Tipitaka.org |
Việt dịch: HT. Thích Minh Châu |
1. Sivasuttaṃ |
I. Siva |
102. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho sivo devaputto abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho sivo devaputto bhagavato santike imā gāthāyo abhāsi – |
1) Như vậy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Độc). Rồi Thiên tử Siva, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, Thiên tử Siva nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn: |
‘‘Sabbhireva samāsetha, sabbhi kubbetha santhavaṃ; |
2) Hãy thân với người lành, Hãy gần gũi người thiện, |
Sataṃ saddhammamaññāya, seyyo hoti na pāpiyo. |
Biết diệu pháp người hiền, Chỉ tốt hơn, không xấu. |
‘‘Sabbhireva samāsetha, sabbhi kubbetha santhavaṃ; |
Hãy thân với người lành, Hãy gần gũi người thiện, |
Sataṃ saddhammamaññāya, paññā labbhati nāññato. |
Biết diệu pháp người hiền, Được tuệ, không gì khác. |
‘‘Sabbhireva samāsetha, sabbhi kubbetha santhavaṃ; |
Hãy thân với người lành, Hãy gần gũi người thiện, |
Sataṃ saddhammamaññāya, sokamajjhe na socati. |
Biết diệu pháp người hiền, Không sầu giữa sầu muộn. |
‘‘Sabbhireva samāsetha, sabbhi kubbetha santhavaṃ; |
Hãy thân với người lành, Hãy gần gũi người thiện, |
Sataṃ saddhammamaññāya, ñātimajjhe virocati. |
Biết diệu pháp người hiền, Chói sáng giữa quyến thuộc. |
‘‘Sabbhireva samāsetha, sabbhi kubbetha santhavaṃ; |
Hãy thân với người lành, Hãy gần gũi người thiện, |
Sataṃ saddhammamaññāya, sattā gacchanti suggatiṃ. |
Biết diệu pháp người hiền, Chúng sanh sanh thiện thú. |
‘‘Sabbhireva samāsetha, sabbhi kubbetha santhavaṃ; |
Hãy thân với người lành, Hãy gần gũi người thiện, |
Sataṃ saddhammamaññāya, sattā tiṭṭhanti sātata’’nti. |
Biết diệu pháp người hiền Chúng sanh thường hưởng lạc. |
Atha kho bhagavā sivaṃ devaputtaṃ gāthāya paccabhāsi – |
3) Rồi Thế Tôn đáp lại Thiên tử Siva với bài kệ: |
‘‘Sabbhireva samāsetha, sabbhi kubbetha santhavaṃ; |
Hãy thân với người lành, Hãy gần gũi người thiện, |
Sataṃ saddhammamaññāya, sabbadukkhā pamuccatī’’ti. |
Biết diệu pháp người hiền, Giải thoát mọi khổ đau. |
2. Khemasuttaṃ |
II. Khema (S.i,57) |
103. Ekamantaṃ ṭhito kho khemo devaputto bhagavato santike imā gāthāyo abhāsi – |
Đứng một bên, Thiên tử Khema nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn: |
‘‘Caranti bālā dummedhā, amitteneva attanā; |
Kẻ ngu không trí tuệ, Lấy ngã làm kẻ thù, |
Karontā pāpakaṃ kammaṃ, yaṃ hoti kaṭukapphalaṃ. |
Tự làm các ác nghiệp, Đưa đến quả đắng cay. |
‘‘Na taṃ kammaṃ kataṃ sādhu, yaṃ katvā anutappati; |
Nghiệp nào không khéo làm, Làm xong bị nung nấu, |
Yassa assumukho rodaṃ, vipākaṃ paṭisevati. |
Với mặt đầy nước mắt, Khóc lóc chịu quả báo. |
‘‘Tañca kammaṃ kataṃ sādhu, yaṃ katvā nānutappati; |
Và nghiệp nào khéo làm, Làm xong, không nung nấu, |
Yassa patīto sumano, vipākaṃ paṭisevati. |
Tâm vui, ý thoải mái, Vị ấy hưởng quả báo. |
‘‘Paṭikacceva [paṭigacceva (sī.)] taṃ kayirā, yaṃ jaññā hitamattano; |
Biết điều lợi cho mình, Làm trước điều phải làm, |
Na sākaṭikacintāya, mantā dhīro parakkame. |
Không tâm trạng đánh xe, Kẻ trí lòng tinh tấn. |
‘‘Yathā sākaṭiko maṭṭhaṃ [panthaṃ (sī.), pasatthaṃ (syā. kaṃ.)], samaṃ hitvā mahāpathaṃ; |
Như người chủ đánh xe, Rời đại đạo thăng bằng, |
Visamaṃ maggamāruyha, akkhacchinnova jhāyati. |
Leo lên đường lồi lõm, Ưu tư nạn gãy trục. |
‘‘Evaṃ dhammā apakkamma, adhammamanuvattiya; |
Cũng vậy bỏ Chánh pháp, Người ngu theo phi pháp, |
Mando maccumukhaṃ patto, akkhacchinnova jhāyatī’’ti. |
Rơi vào miệng tử thần, Ưu tư như gãy trục. |
3. Serīsuttaṃ |
III. Serì (S.i,57) |
104. Ekamantaṃ ṭhito kho serī devaputto bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – |
1) Đứng một bên, Thiên tử Serii nói lên bài kệ với Thế Tôn: |
‘‘Annamevābhinandanti , ubhaye devamānusā; |
Cả hai loại Trời, Người, Đều ưa thích ăn uống, |
Atha ko nāma so yakkho, yaṃ annaṃ nābhinandatī’’ti. |
Có Dạ-xoa tên nào, Lại không thích ăn uống! |
|
(Thế Tôn) |
‘‘Ye naṃ dadanti saddhāya, vippasannena cetasā; |
Ai cho với lòng tin, Với tâm tư thanh tịnh, |
Tameva annaṃ bhajati, asmiṃ loke paramhi ca. |
Được phần món ăn ấy, Đời này và đời sau. |
‘‘Tasmā vineyya maccheraṃ, dajjā dānaṃ malābhibhū; |
Vậy hãy ngăn xan tham, Bố thí, nhiếp cấu uế, |
Puññāni paralokasmiṃ, patiṭṭhā honti pāṇina’’nti. |
Chúng sanh vẫn hưởng thọ, Công đức trong đời sau. |
‘‘Acchariyaṃ , bhante, abbhutaṃ, bhante! Yāvasubhāsitamidaṃ, bhante, bhagavatā – |
2) — Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói điều khéo nói như vậy: |
‘‘Ye naṃ dadanti saddhāya, vippasannena cetasā; |
“Ai cho với lòng tin, Với tâm tư thanh tịnh, |
Tameva annaṃ bhajati, asmiṃ loke paramhi ca. |
Được phần món ăn ấy, Đời này và đời sau. |
‘‘Tasmā vineyya maccheraṃ, dajjā dānaṃ malābhibhū; |
Vậy hãy ngăn xan tham, Bố thí, nhiếp cấu uế, |
Puññāni paralokasmiṃ, patiṭṭhā honti pāṇina’’nti. |
Chúng sanh vẫn hưởng thọ, Công đức trong đời sau.” |
‘‘Bhūtapubbāhaṃ, bhante, sirī [serī (sī. syā. kaṃ. pī.)] nāma rājā ahosiṃ dāyako dānapati dānassa vaṇṇavādī. Tassa mayhaṃ, bhante, catūsu dvāresu dānaṃ dīyittha samaṇa-brāhmaṇa-kapaṇaddhika-vanibbakayācakānaṃ. Atha kho maṃ, bhante, itthāgāraṃ upasaṅkamitvā etadavoca [itthāgārā upasaṅkamitvā etadavocuṃ (ka.)] – ‘devassa kho [devasseva kho (ka. sī.)] dānaṃ dīyati; amhākaṃ dānaṃ na dīyati. Sādhu mayampi devaṃ nissāya dānāni dadeyyāma, puññāni kareyyāmā’ti. Tassa mayhaṃ, bhante, etadahosi – ‘ahaṃ khosmi dāyako dānapati dānassa vaṇṇavādī. Dānaṃ dassāmāti vadante kinti vadeyya’nti? So khvāhaṃ, bhante, paṭhamaṃ dvāraṃ itthāgārassa adāsiṃ. Tattha itthāgārassa dānaṃ dīyittha; mama dānaṃ paṭikkami. |
3) Bạch Thế Tôn, thuở xưa con là vị vua tên Serì ưa bố thí, là bậc thí chủ tán thán bố thí. Bạch Thế Tôn, tại bốn cửa thành, bố thí được phân phát nhân danh con, cho những ai đến xin, cho các vị Bà-la-môn và Sa-môn, cho các người nghèo đói và tàn phế, cho các nhà lữ hành và hành khất. 4) Bạch Thế Tôn, khi con đến các cung phi của con, họ thưa với con: “Đại vương thường hay bố thí, còn chúng con chưa bố thí. Lành thay nếu chúng con được nương tựa Đại vương để bố thí và làm các công đức.” 5) Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: “Ta là người ưa bố thí, là thí chủ tán thán bố thí. Nay ta phải trả lời như thế nào khi họ đến và thưa: ‘Chúng ta hãy bố thí’?”. Bạch Thế Tôn, con cho các cung phi cửa thành thứ nhất. Ở đây các cung phi được bố thí, và bố thí của con trở lui lại cho con. |
‘‘Atha kho maṃ, bhante, khattiyā anuyantā upasaṅkamitvā etadavocuṃ – ‘devassa kho dānaṃ dīyati; itthāgārassa dānaṃ dīyati; amhākaṃ dānaṃ na dīyati. Sādhu mayampi devaṃ nissāya dānāni dadeyyāma, puññāni kareyyāmā’ti . Tassa mayhaṃ, bhante, etadahosi – ‘ahaṃ khosmi dāyako dānapati dānassa vaṇṇavādī. Dānaṃ dassāmāti vadante kinti vadeyya’nti ? So khvāhaṃ, bhante, dutiyaṃ dvāraṃ khattiyānaṃ anuyantānaṃ adāsiṃ. Tattha khattiyānaṃ anuyantānaṃ dānaṃ dīyittha, mama dānaṃ paṭikkami. |
6) Rồi bạch Thế Tôn, các Sát-đế-lỵ (Khattiya) chư hầu của con đến con và thưa: “Đại vương đã bố thí. Các cung phi đã bố thí. Chúng con chưa bố thí. Lành thay nếu chúng con được nương tựa Đại vương để bố thí và làm các công đức”. Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: “Ta là người ưa bố thí, là thí chủ tán thán bố thí. Nay ta phải trả lời như thế nào khi họ đến và thưa: “Chúng ta hãy bố thí”?”. Bạch Thế Tôn, con cho các chư hầu Khattiya cửa thành thứ hai. Ở đây các chư hầu Khattiya được bố thí, và bố thí của con được trở lui lại cho con. |
‘‘Atha kho maṃ, bhante, balakāyo upasaṅkamitvā etadavoca – ‘devassa kho dānaṃ dīyati; itthāgārassa dānaṃ dīyati; khattiyānaṃ anuyantānaṃ dānaṃ dīyati; amhākaṃ dānaṃ na dīyati. Sādhu mayampi devaṃ nissāya dānāni dadeyyāma, puññāni kareyyāmā’ti. Tassa mayhaṃ, bhante, etadahosi – ‘ahaṃ khosmi dāyako dānapati dānassa vaṇṇavādī. Dānaṃ dassāmāti vadante kinti vadeyya’nti? So khvāhaṃ bhante, tatiyaṃ dvāraṃ balakāyassa adāsiṃ. Tattha balakāyassa dānaṃ dīyittha, mama dānaṃ paṭikkami. |
7) Rồi bạch Thế Tôn, quân đội đến con và thưa: “Đại vương đã bố thí. Các cung phi đã bố thí. Các chư hầu Khattiya đã bố thí. Chúng con chưa bố thí. Tốt lành thay nếu chúng con được nương tựa Đại vương để bố thí và làm các công đức”. Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: “Ta là người ưa bố thí, là thí chủ tán thán bố thí. Nay ta phải trả lời như thế nào khi họ đến và thưa: “Chúng ta hãy bố thí”?”. Bạch Thế Tôn, con cho quân đội cửa thành thứ ba. Ở đây quân đội được bố thí và bố thí của con được trở lui lại cho con. |
‘‘Atha kho maṃ, bhante, brāhmaṇagahapatikā upasaṅkamitvā etadavocuṃ – ‘devassa kho dānaṃ dīyati; itthāgārassa dānaṃ dīyati; khattiyānaṃ anuyantānaṃ dānaṃ dīyati; balakāyassa dānaṃ dīyati; amhākaṃ dānaṃ na dīyati. Sādhu mayampi devaṃ nissāya dānāni dadeyyāma, puññāni kareyyāmā’ti. Tassa mayhaṃ, bhante, etadahosi – ‘ahaṃ khosmi dāyako dānapati dānassa vaṇṇavādī. Dānaṃ dassāmāti vadante kinti vadeyya’nti? So khvāhaṃ, bhante, catutthaṃ dvāraṃ brāhmaṇagahapatikānaṃ adāsiṃ. Tattha brāhmaṇagahapatikānaṃ dānaṃ dīyittha, mama dānaṃ paṭikkami. |
8) Rồi bạch Thế Tôn, các Bà-la-môn gia chủ đến con và thưa: “Đại vương đã bố thí. Các cung phi đã bố thí. Các chư hầu Khattiya đã bố thí. Quân đội đã bố thí. Chúng con chưa bố thí. Tốt lành thay nếu chúng con được nương tựa Đại vương để bố thí và làm các công đức!”. Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: “Ta là người ưa bố thí, là thí chủ tán thán bố thí. Nay ta phải trả lời như thế nào khi họ đến và thưa: “Chúng ta hãy bố thí”?”. Bạch Thế Tôn, con cho các Bà-la-môn gia chủ cửa thành thứ tư. Ở đây các Bà-la-môn gia chủ được bố thí và bố thí của con được trở lui lại cho con. |
‘‘Atha kho maṃ, bhante, purisā upasaṅkamitvā etadavocuṃ – ‘na kho dāni devassa koci dānaṃ dīyatī’ti. Evaṃ vuttāhaṃ, bhante, te purise etadavocaṃ – ‘tena hi, bhaṇe, yo bāhiresu janapadesu āyo sañjāyati tato upaḍḍhaṃ antepure pavesetha, upaḍḍhaṃ tattheva dānaṃ detha samaṇa-brāhmaṇa-kapaṇaddhika-vanibbaka-yācakāna’nti . So khvāhaṃ, bhante, evaṃ dīgharattaṃ katānaṃ puññānaṃ evaṃ dīgharattaṃ katānaṃ kusalānaṃ dhammānaṃ pariyantaṃ nādhigacchāmi – ettakaṃ puññanti vā ettako puññavipākoti vā ettakaṃ sagge ṭhātabbanti vāti. Acchariyaṃ, bhante, abbhutaṃ, bhante! Yāvasubhāsitamidaṃ, bhante, bhagavatā – |
9) Rồi bạch Thế Tôn, các người của con đến con và thưa: “Nay Đại vương không còn bố thí nào để cho nữa”. Khi được nói vậy, bạch Thế Tôn, con nói với các người ấy như sau: “Này các Ông, các thuế má thâu hoạch được từ các nước ngoài vào, một nửa hãy gửi vào trong nội thành, một nửa ngay tại chỗ ấy đem bố thí cho các vị Sa-môn, Bà-la-môn, các người nghèo và tàn tật, các nhà lữ hành và hành khất”. 10) Như vậy, bạch Thế Tôn, con không chấm dứt trong một thời gian dài các việc làm công đức, trong một thời gian dài các việc làm thiện, những việc làm được con xem như là công đức, hay như là công đức quả hay như là những điều kiện được sanh thiên giới. 11) Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói lên điều khéo nói như vầy: |
‘‘Ye naṃ dadanti saddhāya, vippasannena cetasā; |
“Ai cho với lòng tin, Với tâm tư thanh tịnh, |
Tameva annaṃ bhajati, asmiṃ loke paramhi ca. |
Được phần món ăn ấy, Đời này và đời sau. |
‘‘Tasmā vineyya maccheraṃ, dajjā dānaṃ malābhibhū; |
Vậy hãy ngăn xan tham, Bố thí, nhiếp cấu uế, |
Puññāni paralokasmiṃ, patiṭṭhā honti pāṇina’’nti. |
Chúng sanh vẫn hưởng thọ, Công đức trong đời sau.” |
4. Ghaṭīkārasuttaṃ |
IV. Ghatìkara (S.i,60) |
105. Ekamantaṃ ṭhito kho ghaṭīkāro devaputto bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi – |
1) Đứng một bên, Thiên tử Ghatìkara nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn: |
‘‘Avihaṃ upapannāse, vimuttā satta bhikkhavo; |
Được sanh Vô phiền thiên, Bảy Tỷ-kheo giải thoát, |
Rāgadosaparikkhīṇā, tiṇṇā loke visattika’’nti. |
Đoạn tận tham và sân, Siêu thoát đời ái trược. |
‘‘Ke ca te ataruṃ paṅkaṃ, maccudheyyaṃ suduttaraṃ; |
2) Vượt bùn, họ là ai? Khó vượt lệnh thần chết, |
Ke hitvā mānusaṃ dehaṃ, dibbayogaṃ upaccagu’’nti. |
Sau khi bỏ thân người, Họ thoát ách chư Thiên. |
‘‘Upako palagaṇḍo [phalagaṇḍo (ka.)] ca, pukkusāti ca te tayo; |
3) Họ là Upaka, Và Phalaganda, Với Pukkusàti, Hợp thành là ba vị. |
Bhaddiyo khaṇḍadevo ca, bāhuraggi ca saṅgiyo [bāhudantī ca piṅgiyo (sī. syā.)]; |
Lại thêm Bhaddiya, Với Khandadeva,Và Bàhuraggi, Cùng với Pingiya, |
Te hitvā mānusaṃ dehaṃ, dibbayogaṃ upaccagu’’nti. |
Sau khi bỏ thân người, Họ thoát ách chư Thiên. |
|
4) (Thế Tôn): |
‘‘Kusalī bhāsasī tesaṃ, mārapāsappahāyinaṃ; |
Ông nói điều tốt lành, Về bảy Tỷ-kheo ấy, |
Kassa te dhammamaññāya, acchiduṃ bhavabandhana’’nti. |
Họ thoát ly, đoạn trừ, Các cạm bẫy Ma vương. |
|
Pháp họ biết, của ai Đoạn được hữu kiết sử? |
|
5) (Ghatìkara): |
‘‘Na aññatra bhagavatā, nāññatra tava sāsanā; |
Không ai ngoài Thế Tôn, Chính thật giáo lý Ngài, |
Yassa te dhammamaññāya, acchiduṃ bhavabandhanaṃ. |
Họ biết pháp của Ngài, Đoạn được hữu kiết sử. |
‘‘Yattha nāmañca rūpañca, asesaṃ uparujjhati; |
Chỗ nào danh và sắc, Được đoạn diệt không dư, |
Taṃ te dhammaṃ idhaññāya, acchiduṃ bhavabandhana’’nti. |
Họ học được pháp ấy, Ở đây từ nơi Ngài. |
|
Nhờ vậy họ đoạn trừ, Hữu kiết sử trói buộc. |
|
6) (Thế Tôn): |
‘‘Gambhīraṃ bhāsasī vācaṃ, dubbijānaṃ sudubbudhaṃ; |
Lời Ông nói thâm sâu, Khó biết, khó chứng ngộ, |
Kassa tvaṃ dhammamaññāya, vācaṃ bhāsasi īdisa’’nti. |
Pháp Ông biết của ai, Sao Ông không nói được? |
|
7) (Ghatìkara): |
‘‘Kumbhakāro pure āsiṃ, vekaḷiṅge ghaṭīkaro; |
Thuở xưa, con thợ gốm, Tại Vehalinga, |
Mātāpettibharo āsiṃ, kassapassa upāsako. |
Và con được tên gọi, Là Ghatìkara. |
‘‘Virato methunā dhammā, brahmacārī nirāmiso; |
Chính con lo nuôi dưỡng Cả mẹ lẫn cả cha, |
Ahuvā te sagāmeyyo, ahuvā te pure sakhā. |
Đối với Phật Ca-diếp, Con đệ tử tại gia. |
‘‘Sohamete pajānāmi, vimutte satta bhikkhavo; |
Con viễn ly dâm dục, Phạm hạnh, không thế vật, |
Rāgadosaparikkhīṇe, tiṇṇe loke visattika’’nti. |
Thuở xưa, con đồng hương, Cũng là bạn của họ |
|
Do vậy con biết họ, Bảy Tỷ-kheo giải thoát, |
|
Đoạn tận tham và sân, Vượt qua đời phiền trược. |
|
8) (Thế Tôn): |
‘‘Evametaṃ tadā āsi, yathā bhāsasi bhaggava; |
Vậy này Bhaggava, Chính như Ông vừa nói, |
Kumbhakāro pure āsi, vekaḷiṅge ghaṭīkaro. |
Thuở xưa, Ông thợ gốm, Tại Vehalinga, |
‘‘Mātāpettibharo āsi, kassapassa upāsako; |
Và Ông được tên gọi, Là Ghatìkara, |
Virato methunā dhammā, brahmacārī nirāmiso; |
Chính Ông lo nuôi dưỡng Cả mẹ lẫn cả cha, |
Ahuvā me sagāmeyyo, ahuvā me pure sakhā’’ti. |
Đối với Phật Ca-diếp, Ông đệ tử tại gia, |
‘‘Evametaṃ purāṇānaṃ, sahāyānaṃ ahu saṅgamo; |
Ông viễn ly dâm dục, Phạm hạnh, không thế vật. |
Ubhinnaṃ bhāvitattānaṃ, sarīrantimadhārina’’nti. |
9) Thuở xưa, Ông đồng hương, Cũng là bạn của Ta. |
|
Như vậy là hội ngộ, Giữa những bạn thuở xưa, |
|
Cả hai khéo tu tập, Mang thân này tối hậu. |
5. Jantusuttaṃ |
V. Jantu ( S.i,61) |
106. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ sambahulā bhikkhū, kosalesu viharanti himavantapasse araññakuṭikāya uddhatā unnaḷā capalā mukharā vikiṇṇavācā muṭṭhassatino asampajānā asamāhitā vibbhantacittā pākatindriyā. |
1) Như vầy tôi nghe. Một thời một số đông Tỷ-kheo trú ở Kosala (Câu-tát-la), trên sườn núi Himavanta (Tuyết sơn), tại một cốc nhỏ trong rừng. Họ tự cao, tự mãn, dao động, lắm mồm lắm miệng, ăn nói huyên thuyên, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tư tán loạn, các căn không chế ngự. |
Atha kho jantu devaputto tadahuposathe pannarase yena te bhikkhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā te bhikkhū gāthāhi ajjhabhāsi – |
2) Rồi Thiên tử Jantu, vào đêm Bố-tát, ngày rằm, đi đến các Tỷ-kheo ấy, sau khi đến nói lên bài kệ với các Tỷ-kheo ấy: |
‘‘Sukhajīvino pure āsuṃ, bhikkhū gotamasāvakā; |
Các Tỷ-kheo thuở xưa, Sống thật chơn an lạc, |
Anicchā piṇḍamesanā [piṇḍamesānā (?)], anicchā sayanāsanaṃ; |
Họ thật là đệ tử, Bậc Đại Giác Cù-đàm. |
Loke aniccataṃ ñatvā, dukkhassantaṃ akaṃsu te. |
Không ham tìm món ăn, Không ham tìm chỗ trú, |
‘‘Dupposaṃ katvā attānaṃ, gāme gāmaṇikā viya; |
Biết đời là vô thường, Họ chấm dứt khổ đau. |
Bhutvā bhutvā nipajjanti, parāgāresu mucchitā. |
Nay tự làm ác hạnh, Như thôn trưởng trong làng. |
‘‘Saṅghassa añjaliṃ katvā, idhekacce vadāmahaṃ [vandāmahaṃ (ka.)]; |
Họ ăn, ăn ngả gục, Thèm khát vật nhà người. |
Apaviddhā anāthā te, yathā petā tatheva te [tatheva ca (sī.)]. |
Con vái chào chúng Tăng, Đảnh lễ một vài vị |
‘‘Ye kho pamattā viharanti, te me sandhāya bhāsitaṃ; |
Kẻ khác, sống vất vưởng, Không chỉ đạo, hướng dẫn. |
Ye appamattā viharanti, namo tesaṃ karomaha’’nti. |
Họ giống như thân thể Kẻ chết bị quăng bỏ. |
|
Những ai sống phóng dật, Vì họ con nói lên, |
|
Những ai không phóng dật, Chân thành, con đảnh lễ. |
6. Rohitassasuttaṃ |
VI. Rohita (S.i,61) |
107. Sāvatthinidānaṃ. Ekamantaṃ ṭhito kho rohitasso devaputto bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘yattha nu kho, bhante, na jāyati na jīyati na mīyati [na jiyyati na miyyati (syā. kaṃ. ka.)] na cavati na upapajjati, sakkā nu kho so, bhante, gamanena lokassa anto ñātuṃ vā daṭṭhuṃ vā pāpuṇituṃ vā’’ti? ‘‘Yattha kho, āvuso, na jāyati na jīyati na mīyati na cavati na upapajjati, nāhaṃ taṃ gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ daṭṭheyyaṃ patteyyanti vadāmī’’ti. |
1) Tại Sàvatthi (Xá-vệ). 2) Đứng một bên, Thiên tử Rohitassa bạch Thế Tôn: — Bạch Thế Tôn, tại chỗ nào không có sanh, không có già, không có chết, không có diệt, không có khởi, làm sao, bạch Thế Tôn, với bộ hành, có thể biết được, hay thấy được, hay đạt được sự tận cùng của thế giới? 3) — Này Hiền giả, tại chỗ nào không có sanh, không có già, không có chết, không có diệt, không có khởi, Ta nói rằng (tại chỗ ấy), không có thể với bộ hành, biết được, hay thấy được, hay đạt được sự tận cùng của thế giới. |
‘‘Acchariyaṃ, bhante, abbhutaṃ, bhante! Yāvasubhāsitamidaṃ, bhante, bhagavatā – ‘yattha kho, āvuso, na jāyati na jīyati na mīyati na cavati na upapajjati, nāhaṃ taṃ gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ daṭṭheyyaṃ patteyyanti vadāmī’ti. |
4) — Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói lên điều khéo nói như vầy: “Này Hiền giả, tại chỗ nào không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, Ta nói rằng tại chỗ ấy, không có thể với bộ hành biết được, hay thấy được, hay đạt được sự tận cùng của thế giới”. |
‘‘Bhūtapubbāhaṃ, bhante, rohitasso nāma isi ahosiṃ bhojaputto iddhimā vehāsaṅgamo. Tassa mayhaṃ, bhante, evarūpo javo ahosi; seyyathāpi nāma daḷhadhammā [daḷhadhammo (sabbattha) ṭīkā ca moggallānabyākaraṇaṃ ca oloketabbaṃ] dhanuggaho susikkhito katahattho katayoggo katūpāsano lahukena asanena appakasireneva tiriyaṃ tālacchāyaṃ atipāteyya. Tassa mayhaṃ, bhante, evarūpo padavītihāro ahosi; seyyathāpi nāma puratthimā samuddā pacchimo samuddo. Tassa mayhaṃ, bhante, evarūpaṃ icchāgataṃ uppajji – ‘ahaṃ gamanena lokassa antaṃ pāpuṇissāmī’ti. So khvāhaṃ, bhante, evarūpena javena samannāgato evarūpena ca padavītihārena aññatreva asita-pīta-khāyita-sāyitā aññatra uccāra-passāvakammā aññatra niddākilamathapaṭivinodanā vassasatāyuko vassasatajīvī vassasataṃ gantvā appatvāva lokassa antaṃ antarāva kālaṅkato. |
5) Bạch Thế Tôn, thuở trước, con tên là Rohita con của Bhoja, có thần thông, có thể đi giữa hư không. Bạch Thế Tôn, tốc lực con mau lẹ cho đến con có thể bay, như người thợ bắn cung lão luyện, khéo tập, khéo luyện, thuần thục, thiện xảo, với một cây cung chắc mạnh không gì khó khăn, có thể bắn một mũi tên nhẹ bay vượt qua bóng tối của cây tala. 6) Và bạch Thế Tôn, bước đi của con dài cho đến con có thể bước từ biển phía Đông qua biển phía Tây. Và ở nơi con, bạch Thế Tôn, khởi lên sự ước muốn như sau: “Với bộ hành, ta có thể đạt đến được sự tận cùng của thế giới”. 7) Và bạch Thế Tôn, dầu cho tốc lực của con mau đến như vậy, và dầu cho con có bước dài đến như vậy, và dầu cho con không có dừng để ăn, hay uống, hay nhai, hay nếm, dầu cho con không có đại tiện, tiểu tiện, dầu cho con không ngủ, không bị mệt nhọc, không trừ cấu uế, dầu cho trăm năm là tuổi thọ thường tình, dầu cho trăm năm là mạng sống thường tình, tuy con đi hơn trăm năm và bị mệnh chung, con cũng không thể đạt đến sự tận cùng của thế giới. |
‘‘Acchariyaṃ, bhante, abbhutaṃ, bhante! Yāvasubhāsitamidaṃ, bhante, bhagavatā – ‘yattha kho, āvuso, na jāyati na jīyati na mīyati na cavati na upapajjati, nāhaṃ taṃ gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ daṭṭheyyaṃ patteyyanti vadāmī’’’ti. |
8) Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói lên điều khéo nói như vầy: “Này Hiền giả, tại chỗ nào không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi. Ta nói rằng tại chỗ ấy, không có thể bộ hành, biết được hay thấy được sự tận cùng của thế giới. Ta nói như vậy”. |
‘‘Na kho panāhaṃ, āvuso, appatvā lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmi. Api ca khvāhaṃ, āvuso, imasmiṃyeva byāmamatte kaḷevare sasaññimhi samanake lokañca paññapemi lokasamudayañca lokanirodhañca lokanirodhagāminiñca paṭipadanti. |
9) — Này Hiền giả, nhưng Ta cũng không nói rằng không đạt được sự tận cùng của thế giới thời chấm dứt cuộc khổ đau. Này Hiền giả, chính trong cái thân thể dài một tầm có tưởng, có ý này, Ta tuyên bố thế giới, nguyên nhân của thế giới, sự đoạn diệt thế giới và con đường đưa đến sự đoạn diệt của thế giới. |
‘‘Gamanena na pattabbo, lokassanto kudācanaṃ; |
10) Bộ hành không bao giờ Đạt được thế giới tận, |
Na ca appatvā lokantaṃ, dukkhā atthi pamocanaṃ. |
Không đạt thế giới tận, Không thể thoát khỏi khổ. |
‘‘Tasmā have lokavidū sumedho, |
Do vậy, bậc Hiền thiện, Thế gian giải, Thiện tuệ, |
Lokantagū vusitabrahmacariyo; |
Đạt đến thế giới tận, Phạm hạnh được viên thành. |
Lokassa antaṃ samitāvi ñatvā, |
Với tâm tư định tĩnh, Biết được thế giới tận, |
Nāsīsati lokamimaṃ parañcā’’ti. |
Không ước vọng đời này, Không ước vọng đời sau. |
7. Nandasuttaṃ |
VI. Nanda: (S.i,62) (Xem trước I, 1*4). |
108. Ekamantaṃ ṭhito kho nando devaputto bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi – |
1) Đứng một bên, Thiên tử Nanda nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn: |
‘‘Accenti kālā tarayanti rattiyo, |
Thời gian lặng trôi qua, Đêm ngày luôn di động, |
Vayoguṇā anupubbaṃ jahanti; |
Tuổi tác buổi thanh xuân, Tiếp tục bỏ chúng ta. |
Etaṃ bhayaṃ maraṇe pekkhamāno, |
Những ai chịu quán sát, Sợ hãi tử vong này, |
Puññāni kayirātha sukhāvahānī’’ti. |
Hãy làm các công đức, Được hưởng cảnh an lạc. |
|
2) (Thế Tôn): |
‘‘Accenti kālā tarayanti rattiyo, |
Thời gian lặng trôi qua, Đêm ngày luôn di động, |
Vayoguṇā anupubbaṃ jahanti; |
Tuổi tác buổi thanh xuân, Tiếp tục bỏ chúng ta. |
Etaṃ bhayaṃ maraṇe pekkhamāno, |
Những ai chịu quán sát, Sợ hãi tử vong này, |
Lokāmisaṃ pajahe santipekkho’’ti. |
Hãy bỏ mọi thế lợi, Được hưởng chơn tịch tịnh. |
8. Nandivisālasuttaṃ |
VII. Nandivisàla: (S.i,63) |
109. Ekamantaṃ ṭhito kho nandivisālo devaputto bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – |
1) Đứng một bên, Thiên tử Nandivisàla nói lên bài kệ với Thế Tôn: |
‘‘Catucakkaṃ navadvāraṃ, puṇṇaṃ lobhena saṃyutaṃ; |
Bốn bánh xe chín cửa, Đầy uế, hệ lụy tham, |
Paṅkajātaṃ mahāvīra, kathaṃ yātrā bhavissatī’’ti. |
Chìm đắm trong bùn nhơ, Ôi! Thưa bậc Đại Hùng, |
|
Sanh thú Ngài như vậy, Tương lai sẽ thế nào? |
|
2) (Thế Tôn): |
‘‘Chetvā naddhiṃ varattañca, icchālobhañca pāpakaṃ; |
Cắt hỷ và buộc ràng, Dục tham và tà ác, |
Samūlaṃ taṇhamabbuyha, evaṃ yātrā bhavissatī’’ti. |
Ái căn được đoạn tận, Sanh thú sẽ như vậy. |
9. Susimasuttaṃ |
IX. Susima (S.i,63) |
110. Sāvatthinidānaṃ . Atha kho āyasmā ānando yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho āyasmantaṃ ānandaṃ bhagavā etadavoca – ‘‘tuyhampi no, ānanda, sāriputto ruccatī’’ti? |
1) Nhân duyên ở Sàvatthi. 2) Rồi Đại đức Ananda đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Đại đức Ananda đang ngồi một bên: — Này Ananda, Ông có hoan hỷ đối với Sàriputta không? |
‘‘Kassa hi nāma, bhante, abālassa aduṭṭhassa amūḷhassa avipallatthacittassa āyasmā sāriputto na rucceyya? Paṇḍito, bhante, āyasmā sāriputto . Mahāpañño, bhante, āyasmā sāriputto. Puthupañño, bhante, āyasmā sāriputto. Hāsapañño [hāsupañño (sī.)], bhante, āyasmā sāriputto. Javanapañño, bhante, āyasmā sāriputto. Tikkhapañño, bhante, āyasmā sāriputto. Nibbedhikapañño, bhante, āyasmā sāriputto. Appiccho, bhante, āyasmā sāriputto. Santuṭṭho, bhante, āyasmā sāriputto. Pavivitto, bhante, āyasmā sāriputto. Asaṃsaṭṭho, bhante, āyasmā sāriputto. Āraddhavīriyo, bhante, āyasmā sāriputto. Vattā, bhante, āyasmā sāriputto. Vacanakkhamo, bhante, āyasmā sāriputto. Codako, bhante, āyasmā sāriputto. Pāpagarahī, bhante, āyasmā sāriputto. Kassa hi nāma, bhante, abālassa aduṭṭhassa amūḷhassa avipallatthacittassa āyasmā sāriputto na rucceyyā’’ti? |
3) — Bạch Thế Tôn, ai là người không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm lại có thể không hoan hỷ đối với Tôn giả Sàriputta? Bạch Thế Tôn, hiền trí là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, đại tuệ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, quảng tuệ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, hỷ tuệ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, tiệp tuệ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, lợi tuệ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, quyết trạch tuệ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, ít dục là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, biết đủ là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, viễn ly là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, bất cộng trú là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, tinh cần, tinh tấn là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, biện tài là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, nghe lời trung ngôn là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, cáo tội trung thực là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, chỉ trích ác pháp là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, ai là người không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm lại có thể không hoan hỷ đối với Tôn giả Sàriputta! |
‘‘Evametaṃ , ānanda, evametaṃ, ānanda! Kassa hi nāma, ānanda, abālassa aduṭṭhassa amūḷhassa avipallatthacittassa sāriputto na rucceyya? Paṇḍito, ānanda, sāriputto. Mahāpañño, ānanda, sāriputto. Puthupañño, ānanda, sāriputto. Hāsapañño, ānanda, sāriputto. Javanapañño, ānanda, sāriputto. Tikkhapañño, ānanda, sāriputto. Nibbedhikapañño, ānanda, sāriputto. Appiccho, ānanda, sāriputto. Santuṭṭho, ānanda, sāriputto. Pavivitto, ānanda, sāriputto. Asaṃsaṭṭho, ānanda, sāriputto. Āraddhavīriyo, ānanda, sāriputto. Vattā, ānanda, sāriputto. Vacanakkhamo, ānanda, sāriputto . Codako, ānanda, sāriputto. Pāpagarahī, ānanda, sāriputto. Kassa hi nāma, ānanda, abālassa aduṭṭhassa amūḷhassa avipallatthacittassa sāriputto na rucceyyā’’ti? |
4) — Như vậy là phải, này Ananda. Như vậy là phải, này Ananda. Này Ananda, ai là người không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm lại có thể không hoan hỷ đối với Sàriputta? Này Ananda, hiền trí là Sàriputta. Này Ananda, đại tuệ là Sàriputta. Này Ananda, quảng tuệ là Sàriputta. Này Ananda, hỷ tuệ là Sàriputta. Này Ananda, tiệp tuệ là Sàriputta. Này Ananda, lợi tuệ là Sàriputta. Này Ananda, quyết trạch tuệ là Sàriputta. Này Ananda, ít dục là Sàriputta. Này Ananda, biết đủ là Sàriputta. Này Ananda, viễn ly là Sàriputta. Này Ananda, bất cọng trú là Sàriputta. Này Ananda, biện tài là Sàriputta. Này Ananda, nghe lời trung ngôn là Sariputta. Này Ananda, cáo tội trung thực là Sàriputta. Này Ananda, chỉ trích ác pháp là Sàriputta. Này Ananda, ai là người không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm, lại có thể không hoan hỷ đối với Sàriputta? |
Atha kho susimo [susīmo (sī.)] devaputto āyasmato sāriputtassa vaṇṇe bhaññamāne mahatiyā devaputtaparisāya parivuto yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho susimo devaputto bhagavantaṃ etadavoca – |
5) Rồi Thiên tử Susima, trong khi được nghe lời tán thán về Tôn giả Sàriputta, với đại chúng Thiên tử đoanh vây, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. 6) Đứng một bên, Thiên tử Susima bạch Thế Tôn: |
‘‘Evametaṃ , bhagavā, evametaṃ, sugata. Kassa hi nāma, bhante, abālassa aduṭṭhassa amūḷhassa avipallatthacittassa āyasmā sāriputto na rucceyya? Paṇḍito, bhante, āyasmā sāriputto. Mahāpañño, bhante, puthupañño, bhante, hāsapañño, bhante, javanapañño, bhante, tikkhapañño, bhante, nibbedhikapañño, bhante, appiccho, bhante, santuṭṭho, bhante, pavivitto, bhante, asaṃsaṭṭho, bhante, āraddhavīriyo, bhante, vattā, bhante, vacanakkhamo, bhante, codako, bhante, pāpagarahī, bhante, āyasmā sāriputto. Kassa hi nāma, bhante, abālassa aduṭṭhassa amūḷhassa avipallatthacittassa āyasmā sāriputto na rucceyya? |
— Như vậy là phải, bạch Thế Tôn. Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ. Bạch Thế Tôn, ai là người không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm lại có thể không hoan hỷ đối với Tôn giả Sàriputta?. Bạch Thế Tôn, hiền trí là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, đại tuệ là Tôn giả Sàriputta…… Bạch Thế Tôn, chỉ trích ác pháp là Tôn giả Sàriputta. Bạch Thế Tôn, ai là người không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm lại có thể không hoan hỷ đối với Tôn giả Sàriputta? |
‘‘Ahampi hi, bhante, yaññadeva devaputtaparisaṃ upasaṅkamiṃ, etadeva bahulaṃ saddaṃ suṇāmi – ‘paṇḍito āyasmā sāriputto; mahāpañño āyasmā, puthupañño āyasmā, hāsapañño āyasmā, javanapañño āyasmā, tikkhapañño āyasmā, nibbedhikapañño āyasmā, appiccho āyasmā, santuṭṭho āyasmā, pavivitto āyasmā, asaṃsaṭṭho āyasmā, āraddhavīriyo āyasmā, vattā āyasmā, vacanakkhamo āyasmā, codako āyasmā, pāpagarahī āyasmā sāriputto’ti . Kassa hi nāma, bhante, abālassa aduṭṭhassa amūḷhassa avipallatthacittassa āyasmā sāriputto na rucceyyā’’ti? |
Bạch Thế Tôn, con đi đến chúng Thiên tử nào, con đều được nghe nhiều lần tiếng nói như vậy: “Hiền trí là Tôn giả Sàriputta… … chỉ trích ác pháp là Tôn giả Sàriputta. Ai không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm lại có thể không hoan hỷ đối với Tôn giả Sàriputta?” |
Atha kho susimassa devaputtassa devaputtaparisā āyasmato sāriputtassa vaṇṇe bhaññamāne attamanā pamuditā pītisomanassajātā uccāvacā vaṇṇanibhā upadaṃseti. |
7) Rồi chúng Thiên tử của Thiên tử Susima, trong khi những lời tán thán Tôn giả Sàriputta được lớn tiếng nói lên, họ hoan hỷ, hỷ duyệt, hân hoan và thân chói sáng màu sắc thù thắng. |
‘‘Seyyathāpi nāma maṇi veḷuriyo subho jātimā aṭṭhaṃso suparikammakato paṇḍukambale nikkhitto bhāsate ca tapate ca virocati ca; evamevaṃ susimassa devaputtassa devaputtaparisā āyasmato sāriputtassa vaṇṇe bhaññamāne attamanā pamuditā pītisomanassajātā uccāvacā vaṇṇanibhā upadaṃseti. |
8) Ví như một hòn lưu ly bảo châu, đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo giũa, khéo mài, được đặt trên một tấm màn màu vàng da cam, chói sáng, chiếu sáng và bừng sáng. Cũng vậy, chúng Thiên tử của Thiên tử Susima, trong khi những lời tán thán Tôn giả Sàriputta được lớn tiếng nói lên, họ hoan hỷ, hỷ duyệt, hân hoan và thân chói sáng màu sắc thù thắng. |
‘‘Seyyathāpi nāma nikkhaṃ jambonadaṃ dakkhakammāraputtaukkāmukhasukusalasampahaṭṭhaṃ paṇḍukambale nikkhittaṃ bhāsate ca tapate ca virocati ca; evamevaṃ susimassa devaputtassa devaputtaparisā āyasmato sāriputtassa vaṇṇe bhaññamāne attamanā pamuditā pītisomanassajātā uccāvacā vaṇṇanibhā upadaṃseti. |
9) Ví như một đồ trang sức bằng vàng mịn được một người thợ vàng thiện xảo, khéo đập, khéo mài, đặt trên một tấm màn màu vàng da cam, chói sáng, chiếu sáng và bừng sáng. Cũng vậy, Thiên tử chúng của Thiên tử Susima… … và thân chói sáng màu sắc thù thắng. |
‘‘Seyyathāpi nāma saradasamaye viddhe vigatavalāhake deve rattiyā paccūsasamayaṃ osadhitārakā bhāsate ca tapate ca virocati ca; evamevaṃ susimassa devaputtassa devaputtaparisā āyasmato sāriputtassa vaṇṇe bhaññamāne attamanā pamuditā pītisomanassajātā uccāvacā vaṇṇanibhā upadaṃseti. |
10) Ví như trong khi đêm đã gần sáng, sao mai chói sáng, chiếu sáng và bừng sáng. Cũng vậy, chúng Thiên tử của Thiên tử Susima… … và thân chói sáng màu sắc thù thắng. |
‘‘Seyyathāpi nāma saradasamaye viddhe vigatavalāhake deve ādicco nabhaṃ abbhussakkamāno [abbhussukkamāno (sī. syā. kaṃ. pī.), abbhuggamamāno (dī. ni. 2.258)] sabbaṃ ākāsagataṃ tamagataṃ abhivihacca bhāsate ca tapate ca virocati ca; evamevaṃ susimassa devaputtassa devaputtaparisā āyasmato sāriputtassa vaṇṇe bhaññamāne attamanā pamuditā pītisomanassajātā uccāvacā vaṇṇanibhā upadaṃseti. |
11) Ví như trong mùa thu, trên trời các vòng mây đã được bay sạch, mặt trời mọc lên giữa trời, đánh tan màn đêm, khắp giữa hư không chói sáng, chiếu sáng và bừng sáng. Cũng vậy, chúng Thiên tử của Thiên tử Susima, trong khi những lời tán thán Tôn giả Sàriputta được lớn tiếng nói lên, họ hoan hỷ, hỷ duyệt, hân hoan và thân chói sáng màu sắc thù thắng. |
Atha kho susimo devaputto āyasmantaṃ sāriputtaṃ ārabbha bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi – |
12) Rồi Thiên tử Susima, nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về Sàriputta: |
‘‘Paṇḍitoti samaññāto, sāriputto akodhano; |
Ngài Sàriputta, Được mọi người xác nhận, |
Appiccho sorato danto, satthuvaṇṇābhato isī’’ti. |
Là bậc Đại hiền trí, Không phẫn hận, ít dục, |
|
Nhu thuận và điều phục, Được Đạo Sư tán thán. |
Atha kho bhagavā āyasmantaṃ sāriputtaṃ ārabbha susimaṃ devaputtaṃ gāthāya paccabhāsi – |
13) Rồi Thế Tôn nói lên bài kệ về Sàriputta cho Thiên tử Susima: |
‘‘Paṇḍitoti samaññāto, sāriputto akodhano; |
Về Sàriputta, Mọi người đều xác nhận, Là bậc Đại hiền trí, Không phẫn hận, ít dục, |
Appiccho sorato danto, kālaṃ kaṅkhati sudanto’’ [kālaṃ kaṅkhati bhatako sudanto (sī.), kālaṃ kaṅkhati bhāvito sudanto (syā. kaṃ.), kālaṃ kaṅkhati bhatiko sudanto (pī.)] ti. |
Nhu thuận và điều phục, Như người khéo điều phục, Chờ đợi thời giờ đến, Để hưởng quả thuần thục. |
10. Nānātitthiyasāvakasuttaṃ |
X. Các Ngoại Đạo Sư (S.i,65) |
111. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Atha kho sambahulā nānātitthiyasāvakā devaputtā asamo ca sahali [sahalī (sī. syā. kaṃ. pī.)] ca nīko [niṅko (sī. pī.), niko (syā. kaṃ.)] ca ākoṭako ca vegabbhari ca [veṭambarī ca (sī. syā. kaṃ. pī.)] māṇavagāmiyo ca abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ veḷuvanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Ekamantaṃ ṭhito kho asamo devaputto pūraṇaṃ kassapaṃ ārabbha bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi – |
1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở thành Vương Xá, tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. 2) Rồi rất đông Thiên tử, là đệ tử của nhiều ngoại đạo sư Asama, Sahalì, Ninka, Akotaka, Vetambarì và Mànavà Gàmiya, khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. 3) Đứng một bên, Thiên tử Asama nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về Pùrana Kassapa: |
‘‘Idha chinditamārite, hatajānīsu kassapo; |
Ở đây nếu có người, Chém giết hay hại người, |
Na pāpaṃ samanupassati, puññaṃ vā pana attano; |
Kassapa không thấy, Qua các hành động ấy, |
Sa ve vissāsamācikkhi, satthā arahati mānana’’nti. |
Là ác nghiệp cho mình, Hay công đức cho mình. |
|
Ngài tuyên bố như vậy, Làm căn bản đức tin, |
|
Ngài thật bậc Đạo sư, Đáng được tôn kính, lễ. |
Atha kho sahali devaputto makkhaliṃ gosālaṃ ārabbha bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi – |
4) Rồi Thiên tử Sahali nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về Makkhali Gosàla: |
‘‘Tapojigucchāya susaṃvutatto, |
Khổ hạnh và yếm ly, Khéo điều phục, tự chế, |
Vācaṃ pahāya kalahaṃ janena; |
Từ bỏ các lời nói, Gây đấu tranh với người, |
Samosavajjā virato saccavādī, |
Thăng bằng, tránh phạm tội, Nói những lời thực ngữ, |
Na hi nūna tādisaṃ karoti [na ha nuna tādī pakaroti (sī. syā. kaṃ.)] pāpa’’nti. |
Ngài không bao giờ làm, Các tội phạm như vậy. |
Atha kho nīko devaputto nigaṇṭhaṃ nāṭaputtaṃ [nāthaputtaṃ (sī.)] ārabbha bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi – |
5) Rồi Thiên tử Ninka nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về Nigantha Nàtaputta: |
‘‘Jegucchī nipako bhikkhu, cātuyāmasusaṃvuto; |
Vị Tỷ-kheo yếm ly,Sáng suốt theo tế hạnh, Khéo theo bốn tự chế, |
Diṭṭhaṃ sutañca ācikkhaṃ, na hi nūna kibbisī siyā’’ti. |
Chỉ nói điều nghe thấy, Không phạm điều lỗi lầm. |
Atha kho ākoṭako devaputto nānātitthiye ārabbha bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi – |
6) Rồi Thiên tử Akotaka nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về các ngoại đạo sư: |
‘‘Pakudhako kātiyāno nigaṇṭho, |
Các ngoại đạo sư này, Như Pakudhaka, |
Ye cāpime makkhalipūraṇāse; |
Và Kàtiyàna, Cùng với Nigantha, |
Gaṇassa satthāro sāmaññappattā, |
Kể cả Makkhali, Và cả Puurana, |
Na hi nūna te sappurisehi dūre’’ti. |
Mỗi vị là Đạo sư, Chúng đệ tử của mình, |
|
Đã đạt Sa-môn quả, Không xa bậc Chân nhân. |
Atha kho vegabbhari devaputto ākoṭakaṃ devaputtaṃ gāthāya paccabhāsi – |
7) Rồi Thiên tử Vetambarì nói lên bài kệ này với Thiên tử Akotaka: |
‘‘Sahācaritena [sahāravenāpi (ka. sī.), sagāravenāpi (pī.)] chavo sigālo [siṅgālo (ka.)], |
Con giả can ghê tởm, Có tru sủa thế nào, |
Na kotthuko sīhasamo kadāci; |
Làm sao sánh bằng được, Tiếng rống con sư tử. |
Naggo musāvādī gaṇassa satthā, |
Lõa thể, nói vọng ngôn, Lãnh đạo môn đồ chúng, |
Saṅkassarācāro na sataṃ sarikkho’’ti. |
Làm các hạnh tà vạy, Làm sao sanh thiện nhân? |
Atha kho māro pāpimā begabbhariṃ devaputtaṃ anvāvisitvā bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi – |
8) Rồi Ác ma nhập vào Thiên tử Vetambarì nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn: |
‘‘Tapojigucchāya āyuttā, pālayaṃ pavivekiyaṃ; |
Tu khổ hạnh yếm ly, Sống viễn ly hành xác, |
Rūpe ca ye niviṭṭhāse, devalokābhinandino; |
Đắm say trong sắc pháp, Hoan lạc, mê Thiên giới. |
Te ve sammānusāsanti, paralokāya mātiyā’’ti. |
Dầu họ bị tử vong, Chắc chắn họ giảng dạy, |
|
Hướng dẫn thật chơn chánh, Đưa đến đời về sau. |
Atha kho bhagavā, ‘māro ayaṃ pāpimā’ iti viditvā, māraṃ pāpimantaṃ gāthāya paccabhāsi – |
9) Rồi Thế Tôn biết được chính là Ác ma, liền nói lên bài kệ cho Ác ma: |
‘‘Ye keci rūpā idha vā huraṃ vā, |
Phàm những sắc pháp gì, Đời này hay đời sau, |
Ye cantalikkhasmiṃ pabhāsavaṇṇā; |
Với màu sắc thù diệu, Chói sáng giữa hư không, |
Sabbeva te te namucippasatthā, |
Tất cả những sắc ấy, Được Ma vương tán thán, |
Āmisaṃva macchānaṃ vadhāya khittā’’ti. |
Chúng chỉ là bẫy mồi, Quăng ra để diệt cá. |
Atha kho māṇavagāmiyo devaputto bhagavantaṃ ārabbha bhagavato santike imā gāthāyo abhāsi – |
10) Rồi Thiên tử Mànava Gàmiya nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về Thế Tôn: |
‘‘Vipulo rājagahīyānaṃ, giriseṭṭho pavuccati; |
Trong tất cả ngọn núi, Ở tại Vương Xá thành, |
Seto himavataṃ seṭṭho, ādicco aghagāminaṃ. |
Ngọn núi Vipula, Được gọi là tối thắng. |
‘‘Samuddo udadhinaṃ seṭṭho, nakkhattānañca candimā [nakkhattānaṃva candimā (ka.)]; |
Trong dãy núi Tuyết Sơn, Ngọn Bạch Sơn tối thắng. |
Sadevakassa lokassa, buddho aggo pavuccatī’’ti. |
Giữa các loại không hành, Mặt trời là tối thắng. |
|
Giữa các loại thủy lộ, Đại dương là tối thắng. |
|
Trong các loài tinh tú, Mặt trăng là tối thắng. |
|
Giữa Thiên giới, địa giới, Phật được gọi tối thượng. |
Nānātitthiyavaggo tatiyo. |
|
Tassuddānaṃ – |
|
Sivo khemo ca serī ca, ghaṭī jantu ca rohito; |
|
Nando nandivisālo ca, susimo nānātitthiyena te dasāti. |
|
Devaputtasaṃyuttaṃ samattaṃ. |
|