3. Tatiyavaggo

III. Phẩm thứ ba

 

Tipitaka.org Việt dịch: HT. Thích Minh Châu
1. Puggalasuttaṃ I. Người (S.i,93)
132. Sāvatthinidānaṃ . Atha kho rājā pasenadi kosalo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho rājānaṃ pasenadiṃ kosalaṃ bhagavā etadavoca – ‘‘cattārome, mahārāja, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame cattāro? Tamotamaparāyano, tamojotiparāyano, jotitamaparāyano, jotijotiparāyano’’. 1) Ở tại Sàvatthi. 2) Rồi vua Pasenadi nước Kosala đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với vua Pasenadi nước Kosala đang ngồi một bên: — Thưa Đại vương, có bốn loại người này có mặt, hiện diện ở đời. 3) Thế nào là bốn? Sống trong bóng tối và hướng đến bóng tối, sống trong bóng tối hướng đến ánh sáng, sống trong ánh sáng hướng đến bóng tối, sống trong ánh sáng hướng đến ánh sáng. (Xem A ii, 85; Tăng II 85).
‘‘Kathañca, mahārāja puggalo tamotamaparāyano hoti? Idha, mahārāja, ekacco puggalo nīce kule paccājāto hoti, caṇḍālakule vā venakule [veṇakule (sī. syā. kaṃ. pī.)] vā nesādakule vā rathakārakule vā pukkusakule vā dalidde appannapānabhojane kasiravuttike , yattha kasirena ghāsacchādo labbhati. So ca hoti dubbaṇṇo duddasiko okoṭimako bavhābādho [bahvābādho (ka.)] kāṇo vā kuṇī vā khañjo vā pakkhahato vā, na lābhī annassa pānassa vatthassa yānassa mālāgandhavilepanassa seyyāvasathapadīpeyyassa. So kāyena duccaritaṃ carati, vācāya duccaritaṃ carati, manasā duccaritaṃ carati. So kāyena duccaritaṃ caritvā vācāya duccaritaṃ caritvā manasā duccaritaṃ caritvā, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati. 4) Thưa Đại vương, và thế nào là người sống trong bóng tối hướng đến bóng tối? Ở đây, thưa Đại vương, có một số người sanh trong gia đình hạ tiện, gia đình kẻ chiên-đà-la hay gia đình người đan rổ, hay gia đình người làm bẫy sập, hay gia đình người làm xe, hay gia đình người đổ rác nghèo đói, ăn uống thiếu thốn, sanh kế khó khăn, khó kiếm đồ ăn mặc, và người ấy xấu xí khó nhìn, còm lưng, nhiều bệnh, mù lòa, quẹo tay, bại chân, hay nửa thân tê liệt. Người ấy không nhận được đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, không nhận được chỗ nằm, chỗ ở, đèn đuốc. Người ấy thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Do thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
‘‘Seyyathāpi, mahārāja , puriso andhakārā vā andhakāraṃ gaccheyya, tamā vā tamaṃ gaccheyya, lohitamalā vā lohitamalaṃ gaccheyya. Tathūpamāhaṃ, mahārāja, imaṃ puggalaṃ vadāmi. Evaṃ kho, mahārāja, puggalo tamotamaparāyano hoti. Thưa Đại vương, ví như một người đi từ tối tăm này đến tối tăm khác, hay đi từ hắc ám này đến hắc ám khác, hay từ vết máu đỏ này đến vết máu đỏ khác. Thưa Đại vương, Ta nói người ấy với ví dụ như vậy. Thưa Đại vương, như vậy là người sống trong bóng tối, hướng đến bóng tối.
‘‘Kathañca, mahārāja, puggalo tamojotiparāyano hoti? Idha, mahārāja, ekacco puggalo nīce kule paccājāto hoti, caṇḍālakule vā venakule vā nesādakule vā rathakārakule vā pukkusakule vā dalidde appannapānabhojane kasiravuttike, yattha kasirena ghāsacchādo labbhati. So ca kho hoti dubbaṇṇo duddasiko okoṭimako bavhābādho, kāṇo vā kuṇī vā khañjo vā pakkhahato vā, na lābhī annassa pānassa vatthassa yānassa mālāgandhavilepanassa seyyāvasathapadīpeyyassa. So kāyena sucaritaṃ carati, vācāya sucaritaṃ carati, manasā sucaritaṃ carati. So kāyena sucaritaṃ caritvā vācāya sucaritaṃ caritvā manasā sucaritaṃ caritvā, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati. 5) Và thưa Đại vương, thế nào là người sống trong bóng tối hướng đến ánh sáng? Ở đây, thưa Đại vương, có một số người sanh trong gia đình hạ tiện, gia đình kẻ chiên-đà-la, hay gia đình người đan rổ, hay gia đình người làm bẫy sập, hay gia đình người làm xe, hay gia đình người đổ rác, nghèo đói, ăn uống thiếu thốn, sanh kế khó khăn, khó kiếm đồ ăn mặc. Và người ấy xấu xí, khó nhìn, còm lưng, nhiều bệnh, mù lòa, quẹo tay, bại chân hay nửa thân tê liệt. Người ấy không nhận được đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, không nhận được chỗ nằm, chỗ ở, đèn đuốc. Người ấy thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện. Do thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện, sau khi thân hoại mạng chung người ấy được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. 
‘‘Seyyathāpi, mahārāja, puriso pathaviyā vā pallaṅkaṃ āroheyya, pallaṅkā vā assapiṭṭhiṃ āroheyya, assapiṭṭhiyā vā hatthikkhandhaṃ āroheyya, hatthikkhandhā vā pāsādaṃ āroheyya. Tathūpamāhaṃ, mahārāja, imaṃ puggalaṃ vadāmi. Evaṃ kho, mahārāja, puggalo tamojotiparāyano hoti. Thưa Đại vương, ví như một người từ đất leo lên kiệu, hay từ kiệu leo lên lưng ngựa, hay từ lưng ngựa leo lên thân voi, hay từ thân voi leo lên lầu. Thưa Đại vương, Ta nói người ấy với ví dụ như vậy. Thưa Đại vương, như vậy là người sống trong bóng tối hướng đến ánh sáng.
‘‘Kathañca, mahārāja, puggalo jotitamaparāyano hoti? Idha , mahārāja, ekacco puggalo ucce kule paccājāto hoti, khattiyamahāsālakule vā brāhmaṇamahāsālakule vā gahapatimahāsālakule vā, aḍḍhe mahaddhane mahābhoge pahūtajātarūparajate pahūtavittūpakaraṇe pahūtadhanadhaññe. So ca hoti abhirūpo dassanīyo pāsādiko, paramāya vaṇṇapokkharatāya samannāgato, lābhī annassa pānassa vatthassa yānassa mālāgandhavilepanassa seyyāvasathapadīpeyyassa. So kāyena duccaritaṃ carati, vācāya duccaritaṃ carati, manasā duccaritaṃ carati. So kāyena duccaritaṃ caritvā vācāya duccaritaṃ caritvā manasā duccaritaṃ caritvā, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati. 6) Và thưa Đại vương, thế nào là người sống trong ánh sáng hướng đến bóng tối? Ở đây, thưa Đại vương, có số người sanh ra trong gia đình cao quý, trong gia đình Sát-đế-lỵ đại phú, hay trong gia đình Bà-la-môn đại phú, hay trong gia đình gia chủ đại phú, phú hào có tiền của lớn, có tài sản lớn, có nhiều vàng và bạc, có nhiều tài sản vật dụng, nhiều tiền của, ngũ cốc. Người ấy đẹp trai, dễ nhìn, dễ thương, với màu da tuyệt đẹp, mỹ miều. Người ấy lại nhận được đồ ăn, đồ uống, áo mặc, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, chỗ nằm, chỗ trú, đèn đuốc. Người ấy, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Do thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
‘‘Seyyathāpi, mahārāja, puriso pāsādā vā hatthikkhandhaṃ oroheyya, hatthikkhandhā vā assapiṭṭhiṃ oroheyya, assapiṭṭhiyā vā pallaṅkaṃ oroheyya, pallaṅkā vā pathaviṃ oroheyya, pathaviyā vā andhakāraṃ paviseyya. Tathūpamāhaṃ, mahārāja, imaṃ puggalaṃ vadāmi. Evaṃ kho, mahārāja, puggalo jotitamaparāyano hoti. Ví như, thưa Đại vương, một người từ lầu leo xuống thân voi, hay từ thân voi leo xuống lưng ngựa, hay từ lưng ngựa leo xuống chiếc kiệu, hay từ chiếc kiệu leo xuống đất, hay từ đất leo xuống lòng đất tối tăm. Thưa Đại vương, Ta nói người ấy với ví dụ như vậy. Thưa Đại vương, như vậy là người sống trong ánh sáng hướng đến bóng tối.
‘‘Kathañca, mahārāja, puggalo jotijotiparāyano hoti? Idha, mahārāja, ekacco puggalo ucce kule paccājāto hoti, khattiyamahāsālakule vā brāhmaṇamahāsālakule vā gahapatimahāsālakule vā, aḍḍhe mahaddhane mahābhoge pahūtajātarūparajate pahūtavittūpakaraṇe pahūtadhanadhaññe. So ca hoti abhirūpo dassanīyo pāsādiko, paramāya vaṇṇapokkharatāya samannāgato , lābhī annassa pānassa vatthassa yānassa mālāgandhavilepanassa seyyāvasathapadīpeyyassa. So kāyena sucaritaṃ carati, vācāya sucaritaṃ carati, manasā sucaritaṃ carati. So kāyena sucaritaṃ caritvā vācāya sucaritaṃ caritvā manasā sucaritaṃ caritvā, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati. 7) Và thưa Đại vương, thế nào là người sống trong ánh sáng hướng đến ánh sáng? Ở đây, thưa Đại vương, có người sanh ra trong gia đình cao quý, trong gia đình Sát-đế-lỵ đại phú, hay trong gia đình Bà-la-môn đại phú, hay trong gia đình gia chủ đại phú, phú hào, có tiền của lớn, có tài sản lớn, có nhiều vàng và bạc, có nhiều tài sản vật dụng, có nhiều tiền của, ngũ cốc. Và người ấy đẹp trai, dễ nhìn, dễ thương, với màu da tuyệt đẹp, mỹ miều. Người ấy lại nhận được đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, chỗ nằm, chỗ trú, đèn đuốc. Người ấy thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện. Do thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện, người ấy khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
‘‘Seyyathāpi, mahārāja, puriso pallaṅkā vā pallaṅkaṃ saṅkameyya, assapiṭṭhiyā vā assapiṭṭhiṃ saṅkameyya, hatthikkhandhā vā hatthikkhandhaṃ saṅkameyya, pāsādā vā pāsādaṃ saṅkameyya. Tathūpamāhaṃ, mahārāja, imaṃ puggalaṃ vadāmi. Evaṃ kho, mahārāja, puggalo jotijotiparāyano hoti. Ime kho, mahārāja, cattāro puggalā santo saṃvijjamānā lokasmi’’nti. Idamavoca…pe… Ví như, thưa Đại vương, một người từ chiếc kiệu này bước qua chiếc kiệu khác, hay từ lưng ngựa này bước qua lưng ngựa khác, hay từ thân voi này bước qua thân voi khác, hay từ lầu này bước qua lầu khác. Thưa Đại vương, Ta nói người ấy với ví dụ như vậy. Thưa Đại vương, như vậy là người sống trong ánh sáng, hướng đến ánh sáng. 8) Thưa Đại vương, những người như vậy có mặt, hiện diện trong đời. 9) Thưa Đại vương, người nghèo đói bất tín và xan tham :
‘‘Daliddo puriso rāja, assaddho hoti maccharī; Keo kiết, ác tư duy, Tà kiến, thiếu lễ nghĩa,
Kadariyo pāpasaṅkappo, micchādiṭṭhi anādaro. Nhiếc mắng và mạ lỵ Sa-môn, Bà-la-môn,
‘‘Samaṇe brāhmaṇe vāpi, aññe vāpi vanibbake; Cùng các khất sĩ khác; Không cho, làm phiền nhiễu,
Akkosati paribhāsati, natthiko hoti rosako. Ngăn chận sự bố thí, Cơm nước cho người xin;
‘‘Dadamānaṃ nivāreti, yācamānāna bhojanaṃ; Đại vương, người như vậy, Khi thân hoại mạng chung,
Tādiso puriso rāja, mīyamāno janādhipa; Sanh địa ngục hãi hùng. Ôi Nhân chủ, người vậy,
Upeti nirayaṃ ghoraṃ, tamotamaparāyano. Được gọi sanh bóng tối, Và hướng đến bóng tối.
‘‘Daliddo puriso rāja, saddho hoti amaccharī; 10) Đại vương, người nghèo đói Có tín, không xan tham,
Dadāti seṭṭhasaṅkappo, abyaggamanaso naro. Bố thí, thiện tư duy, Có chí, tâm không loạn,
‘‘Samaṇe brāhmaṇe vāpi, aññe vāpi vanibbake; Đứng dậy và chào đón Sa-môn, Bà-la-môn,
Uṭṭhāya abhivādeti, samacariyāya sikkhati. Cùng các khất sĩ khác, Tu học hạnh thăng bằng;
‘‘Dadamānaṃ na vāreti [na nivāreti (sī.)], yācamānāna bhojanaṃ; Không ngăn sự bố thí, Cơm nước cho người xin;
Tādiso puriso rāja, mīyamāno janādhipa; Đại vương, người như vậy, Khi thân hoại mạng chung,
Upeti tidivaṃ ṭhānaṃ, tamojotiparāyano. Được sanh lên Thiên giới, Ôi Nhân chủ, người vậy,
‘‘Aḍḍho ce [aḍḍho ve (pī. ka.)] puriso rāja, assaddho hoti maccharī; Được gọi sanh bóng tối, Nhưng hướng đến ánh sáng.
Kadariyo pāpasaṅkappo, micchādiṭṭhi anādaro. 11) Đại vương, người hào phú, Bất tín và xan tham,
‘‘Samaṇe brāhmaṇe vāpi, aññe vāpi vanibbake; Keo kiết, ác tư duy, Tà kiến, không lễ nghĩa,
Akkosati paribhāsati, natthiko hoti rosako. Nhiếc mắng và mạ lỵ. Sa-môn, Bà-la-môn,
‘‘Dadamānaṃ nivāreti, yācamānāna bhojanaṃ; Cùng các khất sĩ khác, Không cho, làm phiền nhiễu,
Tādiso puriso rāja, mīyamāno janādhipa; Ngăn chận sự bố thí, Cơm nước cho người xin.
Upeti nirayaṃ ghoraṃ, jotitamaparāyano. Đại vương, người như vậy, Khi thân hoại mạng chung,
‘‘Aḍḍho ce puriso rāja, saddho hoti amaccharī; Phải sanh vào địa ngục. Ôi Nhân chủ, người vậy,
Dadāti seṭṭhasaṅkappo, abyaggamanaso naro. Được gọi sanh ánh sáng, Và hướng đến bóng tối.
‘‘Samaṇe brāhmaṇe vāpi, aññe vāpi vanibbake; 12) Ðại vương, người hào phú, Có tín, không xan tham,
Uṭṭhāya abhivādeti, samacariyāya sikkhati. Bố thí, thiện tư duy, Có chí, tâm không loạn.
‘‘Dadamānaṃ na vāreti, yācamānāna bhojanaṃ; Đứng dậy và chào đón, Sa-môn, Bà-la-môn,
Tādiso puriso rāja, mīyamāno janādhipa; Cùng các khất sĩ khác, Tu học hạnh hòa bình,
Upeti tidivaṃ ṭhānaṃ, jotijotiparāyano’’ti. Không ngăn sự bố thí, Cơm nước cho người xin.
  Đại vương, người như vậy, Khi thân hoại mạng chung,
  Được sanh lên Thiên giới, Ôi Nhân chủ, người vậy,
  Được gọi sanh ánh sáng, Và hướng đến ánh sáng.
2. Ayyikāsuttaṃ II. Tổ Mẫu (S.i,96)
133. Sāvatthinidānaṃ . Ekamantaṃ nisinnaṃ kho rājānaṃ pasenadiṃ kosalaṃ bhagavā etadavoca – ‘‘handa, kuto nu tvaṃ, mahārāja, āgacchasi divādivassā’’ti? 1) Nhân duyên ở Sàvatthi. 2) Thế Tôn nói với vua Pasenadi nước Kosala đang ngồi một bên: — Đại vương đi từ đâu lại, giữa trưa như thế này?
‘‘Ayyikā me, bhante, kālaṅkatā jiṇṇā vuḍḍhā mahallikā addhagatā vayoanuppattā vīsavassasatikā jātiyā. Ayyikā kho pana me, bhante, piyā hoti manāpā. Hatthiratanena cepāhaṃ, bhante, labheyyaṃ ‘mā me ayyikā kālamakāsī’ti, hatthiratanampāhaṃ dadeyyaṃ – ‘mā me ayyikā kālamakāsī’ti. Assaratanena cepāhaṃ, bhante, labheyyaṃ ‘mā me ayyikā kālamakāsī’ti, assaratanampāhaṃ dadeyyaṃ – ‘mā me ayyikā kālamakāsī’ti. Gāmavarena cepāhaṃ bhante, labheyyaṃ ‘mā me ayyikā kālamakāsī’ti, gāmavarampāhaṃ dadeyyaṃ – ‘mā me ayyikā kālamakāsī’ti. Janapadapadesena [janapadena (sī. syā. pī.)] cepāhaṃ, bhante, labheyyaṃ ‘mā me ayyikā kālamakāsī’ti, janapadapadesampāhaṃ dadeyyaṃ – ‘mā me ayyikā kālamakāsī’ti. ‘Sabbe sattā, mahārāja, maraṇadhammā maraṇapariyosānā maraṇaṃ anatītā’ti. ‘Acchariyaṃ, bhante, abbhutaṃ, bhante! Yāvasubhāsitamidaṃ, bhante, bhagavatā – sabbe sattā maraṇadhammā maraṇapariyosānā maraṇaṃ anatītā’’’ti. 3) — Bạch Thế Tôn, tổ mẫu của con mệnh chung, già nua, tuổi tác, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đạt đến tuổi thọ, đã mệnh chung, được một trăm hai mươi tuổi. 4) Bạch Thế Tôn, con rất ái luyến và quý mến tổ mẫu. Bạch Thế Tôn, nếu con được cho một voi báu, hay để tổ mẫu con khỏi chết, con sẽ cho voi báu để tổ mẫu con khỏi chết. Bạch Thế Tôn, nếu con được cho một ngựa báu, hay để tổ mẫu con khỏi chết, con sẽ cho ngựa báu để tổ mẫu con khỏi chết. Bạch Thế Tôn, nếu con được cho một thôn làng tốt đẹp, hay để tổ mẫu con khỏi chết, con sẽ cho thôn làng tốt đẹp để tổ mẫu con khỏi chết. Bạch Thế Tôn, nếu con có thể được cho một quốc độ, hay để tổ mẫu con khỏi chết, con sẽ cho quốc độ để tổ mẫu con khỏi chết. 5) — Tất cả chúng sanh, thưa Đại vương, đều phải chết, đều kết thúc trong sự chết, đều không vượt qua sự chết. 6) — Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã khéo nói: “Tất cả chúng sanh đều phải chết, đều kết thúc trong sự chết, đều không vượt qua sự chết.”
‘‘Evametaṃ, mahārāja, evametaṃ, mahārāja! Sabbe sattā maraṇadhammā maraṇapariyosānā maraṇaṃ anatītā. Seyyathāpi, mahārāja, yāni kānici kumbhakārabhājanāni āmakāni ceva pakkāni ca sabbāni tāni bhedanadhammāni bhedanapariyosānāni bhedanaṃ anatītāni; evameva kho, mahārāja, sabbe sattā maraṇadhammā maraṇapariyosānā maraṇaṃ anatītā’’ti. Idamavoca…pe… 7) — Như vậy là phải, thưa Đại vương. Như vậy là phải, thưa Đại vương. Tất cả chúng sanh đều phải chết, đều kết thúc trong sự chết, đều không vượt qua sự chết. Ví như, thưa Đại vương, tất cả đồ gốm do người thợ gốm làm ra, chưa nung chín hay đã nung chín, tất cả đồ gốm ấy đều phải bể, đều kết thúc trong sự bể, đều không vượt qua sự bể. Cũng vậy, thưa Đại vương, tất cả chúng sanh đều phải chết, đều kết thúc trong sự chết, đều không vượt qua sự chết.
‘‘Sabbe sattā marissanti, maraṇantañhi jīvitaṃ; 8) Mọi chúng sanh sẽ chết, Mạng sống, chết kết thúc,
Yathākammaṃ gamissanti, puññapāpaphalūpagā; Tùy nghiệp, họ sẽ đi, Nhận lãnh quả thiện ác,
Nirayaṃ pāpakammantā, puññakammā ca suggatiṃ. Ác nghiệp đọa, địa ngục, Thiện nghiệp, lên Thiên giới.
‘‘Tasmā kareyya kalyāṇaṃ, nicayaṃ samparāyikaṃ; Do vậy hãy làm lành, Tích lũy cho đời sau,
Puññāni paralokasmiṃ, patiṭṭhā honti pāṇina’’nti. Công đức cho đời sau, Làm hậu cứ cho người.
3. Lokasuttaṃ III. Thế Gian (S.i,98)
134. Sāvatthinidānaṃ . Ekamantaṃ nisinno kho rājā pasenadi kosalo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kati nu kho, bhante, lokassa dhammā uppajjamānā uppajjanti ahitāya dukkhāya aphāsuvihārāyā’’ti? ‘‘Tayo kho, mahārāja, lokassa dhammā uppajjamānā uppajjanti ahitāya dukkhāya aphāsuvihārāya. Katame tayo? Lobho kho, mahārāja, lokassa dhammo, uppajjamāno uppajjati ahitāya dukkhāya aphāsuvihārāya. Doso kho, mahārāja, lokassa dhammo, uppajjamāno uppajjati ahitāya dukkhāya aphāsuvihārāya. Moho kho, mahārāja, lokassa dhammo, uppajjamāno uppajjati ahitāya dukkhāya aphāsuvihārāya. Ime kho, mahārāja, tayo lokassa dhammā uppajjamānā uppajjanti ahitāya dukkhāya aphāsuvihārāyā’’ti. Idamavoca…pe… 1) Ở tại Sàvatthi. 2) Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn: — Bạch Thế Tôn, có bao nhiêu pháp ở đời, khi khởi lên đưa lại bất lợi, đau khổ, bất an trú? 3) — Thưa Đại vương, có ba pháp ở đời, khi khởi lên đưa lại bất lợi, đau khổ, bất an trú. 4) Thế nào là ba? Thưa Đại vương, tham là pháp ở đời, khi khởi lên đưa lại bất lợi, đau khổ, bất an trú. Thưa Đại vương, sân là pháp ở đời, khi khởi lên đưa lại bất lợi, đau khổ, bất an trú. Thưa Đại vương, si là pháp ở đời, khi khởi lên đưa lại bất lợi, đau khổ, bất an trú. 5) Thưa Đại vương, ba pháp này ở đời, khi khởi lên đem lại bất lợi, đau khổ, bất an trú.
‘‘Lobho doso ca moho ca, purisaṃ pāpacetasaṃ; 6) Tham, sân, si ba pháp,  Là ác tâm cho người, Chúng di hại tự ngã,
Hiṃsanti attasambhūtā, tacasāraṃva samphala’’nti. Chúng tác thành tự ngã, Như vỏ và lõi cây, Tự tác thành trái cây.
4. Issattasuttaṃ IV. Cung Thuật (S.i,98)
135. Sāvatthinidānaṃ. Ekamantaṃ nisinno kho rājā pasenadi kosalo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kattha nu kho, bhante, dānaṃ dātabba’’nti? ‘‘Yattha kho, mahārāja, cittaṃ pasīdatī’’ti. ‘‘Kattha pana, bhante, dinnaṃ mahapphala’’nti? ‘‘Aññaṃ kho etaṃ, mahārāja, kattha dānaṃ dātabbaṃ, aññaṃ panetaṃ kattha dinnaṃ mahapphalanti? Sīlavato kho, mahārāja, dinnaṃ mahapphalaṃ, no tathā dussīle. Tena hi, mahārāja, taññevettha paṭipucchissāmi. Yathā, te khameyya, tathā naṃ byākareyyāsi. Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, idha tyassa yuddhaṃ paccupaṭṭhitaṃ saṅgāmo samupabyūḷho [samūpabbūḷho (sī.), samupabbuḷho (pī.)]. Atha āgaccheyya khattiyakumāro asikkhito akatahattho akatayoggo akatūpāsano bhīru chambhī utrāsī palāyī. Bhareyyāsi taṃ purisaṃ, attho ca te tādisena purisenā’’ti? ‘‘Nāhaṃ, bhante, bhareyyaṃ taṃ purisaṃ, na ca me attho tādisena purisenā’’ti. ‘‘Atha āgaccheyya brāhmaṇakumāro asikkhito…pe… atha āgaccheyya vessakumāro asikkhito…pe… atha āgaccheyya suddakumāro asikkhito…pe… na ca me attho tādisena purisenā’’ti. 1) Ở tại Sàvatthi. 2) Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn: — Chỗ nào, bạch Thế Tôn, bố thí cần phải đem cho? 3) Thưa Đại vương, tại chỗ nào, tâm được hoan hỷ. 4) Bạch Thế Tôn, chỗ nào cho được quả lớn? 5) — Thưa Đại vương, câu : “Chỗ nào bố thí cần phải đem cho” khác với câu: “Chỗ nào cho được quả lớn”. Thưa Đại vương, cho người trì giới được quả báo lớn. Cho người không giữ giới không được như vậy. Về vấn đề này, thưa Đại vương, Ta sẽ hỏi Đại vương, Đại vương kham nhẫn như thế nào, hãy trả lời câu hỏi ấy như vậy. 6) Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Ở đây, Đại vương đang lâm chiến, và cuộc giao tranh đang tiếp diễn dữ dội. Rồi một thanh niên Sát-đế-lỵ đến, không có học tập, không có huấn luyện, không có thực tập, không có phục vụ, rụt rè, sợ hãi, run sợ. Đại vương có chấp nhận người ấy không? Đại vương có ủng hộ người ấy không, và một người như vậy có lợi ích gì cho Đại vương không? 7) — Bạch Thế Tôn, con không ủng hộ người ấy và một người như vậy không có lợi ích gì cho con cả. 8) Rồi một thanh niên Bà-la-môn, không có học tập… Rồi một thanh niên Vessa (thương gia) đến… Rồi một thanh niên Sudda (Thủ-đà: cùng đinh) đến, không có học tập…,… và một người như vậy không có lợi ích gì cho con cả.
‘‘Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, idha tyassa yuddhaṃ paccupaṭṭhitaṃ saṅgāmo samupabyūḷho. Atha āgaccheyya khattiyakumāro susikkhito katahattho katayoggo katūpāsano abhīru acchambhī anutrāsī apalāyī. Bhareyyāsi taṃ purisaṃ, attho ca te tādisena purisenā’’ti? ‘‘Bhareyyāhaṃ, bhante , taṃ purisaṃ, attho ca me tādisena purisenā’’ti. ‘‘Atha āgaccheyya brāhmaṇakumāro…pe… atha āgaccheyya vessakumāro…pe… atha āgaccheyya suddakumāro susikkhito katahattho katayoggo katūpāsano abhīru acchambhī anutrāsī apalāyī. Bhareyyāsi taṃ purisaṃ, attho ca te tādisena purisenā’’ti? ‘‘Bhareyyāhaṃ, bhante, taṃ purisaṃ, attho ca me tādisena purisenā’’ti.  9) — Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Ở đây, Đại vương đang lâm chiến, và cuộc giao tranh đang tiếp diễn dữ dội. Rồi một thanh niên Sát-đế-lỵ đến, có học tập, có huấn luyện, có thực tập, có phục vụ, không rụt rè, không sợ hãi, không run sợ. Đại vương có chấp nhận người ấy không? Đại vương có ủng hộ người ấy không, và một người như vậy có lợi ích gì cho Đại vương không? 10) — Bạch Thế Tôn, con ủng hộ người ấy. Và một người như vậy có lợi ích cho con. 11) — Rồi một thanh niên Bà-la-môn đến, có học tập… Rồi một thanh niên Vessa đến… Rồi một thanh niên Sudda đến có học tập..,…. và một người như vậy có ích lợi gì cho Đại vương không? 12) — Bạch Thế Tôn, con ủng hộ người ấy và một người như vậy có lợi ích cho con.
‘‘Evameva kho, mahārāja, yasmā kasmā cepi [yasmā cepi (sī. syā. kaṃ. ka.)] kulā agārasmā anagāriyaṃ pabbajito hoti, so ca hoti pañcaṅgavippahīno pañcaṅgasamannāgato, tasmiṃ dinnaṃ mahapphalaṃ hoti. Katamāni pañcaṅgāni pahīnāni honti? Kāmacchando pahīno hoti, byāpādo pahīno hoti, thinamiddhaṃ pahīnaṃ hoti, uddhaccakukkuccaṃ pahīnaṃ hoti, vicikicchā pahīnā hoti. Imāni pañcaṅgāni pahīnāni honti. Katamehi pañcahaṅgehi samannāgato hoti? Asekkhena sīlakkhandhena samannāgato hoti, asekkhena samādhikkhandhena samannāgato hoti, asekkhena paññākkhandhena samannāgato hoti, asekkhena vimuttikkhandhena samannāgato hoti, asekkhena vimuttiñāṇadassanakkhandhena samannāgato hoti. Imehi pañcahaṅgehi samannāgato hoti. Iti pañcaṅgavippahīne pañcaṅgasamannāgate dinnaṃ mahapphala’’nti. Idamavoca bhagavā…pe… satthā – 13) — Cũng vậy, thưa Đại vương, dầu cho một người có xuất gia từ một gia đình nào, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy đoạn trừ năm chi và hội đủ năm chi. Bố thí cho một người như vậy có quả báo lớn. 14) Thế nào là năm chi được đoạn trừ? Tham dục được đoạn trừ, sân được đoạn trừ, hôn trầm thụy miên được đoạn trừ, trạo hối được đoạn trừ, nghi được đoạn trừ. Năm chi này được đoạn trừ. 15) Thế nào là năm chi được hội đủ? Vô học giới uẩn được hội đủ, vô học định uẩn được hội đủ, vô học tuệ uẩn được hội đủ, vô học giải thoát uẩn được hội đủ, vô học giải thoát tri kiến uẩn được hội đủ. Năm chi này được hội đủ. 16) Chính một người như vậy, năm chi được đoạn trừ, năm chi được hội đủ, bố thí cho người như vậy được quả báo lớn. 17) Thế Tôn nói như vậy. Rồi bậc Đạo Sư lại nói thêm:
‘‘Issattaṃ [issatthaṃ (sī. syā. kaṃ.)] balavīriyañca [balaviriyañca (sī. syā. kaṃ. pī.)], yasmiṃ vijjetha māṇave; Vị vua đang lâm chiến, Sẽ giữ lại thanh niên,
Taṃ yuddhattho bhare rājā, nāsūraṃ jātipaccayā. Cung thuật được thiện xảo, Dõng mãnh đầy khí lực.
‘‘Tatheva khantisoraccaṃ, dhammā yasmiṃ patiṭṭhitā; Nhà vua không tuyển chọn, Theo tiêu chuẩn thọ sanh.
Ariyavuttiṃ medhāviṃ, hīnajaccampi pūjaye. Cũng vậy, người có trí, Kính lễ bậc hạ sanh,
‘‘Kāraye assame ramme, vāsayettha bahussute; Bậc này sống Thánh hạnh, Nhẫn nhục và hiền hòa.
Papañca vivane kayirā, dugge saṅkamanāni ca. Hãy làm cốc thoải mái Dựng nhà cho đa văn,
‘‘Annaṃ pānaṃ khādanīyaṃ, vatthasenāsanāni ca; Rừng khô làm bể nước, Hiểm trở, mở đường đi.
Dadeyya ujubhūtesu, vippasannena cetasā. Với tâm tư thanh tịnh, Hãy cho kẻ trực tâm,
‘‘Yathā hi megho thanayaṃ, vijjumālī satakkaku; Cho đồ ăn, đồ uống, Cho vải mặc, trú xá.
Thalaṃ ninnañca pūreti, abhivassaṃ vasundharaṃ. Như mây giông gầm thét, Chớp sáng trăm đầu mây,
‘‘Tatheva saddho sutavā, abhisaṅkhacca bhojanaṃ; Nước mưa ào ào xuống, Tràn đầy đất thấp cao.
Vanibbake tappayati, annapānena paṇḍito. Cũng vậy, bậc thiện tín, Đa văn, trữ đồ ăn,
‘‘Āmodamāno pakireti, detha dethāti bhāsati; Thỏa mãn kẻ khất sĩ. Kẻ trí tâm hoan hỷ,
Taṃ hissa gajjitaṃ hoti, devasseva pavassato; Phân phát vật ăn uống, Nói “Cho, hãy đem cho”.
Sā puññadhārā vipulā, dātāraṃ abhivassatī’’ti. Như vậy, la, gầm, thét, Mưa móc như thần mưa,
  Các công đức to lớn, Do bố thí mang lại,
  Đem mưa ân, mưa móc, Trên những người bố thí.
5. Pabbatūpamasuttaṃ V. Ví Dụ Hòn Núi (S.i,100)
136. Sāvatthinidānaṃ . Ekamantaṃ nisinnaṃ kho rājānaṃ pasenadiṃ kosalaṃ bhagavā etadavoca – ‘‘handa, kuto nu tvaṃ, mahārāja, āgacchasi divā divassā’’ti? ‘‘Yāni tāni, bhante, raññaṃ khattiyānaṃ muddhāvasittānaṃ issariyamadamattānaṃ kāmagedhapariyuṭṭhitānaṃ janapadatthāvariyappattānaṃ mahantaṃ pathavimaṇḍalaṃ abhivijiya ajjhāvasantānaṃ rājakaraṇīyāni bhavanti, tesu khvāhaṃ, etarahi ussukkamāpanno’’ti. 1) Nhân duyên ở Sàvatthi. 2) Thế Tôn nói với vua Pasenadi nước Kosala đang ngồi một bên: — Thưa Đại vương, Đại vương đi từ đâu lại? 3) — Bạch Thế Tôn, con rất là bận rộn với những sự việc các vua chúa bận rộn. Các vua chúa Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, say đắm kiêu hãnh với vương quyền, thọ hưởng tham lam vật dục, đạt được sự an toàn quốc độ, và sống chinh phục cả vùng đất đai rộng lớn.
‘‘Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, idha te puriso āgaccheyya puratthimāya disāya saddhāyiko paccayiko. So taṃ upasaṅkamitvā evaṃ vadeyya – ‘yagghe, mahārāja, jāneyyāsi, ahaṃ āgacchāmi puratthimāya disāya. Tatthaddasaṃ mahantaṃ pabbataṃ abbhasamaṃ sabbe pāṇe nippothento āgacchati. Yaṃ te, mahārāja, karaṇīyaṃ, taṃ karohī’ti. Atha dutiyo puriso āgaccheyya pacchimāya disāya…pe… atha tatiyo puriso āgaccheyya uttarāya disāya…pe… atha catuttho puriso āgaccheyya dakkhiṇāya disāya saddhāyiko paccayiko. So taṃ upasaṅkamitvā evaṃ vadeyya – ‘yagghe mahārāja, jāneyyāsi, ahaṃ āgacchāmi dakkhiṇāya disāya. Tatthaddasaṃ mahantaṃ pabbataṃ abbhasamaṃ sabbe pāṇe nippothento āgacchati. Yaṃ te, mahārāja, karaṇīyaṃ taṃ karohī’ti. Evarūpe te, mahārāja, mahati mahabbhaye samuppanne dāruṇe manussakkhaye [manussakāye (ka.)] dullabhe manussatte kimassa karaṇīya’’nti? 4) — Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Ở đây, nếu có người đến với Đại vương từ phương Đông, một người thân tín, đáng tin cậy. Người ấy đến Đại vương và thưa: “Tâu Đại vương, mong Đại vương được biết, con từ phương Đông lại và có thấy tại đấy một ngọn núi cao như hư không, đang di chuyển và chà đạp, đè bẹp tất cả loại hữu tình. Tâu Đại vương, Đại vương hãy làm những gì cần phải làm”. 5) Rồi một người khác đến từ phương Tây… Rồi một người thứ ba đến từ phương Bắc… Rồi một người thứ tư đến từ phương Nam, thân tín đáng tin cậy. Người ấy đến Đại vương và thưa: “Tâu Đại vương, mong Đại vương được biết, con từ phương Nam lại và có thấy tại đấy một ngọn núi cao như hư không, đang di chuyển và chà đạp, đè bẹp lên tất cả loại hữu tình. Tâu Đại vương, Đại vương hãy làm những gì cần phải làm”. Như vậy, thưa Đại vương, một khủng bố lớn khởi lên cho Đại vương, sự diệt tận nhân loại thật khủng khiếp, được tái sanh làm người thật khó khăn, thời Đại vương có thể làm được những gì?
‘‘Evarūpe me, bhante, mahati mahabbhaye samuppanne dāruṇe manussakkhaye dullabhe manussatte kimassa karaṇīyaṃ aññatra dhammacariyāya aññatra samacariyāya aññatra kusalakiriyāya aññatra puññakiriyāyā’’ti? 6) — Như vậy, bạch Thế Tôn, một khủng bố lớn khởi lên, sự diệt tận nhân loại thật khủng khiếp, được tái sanh làm người thật khó khăn, thời con có thể làm được những gì, ngoại trừ sống đúng pháp, sống chơn chánh làm các hạnh lành, làm các công đức!
‘‘Ārocemi kho te, mahārāja, paṭivedemi kho te, mahārāja, adhivattati kho taṃ, mahārāja, jarāmaraṇaṃ. Adhivattamāne ce te, mahārāja, jarāmaraṇe kimassa karaṇīya’’nti?  7) — Thưa Đại vương, Ta nói cho Đại vương biết, Ta cáo cho Đại vương hay. Thưa Đại vương, già và chết đang tiến đến chinh phục Đại vương. Khi Đại vương bị già chết chinh phục, Đại vương có thể làm được gì?.
‘‘Adhivattamāne ca me, bhante, jarāmaraṇe kimassa karaṇīyaṃ aññatra dhammacariyāya samacariyāya kusalakiriyāya puññakiriyāya? 8) — Bạch Thế Tôn, khi con bị già và chết chinh phục, thời con có thể làm được gì, ngoại trừ sống đúng pháp, sống chơn chánh, làm các hạnh lành, làm các công đức!
Yāni tāni, bhante, raññaṃ khattiyānaṃ muddhāvasittānaṃ issariyamadamattānaṃ kāmagedhapariyuṭṭhitānaṃ janapadatthāvariyappattānaṃ mahantaṃ pathavimaṇḍalaṃ abhivijiya ajjhāvasantānaṃ hatthiyuddhāni bhavanti; tesampi, bhante, hatthiyuddhānaṃ natthi gati natthi visayo adhivattamāne jarāmaraṇe. 9) Bạch Thế Tôn, những sự việc như các vua chúa Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, say đắm, kiêu hãnh với vương quyền, thọ hưởng tham lam vật dục, đạt được sự an toàn quốc độ và sống chinh phục cả vùng đất đai rộng lớn cùng các trận chiến với tượng binh. Bạch Thế Tôn, các trận chiến với tượng binh không đem lại một hướng đi (gati), một điểm tựa cho các vua chúa ấy, mội khi bị già chết chinh phục.
Yānipi tāni, bhante, raññaṃ khattiyānaṃ muddhāvasittānaṃ…pe… ajjhāvasantānaṃ assayuddhāni bhavanti…pe… rathayuddhāni bhavanti …pe… pattiyuddhāni bhavanti; tesampi , bhante, pattiyuddhānaṃ natthi gati natthi visayo adhivattamāne jarāmaraṇe. 10) Bạch Thế Tôn, những sự việc như các vua chúa Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, say đắm, kiêu hãnh với vương quyền, thọ hưởng tham lam vật dục, đạt được sự an toàn quốc độ và sống chinh phục cả một vùng đất đai rộng lớn cùng các trận chiến với mã binh…,… với xa binh…, … với bộ binh. Bạch Thế Tôn, các trận chiến với bộ binh không đem lại một hướng đi, một điểm tựa cho các vị vua chúa ấy một khi bị già chết chinh phục.
Santi kho pana, bhante, imasmiṃ rājakule mantino mahāmattā, ye pahonti [yesaṃ honti (ka.)] āgate paccatthike mantehi bhedayituṃ. Tesampi, bhante, mantayuddhānaṃ natthi gati natthi visayo adhivattamāne jarāmaraṇe. 11) Bạch Thế Tôn, trong vương quốc này có những Đại thần tinh luyện về thần chú. Các vị này có thể với thần chú, phá tan quân địch tới tấn công. Nhưng bạch Thế Tôn, các trận chiến chú thuật không đem lại một hướng đi, một điểm tựa cho các vị vua ấy một khi bị già chết chinh phục.
Saṃvijjati kho pana, bhante, imasmiṃ rājakule pahūtaṃ hiraññasuvaṇṇaṃ bhūmigatañceva vehāsaṭṭhañca, yena mayaṃ pahoma āgate paccatthike dhanena upalāpetuṃ. Tesampi, bhante, dhanayuddhānaṃ natthi gati natthi visayo adhivattamāne jarāmaraṇe. 12) Bạch Thế Tôn, trong vương cung này có nhiều số vàng được chứa cất trong những nhà hầm hay những lầu thượng, và với số vàng ấy chúng con có thể phá tan quân địch tấn công tài chánh. Nhưng bạch Thế Tôn, các trận chiến tài chánh không đem lại một hướng đi, một điểm tựa cho các vị vua chúa ấy một khi bị già chết chinh phục.
Adhivattamāne ca me, bhante, jarāmaraṇe kimassa karaṇīyaṃ aññatra dhammacariyāya samacariyāya kusalakiriyāya puññakiriyāyā’’ti? 13) Và bạch Thế Tôn, khi con bị già chết chinh phục, thời con có thể làm được gì, ngoại trừ sống đúng pháp, sống chơn chánh, làm các hạnh lành, làm các công đức!
‘‘Evametaṃ, mahārāja, evametaṃ, mahārāja! Adhivattamāne jarāmaraṇe kimassa karaṇīyaṃ aññatra dhammacariyāya samacariyāya kusalakiriyāya puññakiriyāyā’’ti? Idamavoca bhagavā…pe… satthā – 14) — Như vậy là phải, thưa Đại vương. Như vậy là phải, thưa Đại vương. Khi Đại vương bị già chết chinh phục, Đại vương có thể làm được gì, ngoại trừ sống đúng pháp, sống chơn chánh, làm các hạnh lành, làm các công đức! 15) Thế Tôn nói như vậy…,… và bậc Đạo Sư nói thêm:
‘‘Yathāpi selā vipulā, nabhaṃ āhacca pabbatā; Như núi đá rộng lớn, Dựng đứng lên hư không,
Samantānupariyāyeyyuṃ, nippothento catuddisā. Tiến tới tràn xung quanh, Áp đè cả bốn phía.
‘‘Evaṃ jarā ca maccu ca, adhivattanti pāṇine [pāṇino (sī. syā. kaṃ. pī.)]; Cũng vậy, già và chết Di chuyển đến hữu tình,
Khattiye brāhmaṇe vesse, sudde caṇḍālapukkuse; Giai cấp Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ-xá,
Na kiñci [na kañci (?)] parivajjeti, sabbamevābhimaddati. Thủ-đà, Chiên-đà-la Kẻ đổ rác, đổ phân,
‘‘Na tattha hatthīnaṃ bhūmi, na rathānaṃ na pattiyā; Không một ai thoát khỏi, Tất cả bị chinh phục.
Na cāpi mantayuddhena, sakkā jetuṃ dhanena vā. Ở đây không tượng binh, Không xa binh, bộ binh,
‘‘Tasmā hi paṇḍito poso, sampassaṃ atthamattano; Không trận chiến chú thuật, Không trận chiến tài sản
Buddhe dhamme ca saṅghe ca, dhīro saddhaṃ nivesaye. Có thể giúp chiến thắng, Chống với già, với chết.
‘‘Yo dhammaṃ cari [dhammacārī (sī. syā. kaṃ. pī.)] kāyena, vācāya uda cetasā; Do vậy người hiền trí, Thấy rõ phần tự lợi,
Idheva naṃ pasaṃsanti, pecca sagge pamodatī’’ti. Người trí đặt tin tưởng, Vào Phật, Pháp và Tăng.
  Ai với thân, khẩu, ý, Hành trì đúng Chánh pháp,
  Đời này được tán thán, Đời sau, hưởng phước trời.
Tatiyo vaggo.  
Tassuddānaṃ –  
Puggalo ayyikā loko, issattaṃ [issatthaṃ (sī. syā. kaṃ.)] pabbatūpamā;  
Desitaṃ buddhaseṭṭhena, imaṃ kosalapañcakanti.  
Kosalasaṃyuttaṃ samattaṃ.