3. Tatiyavaggo

III. Phẩm thứ ba (thêm năm kinh)

Tipitaka.org Việt dịch: HT. Thích Minh Châu
1. Sambahulasuttaṃ I. Đa Số (S,i.117)
157. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sakkesu viharati silāvatiyaṃ. Tena kho pana samayena sambahulā bhikkhū bhagavato avidūre appamattā ātāpino pahitattā viharanti. Atha kho māro pāpimā brāhmaṇavaṇṇaṃ abhinimminitvā mahantena jaṭaṇḍuvena ajinakkhipanivattho jiṇṇo gopānasivaṅko ghurughurupassāsī udumbaradaṇḍaṃ gahetvā yena te bhikkhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā te bhikkhū etadavoca – ‘‘daharā bhavanto pabbajitā susū kāḷakesā bhadrena yobbanena samannāgatā paṭhamena vayasā anikkīḷitāvino kāmesu. Bhuñjantu bhavanto mānusake kāme. Mā sandiṭṭhikaṃ hitvā kālikaṃ anudhāvitthā’’ti. ‘‘Na kho mayaṃ, brāhmaṇa, sandiṭṭhikaṃ hitvā kālikaṃ anudhāvāma. Kālikañca kho mayaṃ, brāhmaṇa, hitvā sandiṭṭhikaṃ anudhāvāma. Kālikā hi, brāhmaṇa, kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo. Sandiṭṭhiko ayaṃ dhammo akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī’’ti. Evaṃ vutte, māro pāpimā sīsaṃ okampetvā jivhaṃ nillāletvā tivisākhaṃ nalāṭe nalāṭikaṃ vuṭṭhāpetvā daṇḍamolubbha pakkāmi. 1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở giữa các vị Sakkà, tại Silàvatii 2) Lúc bấy giờ, nhiều Tỷ-kheo sống không xa Thế Tôn, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. 3) Rồi Ác ma biến hình thành một Bà-la-môn, với búi tóc lớn, mặc áo bằng da con linh dương, già yếu, lưng còm như xà nhà, hơi thở hổn hển, tay cầm gậy bằng gỗ udumbara, đi đến các Tỷ-kheo ấy; sau khi đến, nói với các Tỷ-kheo: — Chư Đại đức xuất gia quá trẻ, niên thiếu, tóc còn đen nhánh, trong tuổi thanh xuân, trong thời trẻ thơ của tuổi đời, không thọ hưởng các dục. Chư Đại đức hãy thọ hưởng các ái dục của con người, chớ có bỏ hiện tại và chạy theo những gì bị thời gian chi phối. 4) — Này Bà-la-môn, chúng tôi không bỏ hiện tại và chạy theo những gì bị thời gian chi phối. Và này Bà-la-môn, chúng tôi bỏ những gì bị thời gian chi phối và chạy theo hiện tại. Này Bà-la-môn, Thế Tôn đã nói các dục bị thời gian chi phối, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, tai họa ở đấy càng nhiều hơn. Còn pháp này thuộc về hiện tại, không bị thời gian chi phối, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, và chỉ người trí mới tự mình giác hiểu. 5) Khi nghe nói vậy, Ác ma cúi đầu, le lưỡi, trên trán hiện ra ba đường nhăn, chống gậy bỏ đi.
Atha kho te bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘idha mayaṃ, bhante, bhagavato avidūre appamattā ātāpino pahitattā viharāma. Atha kho, bhante, aññataro brāhmaṇo mahantena jaṭaṇḍuvena ajinakkhipanivattho jiṇṇo gopānasivaṅko ghurughurupassāsī udumbaradaṇḍaṃ gahetvā yena mayaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā amhe etadavoca – ‘daharā bhavanto pabbajitā susū kāḷakesā bhadrena yobbanena samannāgatā paṭhamena vayasā anikkīḷitāvino kāmesu. Bhuñjantu bhavanto mānusake kāme. Mā sandiṭṭhikaṃ hitvā kālikaṃ anudhāvitthā’ti. Evaṃ vutte, mayaṃ, bhante, taṃ brāhmaṇaṃ etadavocumha – ‘na kho mayaṃ, brāhmaṇa, sandiṭṭhikaṃ hitvā kālikaṃ anudhāvāma. Kālikañca kho mayaṃ, brāhmaṇa, hitvā sandiṭṭhikaṃ anudhāvāma. Kālikā hi, brāhmaṇa, kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo. Sandiṭṭhiko ayaṃ dhammo akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī’ti. Evaṃ vutte, bhante, so brāhmaṇo sīsaṃ okampetvā jivhaṃ nillāletvā tivisākhaṃ nalāṭe nalāṭikaṃ vuṭṭhāpetvā daṇḍamolubbha pakkanto’’ti. 6) Rồi các Tỷ-kheo ấy đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn: 7) — Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con sống không xa Thế Tôn, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Rồi bạch Thế Tôn, một người Bà-la-môn, với búi tóc lớn, mặc áo bằng da con linh dương, già yếu, lưng còm như xà nhà, hơi thở hổn hển, tay cầm gậy bằng gỗ udumbara, đi đến chúng con; sau khi đến, nói với chúng con như sau: ” — Chư Đại đức xuất gia quá trẻ, niên thiếu, tóc còn đen nhánh, trong buổi thanh xuân, trong thời trẻ thơ của tuổi đời, không thọ hưởng các dục. Chư Đại đức, hãy thọ hưởng các ái dục của con người, chớ có bỏ hiện tại để chạy theo những gì bị thời gian chi phối”. 8) Khi được nghe nói vậy, bạch Thế Tôn, chúng con nói với Bà la môn ấy: ” — Này Bà-la-môn, chúng tôi không bỏ hiện tại và chạy theo những gì bị thời gian chi phối. Và này Bà-la-môn, chúng tôi bỏ những gì bị thời gian chi phối để chạy theo hiện tại. Này Bà-la-môn, Thế Tôn đã nói các dục bị thời gian chi phối, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, tai họa ở đây càng nhiều hơn. Còn pháp này thuộc về hiện tại, không bị thời gian chi phối, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng và chỉ người trí mới tự mình giác hiểu”. 9) Khi được nghe nói vậy, người Bà-la-môn ấy cúi đầu, le lưỡi, trên trán hiện ra ba đường nhăn, chống gậy rồi ra đi.
‘‘Neso, bhikkhave, brāhmaṇo. Māro eso pāpimā tumhākaṃ vicakkhukammāya āgato’’ti. Atha kho bhagavā etamatthaṃ viditvā tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi – 10) — Này các Tỷ-kheo, người ấy không phải là Bà-la-môn, chính là Ác ma đi đến để làm mờ mắt các Ông. 11) Rồi Thế Tôn biết được ý nghĩa này, ngay khi ấy nói lên bài kệ:
‘‘Yo dukkhamaddakkhi yatonidānaṃ, Ai thấy rõ khổ đau, Và nguyên nhân đau khổ,
Kāmesu so jantu kathaṃ nameyya; Làm sao người như vậy, Có khuynh hướng các dục?
Upadhiṃ viditvā saṅgoti loke, Sau khi biết sanh y Là ràng buộc ở đời,
Tasseva jantu vinayāya sikkhe’’ti. Người biết vậy nên học, Giải trừ mọi buộc ràng.
2. Samiddhisuttaṃ II. Samiddhi (S.i,119)
158. Ekaṃ samayaṃ bhagavā sakkesu viharati silāvatiyaṃ. Tena kho pana samayena āyasmā samiddhi bhagavato avidūre appamatto ātāpī pahitatto viharati. Atha kho āyasmato samiddhissa rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi – ‘‘lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, yassa me satthā arahaṃ sammāsambuddho. Lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, yvāhaṃ evaṃ svākkhāte dhammavinaye pabbajito. Lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, yassa me sabrahmacārino sīlavanto kalyāṇadhammā’’ti. Atha kho māro pāpimā āyasmato samiddhissa cetasā cetoparivitakkamaññāya yenāyasmā samiddhi tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmato samiddhissa avidūre mahantaṃ bhayabheravaṃ saddamakāsi, apissudaṃ pathavī maññe undrīyati. 1) Một thời Thế Tôn ở giữa các vị Sakkà, tại Silàvatii. 2) Lúc bấy giờ, Tôn giả Samiddhi sống không xa Thế Tôn, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. 3) Rồi Tôn giả Samiddhi, trong khi Thiền tịnh độc cư, tư tưởng sau đây được khởi lên: “Thật lợi ích cho ta, thật khéo lợi ích cho ta, khi bậc Đạo Sư của ta là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác! Thật lợi ích cho ta, thật khéo lợi ích cho ta, khi ta được xuất gia trong Pháp luật khéo giảng! Thật lợi ích cho ta, thật khéo lợi ích cho ta, khi những vị đồng Phạm hạnh với ta là những bậc trì giới và hành trì thiện pháp!” 4) Rồi Ác ma với tâm tư của mình biết được tâm tư của Tôn giả Samiddhi, liền đi đến Tôn giả Samiddhi. Sau khi đến, không xa Tôn giả Samiddhi, Ác ma hét lên tiếng hét to lớn, rùng rợn, khiến người ta nghĩ như là quả đất vỡ tung.
Atha kho āyasmā samiddhi yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno āyasmā samiddhi bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘idhāhaṃ, bhante, bhagavato avidūre appamatto ātāpī pahitatto viharāmi. Tassa mayhaṃ, bhante, rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi – ‘lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, yassa me satthā arahaṃ sammāsambuddho. Lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, yvāhaṃ evaṃ svākkhāte dhammavinaye pabbajito. Lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, yassa me sabrahmacārino sīlavanto kalyāṇadhammā’ti. Tassa mayhaṃ, bhante, avidūre mahābhayabheravasaddo ahosi, apissudaṃ pathavī maññe undrīyatī’’ti. 5) Rồi Tôn giả Samiddhi đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Samiddhi bạch Thế Tôn: 6) — Bạch Thế Tôn, con sống không xa Thế Tôn, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Bạch Thế Tôn, trong khi con Thiền tịnh độc cư, tư tưởng sau đây được khởi lên: “Thật lợi ích cho ta, thật khéo lợi ích cho ta, khi bậc Đạo Sư của ta là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác! Thật lợi ích cho ta, thật khéo lợi ích cho ta, khi ta được xuất gia trong Pháp luật khéo giảng! Thật lợi ích cho ta, thật khéo lợi ích cho ta, khi các vị đồng Phạm hạnh với ta là những bậc trì giới và hành trì thiện pháp!” Khi ấy, bạch Thế Tôn, không xa con, một tiếng hét to lớn rùng rợn khởi lên, khiến người ta nghĩ như là quả đất vỡ tung.
‘‘Nesā, samiddhi, pathavī undrīyati. Māro eso pāpimā tuyhaṃ vicakkhukammāya āgato. Gaccha tvaṃ, samiddhi, tattheva appamatto ātāpī pahitatto viharāhī’’ti. ‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho āyasmā samiddhi bhagavato paṭissutvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi. Dutiyampi kho āyasmā samiddhi tattheva appamatto ātāpī pahitatto vihāsi. Dutiyampi kho āyasmato samiddhissa rahogatassa paṭisallīnassa…pe… dutiyampi kho māro pāpimā āyasmato samiddhissa cetasā cetoparivitakkamaññāya…pe… apissudaṃ pathavī maññe undrīyati. Atha kho āyasmā samiddhi māraṃ pāpimantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – 7) — Này Samiddhi, không phải quả đất vỡ tung đâu. Đó là Ác ma đã đến để làm mờ mắt Ông. Này Samiddhi, Ông hãy đến tại chỗ ấy và sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. 8) — Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Tôn giả Samiddhi vâng đáp Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, rồi ra đi. 9) Lần thứ hai, Tôn giả Samiddhi tại chỗ ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Lần thứ hai, trong khi Tôn giả Samiddhi Thiền tịnh độc cư, tư tưởng sau đây được khởi lên: “Thật lợi ích thay cho ta, thật khéo lợi ích cho ta, khi bậc Đạo Sư của ta là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác! Thật lợi ích cho ta, thật khéo lợi ích cho ta khi…,… và hành trì thiện pháp!”. Lần thứ hai, Ác ma biết được tư tưởng của Tôn giả Samiddhi…,… khiến người ta nghĩ như là quả đất vỡ tung. 10) Rồi Tôn giả Samiddhi, sau khi biết: “Đây là Ác ma” liền nói lên bài kệ với Ác ma:
‘‘Saddhāyāhaṃ pabbajito, agārasmā anagāriyaṃ; Ta với lòng tín ngưỡng, Bỏ gia đình, xuất gia,
Sati paññā ca me buddhā, cittañca susamāhitaṃ; Niệm tuệ ta tăng trưởng, Tâm tư ta Thiền định.
Kāmaṃ karassu rūpāni, neva maṃ byādhayissasī’’ti. Dầu Ông tạo sắc gì, Không làm ta sợ hãi.
Atha kho māro pāpimā ‘‘jānāti maṃ samiddhi bhikkhū’’ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti. 11) Rồi Ác ma biết được: “Tỷ-kheo Samiddhi biết ta”, buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ.
3. Godhikasuttaṃ III. Godhika (S.i,120)
159. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Tena kho pana samayena āyasmā godhiko isigilipasse viharati kāḷasilāyaṃ. Atha kho āyasmā godhiko appamatto ātāpī pahitatto viharanto sāmayikaṃ cetovimuttiṃ phusi. Atha kho āyasmā godhiko tamhā sāmayikāya cetovimuttiyā parihāyi . Dutiyampi kho āyasmā godhiko appamatto ātāpī pahitatto viharanto sāmayikaṃ cetovimuttiṃ phusi. Dutiyampi kho āyasmā godhiko tamhā sāmayikāya cetovimuttiyā parihāyi. Tatiyampi kho āyasmā godhiko appamatto ātāpī pahitatto viharanto sāmayikaṃ cetovimuttiṃ phusi. Tatiyampi kho āyasmā godhiko tamhā…pe… parihāyi. Catutthampi kho āyasmā godhiko appamatto…pe… vimuttiṃ phusi . Catutthampi kho āyasmā godhiko tamhā…pe… parihāyi. Pañcamampi kho āyasmā godhiko…pe… cetovimuttiṃ phusi. Pañcamampi kho āyasmā…pe… vimuttiyā parihāyi. Chaṭṭhampi kho āyasmā godhiko appamatto ātāpī pahitatto viharanto sāmayikaṃ cetovimuttiṃ phusi. Chaṭṭhampi kho āyasmā godhiko tamhā sāmayikāya cetovimuttiyā parihāyi. Sattamampi kho āyasmā godhiko appamatto ātāpī pahitatto viharanto sāmayikaṃ cetovimuttiṃ phusi. 1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, Veluvana, tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc. 2) Lúc bấy giờ, Tôn giả Godhika trú ở sườn núi Isigili, tại Kàlasilà. 3) Rồi Tôn giả Godhika sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, chứng được nhứt thời tâm giải thoát. Rồi Tôn giả Godhika lại thối thất nhất thời tâm giải thoát ấy. 4) Lần thứ hai, Tôn giả Godhika sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần và chứng được nhất thời tâm giải thoát. Và lần thứ hai, Tôn giả Godhika lại thối thất nhất thời tâm giải thoát ấy. 5) Lần thứ ba, Tôn giả Godhika sống… tâm giải thoát ấy. 6) Lần thứ tư, Tôn giả Godhika sống… tâm giải thoát ấy. 7) Lần thứ năm, Tôn giả Godhika sống… tâm giải thoát ấy. 8) Lần thứ sáu, Tôn giả Godhika sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, chứng được nhất thời tâm giải thoát. Lần thứ sáu, Tôn giả Godhika cũng thối thất nhất thời tâm giải thoát ấy. 9) Lần thứ bảy, Tôn giả Godhika sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, chứng được nhứt thời tâm giải thoát.
Atha kho āyasmato godhikassa etadahosi – ‘‘yāva chaṭṭhaṃ khvāhaṃ sāmayikāya cetovimuttiyā parihīno. Yaṃnūnāhaṃ satthaṃ āhareyya’’nti. Atha kho māro pāpimā āyasmato godhikassa cetasā cetoparivitakkamaññāya yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ gāthāhi ajjhabhāsi – 10) Rồi Tôn giả Godhika suy nghĩ: “Cho đến lần thứ sáu, ta bị thối thất nhất thời tâm giải thoát. Vậy nay ta hãy đem lại con dao”. 11) Rồi Ác ma biết được tâm tư của Tôn giả Godhika, liền đi đến Thế Tôn; sau khi đến nói lên bài kệ với Thế Tôn:
‘‘Mahāvīra mahāpañña, iddhiyā yasasā jala; Ôi, bậc Đại Anh hùng! Ôi, bậc Đại Trí tuệ! Ngài chói sáng hào quang, Thần lực và danh xưng.
Sabbaverabhayātīta, pāde vandāmi cakkhuma. Ngài vượt qua tất cả, Mọi sân hận hãi hùng. Con chân thành đảnh lễ, Dưới chân bậc Pháp nhãn.
‘‘Sāvako te mahāvīra, maraṇaṃ maraṇābhibhū; Ôi, bậc Đại Anh hùng! Bậc Chinh phục tử thần! Đệ tử Ngài muốn chết, Đang suy nghĩ đến chết.
Ākaṅkhati cetayati, taṃ nisedha jutindhara. Ôi, bậc Chói Hào quang! Hãy ngăn chặn vị ấy. Làm sao, bạch Thế Tôn, Vị đệ tử của Ngài,
‘‘Kathañhi bhagavā tuyhaṃ, sāvako sāsane rato; Hoan hỷ trong giáo lý, Lại không chứng hữu học, Còn muốn đoạt mạng sống? Ôi, danh vọng thế gian!
Appattamānaso sekkho, kālaṃ kayirā janesutā’’ti.  
Tena kho pana samayena āyasmato godhikena satthaṃ āharitaṃ hoti. Atha kho bhagavā ‘‘māro ayaṃ pāpimā’’ iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – 12) Lúc bấy giờ, Tôn giả Godhika đã đem lại và sử dụng con dao. 13) Rồi Thế Tôn được biết: “Đây là Ác ma”, liền nói lên bài kệ với Ác ma:
‘‘Evañhi dhīrā kubbanti, nāvakaṅkhanti jīvitaṃ; Như vậy là sở hành, Của bậc Đại Anh hùng, Không còn nuôi ước vọng
Samūlaṃ taṇhamabbuyha, godhiko parinibbuto’’ti. Tạo thêm dòng sinh mạng, Đoạn tận ái, ái căn, Godhika nhập diệt.
Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘āyāma, bhikkhave, yena isigilipassaṃ kāḷasilā tenupasaṅkamissāma yattha godhikena kulaputtena satthaṃ āharita’’nti. ‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. 14) Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: — Này các Tỷ-kheo, chúng ta hãy đi đến sườn núi Isigili, Kàlasilà, tại chỗ thiện nam tử Godhika đã đem lại và sử dụng con dao. 15) — Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
Atha kho bhagavā sambahulehi bhikkhūhi saddhiṃ yena isigilipassaṃ kāḷasilā tenupasaṅkami. Addasā kho bhagavā āyasmantaṃ godhikaṃ dūratova mañcake vivattakkhandhaṃ semānaṃ [seyyamānaṃ (syā. kaṃ.), soppamānaṃ (ka.)]. Tena kho pana samayena dhūmāyitattaṃ timirāyitattaṃ gacchateva purimaṃ disaṃ, gacchati pacchimaṃ disaṃ, gacchati uttaraṃ disaṃ, gacchati dakkhiṇaṃ disaṃ, gacchati uddhaṃ, gacchati adho, gacchati anudisaṃ. 16) Rồi Thế Tôn cùng với một số đông Tỷ-kheo đi đến sườn núi Isigili, Kàlasilà, và Thế Tôn thấy từ đằng xa, Tôn giả Godhika đang nằm trên giường, với hai vai mở rộng (bị thương hay co quắp lại). 17) Lúc bấy giờ một làn khói đen tối đi về phía Đông, đi về phía Tây, đi về phía Bắc, đi về phía Nam, đi về phía Trên, đi về phía Dưới.
Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘passatha no tumhe, bhikkhave, etaṃ dhūmāyitattaṃ timirāyitattaṃ gacchateva purimaṃ disaṃ, gacchati pacchimaṃ disaṃ, gacchati uttaraṃ disaṃ, gacchati dakkhiṇaṃ disaṃ, gacchati uddhaṃ, gacchati adho, gacchati anudisa’’nti? ‘‘Evaṃ, bhante’’. ‘‘Eso kho, bhikkhave, māro pāpimā godhikassa kulaputtassa viññāṇaṃ samanvesati – ‘kattha godhikassa kulaputtassa viññāṇaṃ patiṭṭhita’nti? Appatiṭṭhitena ca, bhikkhave, viññāṇena godhiko kulaputto parinibbuto’’ti. Atha kho māro pāpimā beluvapaṇḍuvīṇaṃ ādāya yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – 18) Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: — Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy làn khói đen tối ấy đi về phía Đông, đi về phía Tây, đi về phía Bắc, đi về phía Nam, đi về phía Trên, đi về phía Dưới không? — Bạch Thế Tôn, chúng con có thấy như vậy. 19) — Này các Tỷ-kheo, đó là Ác ma đang đi theo dõi thức của thiện nam tử Godhika: “Thức của thiện nam tử Godhika được an trú ở đâu?”. Và này các Tỷ-kheo, thiện nam tử Godhika đã nhập diệt, với thức không an trú ở đâu cả. 20) Rồi Ác ma tay cầm đờn thất huyền cầm màu vàng, đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên bài kệ:
‘‘Uddhaṃ adho ca tiriyaṃ, disā anudisā svahaṃ; Trên, dưới và bề ngang, Bốn phương, các phương giữa,
Anvesaṃ nādhigacchāmi, godhiko so kuhiṃ gato’’ti. Ta tìm, nhưng không gặp, Godhika đi đâu.
  21) (Thế Tôn):
‘‘Yo [so (sī. pī.)] dhīro dhitisampanno, jhāyī jhānarato sadā; Vị Anh hùng kiên chí, Thường Thiền lạc, Thiền tư,
Ahorattaṃ anuyuñjaṃ, jīvitaṃ anikāmayaṃ. Ngày đêm đầy nhiệt tình, Nhưng sự sống, không tham,
‘‘Jetvāna maccuno [bhetvā namucino (sī.)] senaṃ, anāgantvā punabbhavaṃ; Chiến thắng quân thần chết, Tái sanh không đi đến,
Samūlaṃ taṇhamabbuyha, godhiko parinibbuto’’ti. Chinh phục ái, ái căn, Godhika nhập diệt.
‘‘Tassa sokaparetassa, vīṇā kacchā abhassatha; 22)Còn kẻ bị sầu muộn,  Từ nách rơi huyền cầm,
Tato so dummano yakkho, tatthevantaradhāyathā’’ti [tatthevantaradhāyithāti (syā. kaṃ.), tattheva antaradhāyīti (ka.)]. Dạ-xoa bị thất vọng, Liền biến mất tại chỗ.
4. Sattavassānubandhasuttaṃ IV. Bẩy Năm (S.i,122)
160. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā uruvelāyaṃ viharati najjā nerañjarāya tīre ajapālanigrodhe. Tena kho pana samayena māro pāpimā sattavassāni bhagavantaṃ anubandho hoti otārāpekkho otāraṃ alabhamāno. Atha kho māro pāpimā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – 1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Uruvelà trên bờ sông Neranjarà, dưới cây Ajapàla Nigrodha. 2) Lúc bấy giờ, Ác ma đi theo Thế Tôn trong suốt bảy năm, với hy vọng tìm cho được lỗi lầm, nhưng tìm không được. 3) Rồi Ác ma đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên bài kệ với Thế Tôn:
‘‘Sokāvatiṇṇo nu vanamhi jhāyasi, Với tâm tư sầu muộn, Ngài Thiền tư trong rừng,
Vittaṃ nu jīno uda patthayāno; Vì tài sản hao mòn, Hay vì thèm tài sản?
Āguṃ nu gāmasmimakāsi kiñci, Có thể tại xóm làng, Ngài đã gây tội phạm.
Kasmā janena na karosi sakkhiṃ; Sao Ngài không làm thân Với bà con xóm giềng?
Sakkhī na sampajjati kenaci te’’ti. Sao Ngài không có thể Làm bạn với một ai?
  4) (Thế Tôn):
‘‘Sokassa mūlaṃ palikhāya sabbaṃ, Mọi sầu căn nhổ sạch, Không tội phạm, Ta Thiền,
Anāgu jhāyāmi asocamāno; Không sầu muộn, Ta Thiền. Mọi hữu ái, đoạn tận,
Chetvāna sabbaṃ bhavalobhajappaṃ, Vô lậu, Ta Thiền định, Này Bà con phóng dật!
Anāsavo jhāyāmi pamattabandhū’’ti.  
  5) (Ác ma):
‘‘Yaṃ vadanti mama yidanti, ye vadanti mamanti ca; Sự vật được Ngài nói: “Cái này là của tôi”. Và những người đã nói: “Cái này chính là tôi”.
Ettha ce te mano atthi, na me samaṇa mokkhasī’’ti. Nếu ở đây móng ý, Đối với sự vật ấy, Như vậy, này Sa-môn, Ngài không thoát khỏi ta.
  6) (Thế Tôn):
‘‘Yaṃ vadanti na taṃ mayhaṃ, ye vadanti na te ahaṃ; Sự vật được ông nói: “Cái này không của tôi” Và những người đã nói: “Họ không phải là tôi”.
Evaṃ pāpima jānāhi, na me maggampi dakkhasī’’ti. Hãy hiểu biết như vậy, Này kẻ Ác ma kia! Cho đến Ông không thấy, Con đường của Ta đi.
  7) (Ác ma):
‘‘Sace maggaṃ anubuddhaṃ, khemaṃ amatagāminaṃ; Nếu Ngài chứng ngộ được, Đường an toàn bất tử,
Apehi gaccha tvameveko, kimaññamanusāsasī’’ti. Ngài hãy đi một mình. Sao lại dạy người khác?
  8) (Thế Tôn):
‘‘Amaccudheyyaṃ pucchanti, ye janā pāragāmino; Người đi đến bờ kia, Họ hỏi nước bất tử,
Tesāhaṃ puṭṭho akkhāmi, yaṃ saccaṃ taṃ nirūpadhi’’nti. Được hỏi, Ta trả lời, Cảnh giới vô dư y.
‘‘Seyyathāpi, bhante, gāmassa vā nigamassa vā avidūre pokkharaṇī. Tatrassa kakkaṭako. Atha kho, bhante, sambahulā kumārakā vā kumārikāyo vā tamhā gāmā vā nigamā vā nikkhamitvā yena sā pokkharaṇī tenupasaṅkameyyuṃ; upasaṅkamitvā taṃ kakkaṭakaṃ udakā uddharitvā thale patiṭṭhapeyyuṃ. Yaṃ yadeva hi so, bhante, kakkaṭako aḷaṃ abhininnāmeyya taṃ tadeva te kumārakā vā kumārikāyo vā kaṭṭhena vā kathalāya vā sañchindeyyuṃ sambhañjeyyuṃ sampalibhañjeyyuṃ. Evañhi so, bhante, kakkaṭako sabbehi aḷehi sañchinnehi sambhaggehi sampalibhaggehi abhabbo taṃ pokkharaṇiṃ otarituṃ. Evameva kho, bhante, yāni kānici visūkāyikāni [yāni visukāyikāni (sī. pī. ka.)] visevitāni vipphanditāni, sabbāni tāni [kānici kānici sabbāni (sī. pī. ka.)] bhagavatā sañchinnāni sambhaggāni sampalibhaggāni. Abhabbo dānāhaṃ, bhante, puna bhagavantaṃ upasaṅkamituṃ yadidaṃ otārāpekkho’’ti. Atha kho māro pāpimā bhagavato santike imā nibbejanīyā gāthāyo abhāsi – 9) — Bạch Thế Tôn, ví như một hồ nước không xa làng hay thị trấn. Tại đấy có một con cua. Rồi bạch Thế Tôn, nhiều người con trai hay người con gái, từ làng ấy đi ra, đi đến hồ nước ấy. Sau khi đến, họ kéo con cua ấy lên khỏi nước và đặt nó trên đất liền. Bạch Thế Tôn, khi nào con cua ấy thò ra cái càng nào, những người con trai hay những người con gái ấy, lấy gậy hay lấy miểng sành chặt đứt, bẻ gãy hay đập nát cái càng ấy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con cua ấy, với mọi càng bị chặt đứt, bẻ gãy, đập nát, không thể bò xuống hồ nước ấy nữa. Ví như lúc trước có những lộn xộn, mâu thuẫn, xuyên tạc gì đã được Thế Tôn chặt đứt, bẻ gẫy, đập nát. Và nay, bạch Thế Tôn, với hy vọng tìm cho được lỗi lầm, con không thể đến gần Thế Tôn được. 10) Rồi Ác ma, trước mặt Thế Tôn, trong nỗi niềm thất vọng, nói lên bài kệ này:
‘‘Medavaṇṇañca pāsāṇaṃ, vāyaso anupariyagā; Như quạ liệng hư không, Thấy đá như miếng mỡ,
Apettha muduṃ vindema, api assādanā siyā. Tưởng rằng sẽ tìm được, Miếng gì mềm và ngon.
‘‘Aladdhā tattha assādaṃ, vāyasetto apakkame; Không tìm được gì ngon, Liền từ đó bay đi,
Kākova selamāsajja, nibbijjāpema gotamā’’ti. Như quạ mổ hòn đá, Thất vọng ta bỏ đi, Giã từ Gotama.
  11) Rồi Ác ma, sau khi nói lên những bài kệ ấy trước mặt Thế Tôn, từ chỗ ấy bỏ đi, rồi ngồi kiết-già trên đất, không xa Thế Tôn, im lặng, hổ ngươi, thụt vai, cúi đầu, sững sờ, câm miệng, lấy chiếc gậy cào trên đất.
5. Māradhītusuttaṃ V. Những Người Con Gái (S.i,124)
161. Atha kho māro pāpimā bhagavato santike imā nibbejanīyā gāthāyo abhāsitvā tamhā ṭhānā apakkamma bhagavato avidūre pathaviyaṃ pallaṅkena nisīdi tuṇhībhūto maṅkubhūto pattakkhandho adhomukho pajjhāyanto appaṭibhāno kaṭṭhena bhūmiṃ vilikhanto. Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro yena māro pāpimā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāya ajjhabhāsiṃsu – 1) Rồi các nữ ma Khát ái, Bất lạc và Tham dục, đi đến Ác ma, sau khi đến, nói lên bài kệ này với Ác ma:
‘‘Kenāsi dummano tāta, purisaṃ kaṃ nu socasi; Cha thân yêu, sao cha Lại thất vọng như vậy?Vì ai, vì người nào, Khiến cha phải sầu muộn?
Mayaṃ taṃ rāgapāsena, āraññamiva kuñjaraṃ; Chúng con với ái dục, Sử dụng như bẫy mồi,Sẽ buộc chặt họ lại,
Bandhitvā ānayissāma, vasago te bhavissatī’’ti. Như buộc chặt voi rừng, Và dẫn họ đến cha, Khiến họ quy phục cha.
  2) (Ác ma):
‘‘Arahaṃ sugato loke, na rāgena suvānayo; Bậc La-hán, Thiện Thệ, Bậc Chánh Giác ở đời, Không dễ dùng ái dục, Khéo nhiếp phục vị ấy.
Māradheyyaṃ atikkanto, tasmā socāmahaṃ bhusa’’nti. Vị ấy đã vượt qua, Lãnh vực của Ác ma, Do vậy, ta sầu não, Buồn phiền đến cực độ.
Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘pāde te, samaṇa, paricāremā’’ti. Atha kho bhagavā na manasākāsi, yathā taṃ anuttare upadhisaṅkhaye vimutto. 3) Rồi các nữ ma Khát ái, Bất lạc, và Tham dục đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói với Thế Tôn: — Thưa Sa-môn, chúng con xin hầu hạ dưới chân Ngài.  Nhưng Thế Tôn không chú ý đến, vì Ngài đã giải thoát vô thượng, đoạn tận mọi sanh y.
Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro ekamantaṃ apakkamma evaṃ samacintesuṃ – ‘‘uccāvacā kho purisānaṃ adhippāyā. Yaṃnūna mayaṃ ekasataṃ ekasataṃ kumārivaṇṇasataṃ abhinimmineyyāmā’’ti. Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro ekasataṃ ekasataṃ kumārivaṇṇasataṃ abhinimminitvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘pāde te, samaṇa, paricāremā’’ti. Tampi bhagavā na manasākāsi, yathā taṃ anuttare upadhisaṅkhaye vimutto. 4) Rồi các nữ ma Khát ái, Bất lạc và Tham dục đi qua phía một bên và suy nghĩ như sau: “Sở thích của con người cao thấp khác nhau. Vậy chúng ta biến hình thành một trăm thiếu nữ”. 5) Rồi các nữ ma Khát ái, Bất lạc và Tham dục, sau khi biến hình thành một trăm thiếu nữ, liền đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói với Thế Tôn: — Thưa Sa-môn, chúng con xin hầu hạ dưới chân Ngài. Nhưng Thế Tôn không chú ý đến, vì Ngài đã giải thoát vô thượng, đoạn tận mọi sanh y.
Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro ekamantaṃ apakkamma evaṃ samacintesuṃ – ‘‘uccāvacā kho purisānaṃ adhippāyā . Yaṃnūna mayaṃ ekasataṃ ekasataṃ avijātavaṇṇasataṃ abhinimmineyyāmā’’ti. Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro ekasataṃ ekasataṃ avijātavaṇṇasataṃ abhinimminitvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘pāde te, samaṇa, paricāremā’’ti. Tampi bhagavā na manasākāsi, yathā taṃ anuttare upadhisaṅkhaye vimutto. 6) Rồi các nữ ma Khát ái, Bất lạc và Tham dục đi qua phía một bên và suy nghĩ như sau: “Sở thích của con người cao thấp khác nhau. Vậy chúng ta hãy biến hình thành một trăm thiếu phụ chưa sanh con”. 7) Rồi các nữ ma Khát ái, Bất lạc và Tham dục sau khi biến thành một trăm thiếu phụ chưa sanh con, liền đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói với Thế Tôn: — Thưa Sa-môn, chúng con xin hầu hạ dưới chân Ngài. Nhưng Thế Tôn không chú ý đến, vì Ngài đã giải thoát vô thượng, đoạn tận mọi sanh y.
Atha kho taṇhā ca…pe… yaṃnūna mayaṃ ekasataṃ ekasataṃ sakiṃ vijātavaṇṇasataṃ abhinimmineyyāmāti. Atha kho taṇhā ca…pe… sakiṃ vijātavaṇṇasataṃ abhinimminitvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘pāde te, samaṇa, paricāremā’’ti. Tampi bhagavā na manasākāsi, yathā taṃ anuttare upadhisaṅkhaye vimutto. 8) Rồi các nữ ma Khát ái…,… sau khi biến hình thành một thiếu phụ đã sanh một con, đi đến Thế Tôn…,… vì Ngài đã giải thoát vô thượng, đoạn tận mọi sanh y.
Atha kho taṇhā ca…pe… yaṃnūna mayaṃ ekasataṃ ekasataṃ duvijātavaṇṇasataṃ abhinimmineyyāmāti. Atha kho taṇhā ca…pe… duvijātavaṇṇasataṃ abhinimminitvā yena bhagavā…pe… yathā taṃ anuttare upadhisaṅkhaye vimutto. Atha kho taṇhā ca…pe… majjhimitthivaṇṇasataṃ abhinimmineyyāmāti. Atha kho taṇhā ca…pe… majjhimitthivaṇṇasataṃ abhinimminitvā…pe… anuttare upadhisaṅkhaye vimutto. 9) Rồi các nữ ma Khát ái…,… sau khi biến hình thành một thiếu phụ đã sanh hai con, đi đến Thế Tôn…,… vì Ngài đã giải thoát vô thượng, đoạn tận mọi sanh y. 10) Rồi các nữ ma Khát ái…,…. sau khi biến hình thành một thiếu phụ trung niên, đi đến Thế Tôn…,… vì Ngài đã giải thoát vô thượng, đoạn tận mọi sanh y.
Atha kho taṇhā ca…pe… mahitthivaṇṇasataṃ abhinimmineyyāmāti . Atha kho taṇhā ca…pe… mahitthivaṇṇasataṃ abhinimminitvā yena bhagavā…pe… anuttare upadhisaṅkhaye vimutto. Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro ekamantaṃ apakkamma etadavocuṃ – saccaṃ kira no pitā avoca – 11) Rồi các nữ ma Khát ái…,… sau khi biến hình thành một phụ nữ lớn tuổi, đi đến Thế Tôn…,… Vì Ngài đã giải thoát vô thượng, đoạn tận mọi sanh y. 12) Rồi các nữ ma Khát ái, Bất lạc và Tham dục đi qua một bên và nói như sau:  — Cha chúng ta nói thật đúng sự thật:
‘‘Arahaṃ sugato loke, na rāgena suvānayo; Bậc La-hán, Thiện Thệ, Bậc Chánh Giác ở đời, Không dễ dùng ái dục, Khéo nhiếp phục vị ấy.
Māradheyyaṃ atikkanto, tasmā socāmahaṃ bhusa’’nti. Vị ấy đã vượt qua, Quyền lực của Ác ma, Do vậy ta sầu não, Buồn phiền đến cực độ.
‘‘Yañhi mayaṃ samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā avītarāgaṃ iminā upakkamena upakkameyyāma hadayaṃ vāssa phaleyya, uṇhaṃ lohitaṃ vā mukhato uggaccheyya, ummādaṃ vā pāpuṇeyya cittakkhepaṃ vā. Seyyathā vā pana naḷo harito luto ussussati visussati milāyati; evameva ussusseyya visusseyya milāyeyyā’’ti. 13) Nếu chúng ta tấn công với phương tiện này, một Sa-môn hay Bà-la-môn nào chưa ly ái dục, người ấy sẽ bể tim, hay miệng hộc máu nóng, hay bị loạn tâm, hay bị cuồng ý. Ví như một cây lau xanh bị gặt hái sẽ héo hắt, khô cằn, tiều tụy. Cũng vậy, người ấy sẽ héo hắt, khô cằn, tiều tụy.
Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Ekamantaṃ ṭhitā kho taṇhā māradhītā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – 14) Rồi các nữ ma Khát ái, Bất lạc và Tham dục đi đến Thế Tôn; sau khi đi đến, liền đứng một bên. 15) Đứng một bên, nữ ma Khát ái nói lên bài kệ với Thế Tôn:
‘‘Sokāvatiṇṇo nu vanamhi jhāyasi, Với tâm tư sầu muộn, Ngài Thiền tư trong rừng,
Vittaṃ nu jīno uda patthayāno; Vì tài sản hao mòn, Hay vì thèm tài sản?
Āguṃ nu gāmasmimakāsi kiñci, Có thể tại xóm làng, Ngài đã gây tội phạm,
Kasmā janena na karosi sakkhiṃ; Sao Ngài không làm thân Với bà con xóm giềng?
Sakkhī na sampajjati kenaci te’’ti. Sao Ngài không có thể Làm bạn với một ai?
  16) (Thế Tôn):
‘‘Atthassa pattiṃ hadayassa santiṃ, Với mục đích đạt thành, Với thân tâm an tịnh,
Jetvāna senaṃ piyasātarūpaṃ; Ta chiến thắng quân binh. Hình sắc lạc, khả ái.
Ekohaṃ [ekāhaṃ (syā. kaṃ. pī. ka.)] jhāyaṃ sukhamanubodhiṃ, Ta độc tọa Thiền tư, Chứng ngộ chơn an lạc,
Tasmā janena na karomi sakkhiṃ; Do vậy, giữa chúng sanh, Ta không bạn một ai.
Sakkhī na sampajjati kenaci me’’ti. Làm bạn với một ai, Đối với Ta không cần.
Atha kho arati [arati ca (ka.)] māradhītā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – 17) Rồi nữ ma Bất lạc nói lên bài kệ với Thế Tôn:
‘‘Kathaṃ vihārībahulodha bhikkhu, Làm sao vị Tỷ-kheo, Sống giữa nhiều (chướng ngại),
Pañcoghatiṇṇo atarīdha chaṭṭhaṃ; Đã vượt năm bộc lưu, Lại gắng vượt thứ sáu?
Kathaṃ jhāyiṃ [kathaṃ jhāyaṃ (syā. kaṃ. pī.), kathajjhāyaṃ (ka.)] bahulaṃ kāmasaññā, Làm sao Thiền tư được, Giữa rất nhiều dục tưởng,
Paribāhirā honti aladdha yo ta’’nti. Được giữ ngoài vị ấy, Không bắt vị ấy được?
  18) (Thế Tôn):
‘‘Passaddhakāyo suvimuttacitto, Với thân được khinh an, Với tâm khéo giải thoát,
Asaṅkharāno satimā anoko; Không còn các sở hành, Chánh niệm, không tham trước,
Aññāya dhammaṃ avitakkajhāyī, Biết rõ được Chánh pháp, Không tầm, tu Thiền định.
Na kuppati na sarati na thino [na kuppatī nassaratī na thīno (sī.)]. Không phẫn nộ, vọng niệm, Không thụy miên, giải đãi,
‘‘Evaṃvihārībahulodha bhikkhu, Như vậy vị Tỷ-kheo, Sống giữa nhiều chướng ngại,
Pañcoghatiṇṇo atarīdha chaṭṭhaṃ; Đã vượt năm bộc lưu, Lại gắng vượt thứ sáu,
Evaṃ jhāyiṃ bahulaṃ kāmasaññā, Như vậy tu Thiền tư, Giữa rất nhiều dục tưởng,
Paribāhirā honti aladdha yo ta’’nti. Được giữ ngoài vị ấy, Không bắt vị ấy được.
Atha kho ragā [ragāca (ka.)] māradhītā bhagavato santike gāthāya ajjhabhāsi – 19) Rồi nữ ma Tham dục, nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
‘‘Acchejja taṇhaṃ gaṇasaṅghacārī, Đoạn tận được khát ái, Sống giữa các chúng đoàn,
Addhā carissanti [tarissanti (sī.)] bahū ca saddhā; Phần lớn các chúng sanh, Chắc chắn sẽ sống vậy.
Bahuṃ vatāyaṃ janataṃ anoko, Vị không tham trước này, Sống từ bỏ đám đông,
Acchejja nessati maccurājassa pāra’’nti. Đoạn tận dẫn quần sanh, Thoát khỏi Ma vương quốc.
  20) (Thế Tôn):
‘‘Nayanti ve mahāvīrā, saddhammena tathāgatā; Thật vậy, chư Đại Hùng, Thật vậy, chư Như Lai, Với chơn vi diệu pháp
Dhammena nayamānānaṃ, kā usūyā vijānata’’nti. Hướng dẫn (mọi quần sanh),Được Chánh pháp hướng dẫn, Dầu có ganh tức gì, Không thể không biết vậy.
Atha kho taṇhā ca arati ca ragā ca māradhītaro yena māro pāpimā tenupasaṅkamiṃsu. Addasā kho māro pāpimā taṇhañca aratiñca ragañca māradhītaro dūratova āgacchantiyo. Disvāna gāthāhi ajjhabhāsi – 21) Rồi các nữ ma Khát ái, Bất lạc và Tham dục đi đến Ác ma. 22) Và Ác ma thấy các nữ ma Khát ái, Bất lạc và Tham dục từ xa đi lại. Thấy vậy, Ác ma liền nói lên bài kệ:
‘‘Bālā kumudanāḷehi, pabbataṃ abhimatthatha [abhimanthatha (sī.)]; Các Ngươi thật kẻ ngu, Lấy cành sen phá đá, Lấy móng tay đào núi, Lấy răng nhai sắt thép.
Giriṃ nakhena khanatha, ayo dantehi khādatha. Các Ngươi thật giống người, Lấy đầu húc đá tảng, Cố gắng tìm chân đứng, Trong vực thẳm thâm sâu.
‘‘Selaṃva sirasūhacca [sirasi ūhacca (sī.), sirasi ohacca (syā. kaṃ.)], pātāle gādhamesatha; Các Ngươi thật giống người, Lấy ngực đâm lao nhọn. Thất vọng, các Ông đến, Giã từ Gotama.
Khāṇuṃva urasāsajja, nibbijjāpetha gotamā’’ti.  
   
‘‘Daddallamānā āgañchuṃ, taṇhā ca aratī ragā;  
Tā tattha panudī satthā, tūlaṃ bhaṭṭhaṃva māluto’’ti.  
Tatiyo vaggo.  
Tassuddānaṃ –  
Sambahulā samiddhi ca, godhikaṃ sattavassāni;  
Dhītaraṃ desitaṃ buddha, seṭṭhena imaṃ mārapañcakanti.  
Mārasaṃyuttaṃ samattaṃ.