇṇadhātu, Nhan sắc Nàng tuyệt đẹp, Không ai dám sánh bằng!
Bāle na tvaṃ bhāyasi dhuttakāna’’nti. Tại đây Nàng đã đến, Trong tư thế như vậy,
  Nàng ngu dại kia ơi, Không sợ cám dỗ sao?
Atha kho uppalavaṇṇāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘ko nu khvāyaṃ manusso vā amanusso vā gāthaṃ bhāsatī’’ti? Atha kho uppalavaṇṇāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘māro kho ayaṃ pāpimā mama bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo gāthaṃ bhāsatī’’ti. Atha kho uppalavaṇṇā bhikkhunī ‘‘māro ayaṃ pāpimā’’ iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāhi paccabhāsi – 4) Tỷ-kheo-ni Uppalavannà suy nghĩ: “Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay là không phải người?” 5) Tỷ-kheo-ni Uppalavannà suy nghĩ: “Đây là Ác ma… đã nói lên bài kệ đó.” 6) Tỷ-kheo-ni Uppalavannà biết được : “Đây là Ác ma”, liền trả lời với bài kệ:
‘‘Sataṃ sahassānipi dhuttakānaṃ, Trăm ngàn người cám dỗ, Có đến đây như Ông,
Idhāgatā tādisakā bhaveyyuṃ; Mảy lông ta không động, Ta không gì sợ hãi.
Lomaṃ na iñjāmi na santasāmi, Ác ma, ta không sợ, Ta đứng đây một mình,
Na māra bhāyāmi tamekikāpi. Ta có thể biến mất, Hay vào bụng các Ông.
‘‘Esā antaradhāyāmi, kucchiṃ vā pavisāmi te; Ta đứng giữa hàng mi, Ông không thấy ta được.
Pakhumantarikāyampi, tiṭṭhantiṃ maṃ na dakkhasi. Với tâm khéo khiếp phục, Thần túc khéo tu trì,
‘‘Cittasmiṃ vasībhūtāmhi, iddhipādā subhāvitā; Ta thoát mọi trói buộc, Ta đâu có sợ Ông?
Sabbabandhanamuttāmhi, na taṃ bhāyāmi āvuso’’ti. Này Hiền giả Ác ma! 
Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ uppalavaṇṇā bhikkhunī’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti. 7) Ác ma biết được: “Tỷ-kheo-ni Uppalavannà đã biết ta”, buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
6. Cālāsuttaṃ VI. Càlà (S.i.132)
167. Sāvatthinidānaṃ. Atha kho cālā bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā…pe… aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisīdi. Atha kho māro pāpimā yena cālā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā cālaṃ bhikkhuniṃ etadavoca – ‘‘kiṃ nu tvaṃ, bhikkhuni, na rocesī’’ti? ‘‘Jātiṃ khvāhaṃ, āvuso, na rocemī’’ti. 1) Nhân duyên ở Sàvatthi. Tỷ-kheo-ni Càlà vào buổi sáng đắp y… ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày. 2) Ác ma đi đến Tỷ-kheo-ni Càlà; sau khi đến, nói với Tỷ-kheo-ni Càlà: — Này Tỷ-kheo-ni, Nàng không vui thích gì? — Này Hiền giả, ta không vui thích sanh. — Sao Nàng không vui thích sanh? — Khi đã sanh, phải thọ hưởng các dục. — Này Tỷ-kheo-ni, ai dạy cho nàng: “Chớ có vui thích sanh”? 3) (Càlà):
‘‘Kiṃ nu jātiṃ na rocesi, jāto kāmāni bhuñjati; Sanh ra rồi phải chết, Đã sanh thấy khổ đau,
Ko nu taṃ idamādapayi, jātiṃ mā roca [mā rocesi (sī. pī.)] bhikkhunī’’ti. Kiết sử trói gia hại, Do vậy không thích sanh.
‘‘Jātassa maraṇaṃ hoti, jāto dukkhāni phussati [passati (sī. pī.)]; Đức Phật thuyết giảng pháp, Khiến vượt khỏi tái sanh,
Bandhaṃ vadhaṃ pariklesaṃ, tasmā jātiṃ na rocaye. Đoạn trừ mọi khổ não, Giúp ta trú chân thật.
‘‘Buddho dhammamadesesi, jātiyā samatikkamaṃ; Chúng sanh hướng sắc giới, Họ vọng vô sắc giới,
Sabbadukkhappahānāya, so maṃ sacce nivesayi. Nếu không biết đoạn diệt, Họ đi đến tái sanh.
‘‘Ye ca rūpūpagā sattā, ye ca arūpaṭṭhāyino;  
Nirodhaṃ appajānantā, āgantāro punabbhava’’nti.  
Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ cālā bhikkhunī’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti. 4) Ác ma biết được: “Tỷ-kheo-ni Càlà đã biết ta”, buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
7. Upacālāsuttaṃ VII. Upacàlà
168. Sāvatthinidānaṃ . Atha kho upacālā bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā…pe… aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisīdi. Atha kho māro pāpimā yena upacālā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā upacālaṃ bhikkhuniṃ etadavoca – ‘‘kattha nu tvaṃ, bhikkhuni, uppajjitukāmā’’ti? ‘‘Na khvāhaṃ, āvuso, katthaci uppajjitukāmā’’ti. 1) Ở tại Sàvatthi. 2) Rồi Tỷ-kheo-ni Upacàlà, vào buổi sáng, đắp y… và ngồi xuống một gốc cây để nghỉ ban ngày… nói với Tỷ-kheo-ni Upacàlà: — Này Tỷ-kheo-ni, Nàng muốn tái sanh tại chỗ nào?. 3) — Ta không muốn tái sanh tại một chỗ nào cả, này Hiền giả.
‘‘Tāvatiṃsā ca yāmā ca, tusitā cāpi devatā; 4) Chư Thiên Ba mươi ba, Dạ-ma, Đâu-suất thiên,
Nimmānaratino devā, ye devā vasavattino; Chư vị Hóa lạc thiên, Tha hóa Tự tại thiên,
Tattha cittaṃ paṇidhehi, ratiṃ paccanubhossasī’’ti. Nàng hãy hướng tâm này, Đến cảnh giới chư Thiên,
‘‘Tāvatiṃsā ca yāmā ca, tusitā cāpi devatā; Rồi Nàng được tái sanh, Hưởng an lạc cảnh ấy.
Nimmānaratino devā, ye devā vasavattino; 5) Chư Thiên Ba mươi ba, Dạ-ma, Đâu-suất thiên,
Kāmabandhanabaddhā te, enti māravasaṃ puna. Chư vị Hóa Lạc thiên, Tha hóa, Tự tại thiên,
‘‘Sabbo ādīpito [sabbova āditto (syā. kaṃ.)] loko, sabbo loko padhūpito; Vì ái dục trói buộc, Lại bị ma chinh phục.
Sabbo pajjalito [pajjalito (sabbattha)] loko, sabbo loko pakampito. Toàn thế giới cháy đỏ, Toàn thế giới hỏa thiêu,
‘‘Akampitaṃ apajjalitaṃ [acalitaṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)], aputhujjanasevitaṃ; Toàn thế giới bùng cháy, Toàn thế giới rung động.
Agati yattha mārassa, tattha me nirato mano’’ti. Không rung, không dao động, Không hệ lụy, phàm phu,
  Chỗ nào ma không đến, Chỗ ấy ta vui thích.
Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ upacālā bhikkhunī’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti. 6) Rồi Ác ma biết được… biến mất tại chỗ ấy.
8. Sīsupacālāsuttaṃ VIII. Sisupacàlà
169. Sāvatthinidānaṃ . Atha kho sīsupacālā [sīsūpacālā (sī.)] bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā …pe… aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisīdi. Atha kho māro pāpimā yena sīsupacālā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā sīsupacālaṃ bhikkhuniṃ etadavoca – ‘‘kassa nu tvaṃ, bhikkhuni, pāsaṇḍaṃ rocesī’’ti? ‘‘Na khvāhaṃ, āvuso, kassaci pāsaṇḍaṃ rocemī’’ti. 1) Tại Sàvatthi. Tỷ-kheo-ni Sisupacàlà vào buổi sáng đắp y… rồi ngồi xuống một gốc cây để nghỉ ban ngày. 2) Rồi Ác ma đi đến Tỷ-kheo-ni Sisupacàlà; sau khi đến, nói với Tỷ-kheo-ni Sisupacàlà: — Này Tỷ-kheo-ni, Nàng thích thú tà giáo của ai không? 3) — Này Hiền giả, ta không thích thú tà giáo của ai cả.
‘‘Kaṃ nu uddissa muṇḍāsi, samaṇī viya dissasi; 4) Vì ai Nàng trọc đầu, Hiện tướng nữ Sa-môn?
Na ca rocesi pāsaṇḍaṃ, kimiva carasi momūhā’’ti. Nàng không thích tà giáo, Vậy nàng tu cho ai, Này kẻ Ngu muội kia? 
  5) (Sisupacàlà):
‘‘Ito bahiddhā pāsaṇḍā, diṭṭhīsu pasīdanti te; Những kẻ tin tà kiến, Thuộc ngoại đạo tà giáo.
Na tesaṃ dhammaṃ rocemi, te dhammassa akovidā. Ta không thích pháp họ, Ta không giỏi pháp họ!
‘‘Atthi sakyakule jāto, buddho appaṭipuggalo; Có dòng họ Thích-ca. Đản sanh Phật vô tỷ,
Sabbābhibhū māranudo, sabbatthamaparājito. Ngài chinh phục tất cả, Ngài đại phá chúng ma,
‘‘Sabbattha mutto asito, sabbaṃ passati cakkhumā; Tại mọi chỗ, mọi nơi, Không ai chiến thắng Ngài.
Sabbakammakkhayaṃ patto, vimutto upadhisaṅkhaye; Ngài giải thoát hoàn toàn, Không bị gì triền phược.
So mayhaṃ bhagavā satthā, tassa rocemi sāsana’’nti. Bậc Pháp nhãn thấy khắp; Tất cả nghiệp đoạn diệt,
  Giải thoát, diệt sanh y. Thế Tôn, Đạo Sư ta,Ta thích giáo pháp Ngài. 
Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ sīsupacālā bhikkhunī’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti. 6) Rồi Ác ma biết được… liền biến mất tại chỗ ấy.
9. Selāsuttaṃ IX. Selà (S.i.134)
170. Sāvatthinidānaṃ . Atha kho selā bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā…pe… aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisīdi. Atha kho māro pāpimā selāya bhikkhuniyā bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo…pe… selaṃ bhikkhuniṃ gāthāya ajjhabhāsi – 1) Ở tại Sàvatthi. Tỷ-kheo-ni Selà vào buổi sáng đắp y… ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày. 2) Rồi Ác ma muốn làm Tỷ-kheo-ni Selà run sợ… nói lên bài kệ với Tỷ-kheo-ni Selà:
‘‘Kenidaṃ pakataṃ bimbaṃ, kvanu [kvannu (sī. pī.), kvaci (syā. kaṃ. ka.)] bimbassa kārako; Bởi vì bong bóng này, Được tạo tác làm ra, Ai là người sáng tạo,
Kvanu bimbaṃ samuppannaṃ, kvanu bimbaṃ nirujjhatī’’ti. Bong bóng như huyễn này? Từ đâu bong bóng sanh? Đi đâu bong bóng diệt?
Atha kho selāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘ko nu khvāyaṃ manusso vā amanusso vā gāthaṃ bhāsatī’’ti? Atha kho selāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘māro kho ayaṃ pāpimā mama bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo gāthaṃ bhāsatī’’ti. Atha kho selā bhikkhunī ‘‘māro ayaṃ pāpimā’’ iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāhi paccabhāsi – 3) Rồi Tỷ-kheo-ni Selà suy nghĩ: “Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?” 4) Rồi Tỷ-kheo-ni Selà suy nghĩ: ” Đây là Ác ma, muốn làm ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến ta từ bỏ Thiền định, nên đã nói lên bài kệ ấy”. 5) Rồi Tỷ-kheo-ni Selà được biết: “Đây là Ác ma”, nên trả lời Ác ma với bài kệ:
‘‘Nayidaṃ attakataṃ [nayidaṃ pakataṃ (syā. kaṃ.)] bimbaṃ, nayidaṃ parakataṃ [nayidaṃ pakataṃ (syā. kaṃ.)] aghaṃ; Bong bóng như huyễn này, Không phải tự ngã làm, Sự vật bạc phước này,
Hetuṃ paṭicca sambhūtaṃ, hetubhaṅgā nirujjhati. Không phải người khác làm. Do nhân duyên quy tụ, Sự vật được hình thành,
‘‘Yathā aññataraṃ bījaṃ, khette vuttaṃ virūhati; Do nhân duyên tán ly, Sự vật bị tiêu diệt. Hột giống gieo vào ruộng,
Pathavīrasañcāgamma, sinehañca tadūbhayaṃ. Được nẩy mầm, sinh lộc, Khi nhiễm thấm cả hai, Vị đất và khí ướt.
‘‘Evaṃ khandhā ca dhātuyo, cha ca āyatanā ime; Cũng vậy uẩn và giới, Cùng với sáu xứ này, Do nhân duyên quy tụ,
Hetuṃ paṭicca sambhūtā, hetubhaṅgā nirujjhare’’ti. Chúng sẽ được hình thành, Do nhân duyên tán ly, Chúng bị hoại, tiêu diệt.
Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ selā bhikkhunī’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti. 6) Rồi Ác ma biết được: “Tỷ-kheo-ni Selà đã biết ta”, nên buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
10. Vajirāsuttaṃ X. Vajirà
171. Sāvatthinidānaṃ . Atha kho vajirā bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisi. Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantā yena andhavanaṃ tenupasaṅkami divāvihārāya. Andhavanaṃ ajjhogāhetvā aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisīdi. Atha kho māro pāpimā vajirāya bhikkhuniyā bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo yena vajirā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā vajiraṃ bhikkhuniṃ gāthāya ajjhabhāsi – 1) Ở tại Sàvatthi.  Tỷ-kheo-ni Vajirà vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực. Khất thực xong, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, Tỷ-kheo-ni Vajirà đi đến rừng Andha để nghỉ ban ngày, đi sâu vào rừng Andha và ngồi dưới một gốc cây để nghỉ ban ngày. 2) Rồi Ác ma muốn làm Tỷ-kheo-ni Vajirà run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến, nói lên bài kệ với Tỷ-kheo-ni Vajirà:
‘‘Kenāyaṃ pakato satto, kuvaṃ sattassa kārako; 3) Do ai, hữu tình này, Được sanh, được tạo tác? Người tạo hữu tình này,
Kuvaṃ satto samuppanno, kuvaṃ satto nirujjhatī’’ti. Hiện nay ở tại đâu? Từ đâu hữu tình sanh? Đi đâu hữu tình diệt?
Atha kho vajirāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘ko nu khvāyaṃ manusso vā amanusso vā gāthaṃ bhāsatī’’ti? Atha kho vajirāya bhikkhuniyā etadahosi – ‘‘māro kho ayaṃ pāpimā mama bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo gāthaṃ bhāsatī’’ti. Atha kho vajirā bhikkhunī ‘‘māro ayaṃ pāpimā’’ iti viditvā, māraṃ pāpimantaṃ gāthāhi paccabhāsi – 4) Rồi Tỷ-kheo-ni Vajirà suy nghĩ: “Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?” 5) Rồi Tỷ-kheo-ni Vajirà lại suy nghĩ: “Chính là Ác ma muốn làm ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến ta từ bỏ Thiền định, nên đã nói lên bài kệ này”. 6) Rồi Tỷ-kheo-ni Vajirà biết được: “Đây là Ác ma”, liền trả lời Ác ma với bài kệ:
‘‘Kiṃ nu sattoti paccesi, māra diṭṭhigataṃ nu te; Sao Ông lại nói hoài, Đến hai chữ chúng sanh?
Suddhasaṅkhārapuñjoyaṃ, nayidha sattupalabbhati. Phải chăng, này Ác ma, Ông rơi vào tà kiến?
‘‘Yathā hi aṅgasambhārā, hoti saddo ratho iti; Đây quy tụ các hành, Chúng sanh được hình thành,
Evaṃ khandhesu santesu, hoti sattoti sammuti [sammati (syā. kaṃ.)]. Như bộ phận quy tụ, Tên xe được nói lên.
‘‘Dukkhameva hi sambhoti, dukkhaṃ tiṭṭhati veti ca; Cũng vậy, uẩn quy tụ, Thông tục gọi chúng sanh.
Nāññatra dukkhā sambhoti, nāññaṃ dukkhā nirujjhatī’’ti. Chỉ có khổ được sanh, Khổ tồn tại, khổ diệt,
  Ngoài khổ, không gì sanh, Ngoài khổ không gì diệt.
Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ vajirā bhikkhunī’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti. 7) Rồi Ác ma biết được: “Tỷ-kheo-ni Vajirà đã biết ta”, nên buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
Bhikkhunīsaṃyuttaṃ samattaṃ.  
Tassuddānaṃ –  
Āḷavikā ca somā ca, gotamī vijayā saha;  
Uppalavaṇṇā ca cālā, upacālā sīsupacālā ca;  
Selā vajirāya te dasāti.