3. Tatiyavaggo

III. Phẩm thứ ba (hay sakka năm kinh)

Tipitaka.org Việt dịch: HT. Thích Minh Châu
1. Chetvāsuttaṃ I. Sát Hại Gì? (S.i,237)
267. Sāvatthiyaṃ jetavane. Atha kho sakko devānamindo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho sakko devānamindo bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – 1) Tại Sàvatthi, Jetavana. 2) Rồi Thiên chủ Sakka đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. 3) Đứng một bên, Thiên chủ Sakka nói lên bài kệ với Thế Tôn:
‘‘Kiṃsu chetvā sukhaṃ seti, kiṃsu chetvā na socati; Sát vật gì, được lạc? Sát vật gì, không sầu?
Kissassu ekadhammassa, vadhaṃ rocesi gotamā’’ti. Có một loại pháp gì, Ngài tán đồng sát hại, Tôn giả Gotama? 
  4) (Thế Tôn):
‘‘Kodhaṃ chetvā sukhaṃ seti, kodhaṃ chetvā na socati; Sát phẫn nộ được lạc, Sát phẫn nộ không sầu.
Kodhassa visamūlassa, madhuraggassa vāsava; Phẫn nộ với độc căn, Với vị ngọt tối thượng,
Vadhaṃ ariyā pasaṃsanti, tañhi chetvā na socatī’’ti. Pháp ấy, bậc Hiền thánh Tán đồng sự sát hại.
  Sát pháp ấy, không sầu, Hỡi này Vàsava!
2. Dubbaṇṇiyasuttaṃ II. Xấu Xí (S.i,237)
268. Sāvatthiyaṃ jetavane. Tatra kho…pe… etadavoca – ‘‘bhūtapubbaṃ, bhikkhave, aññataro yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinno ahosi. Tatra sudaṃ, bhikkhave, devā tāvatiṃsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti – ‘acchariyaṃ vata bho, abbhutaṃ vata, bho! Ayaṃ yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinno’’’ti! Yathā yathā kho, bhikkhave, devā tāvatiṃsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti, tathā tathā so yakkho abhirūpataro ceva hoti dassanīyataro ca pāsādikataro ca. 1) Tại Sàvatthi, Jetavana. 2) Tại đây… Thế Tôn nói như sau: 3) — Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có một Dạ-xoa xấu xí, thấp lùn, bụng to (Okotimako), đến ngồi trên chỗ ngồi của Thiên chủ Sakka. 4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở Tam thập tam thiên bực tức, chán ghét, phẫn uất: “Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay! Tên Dạ-xoa xấu xí, thấp lùn, bụng to lại đến ngồi trên chỗ ngồi của Thiên chủ Sakka!”. 5) Này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở Tam thập tam thiên càng bực tức, chán ghét, phẫn uất bao nhiêu, thời Dạ-xoa ấy càng đẹp hơn, càng dễ nhìn, càng dễ thương bấy nhiêu.
‘‘Atha kho, bhikkhave, devā tāvatiṃsā yena sakko devānamindo tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā sakkaṃ devānamindaṃ etadavocuṃ – ‘idha te, mārisa, aññataro yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinno. Tatra sudaṃ, mārisa, devā tāvatiṃsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti – acchariyaṃ vata, bho, abbhutaṃ vata, bho! Ayaṃ yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinnoti. Yathā yathā kho, mārisa, devā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti, tathā tathā so yakkho abhirūpataro ceva hoti dassanīyataro ca pāsādikataro cāti. So hi nūna, mārisa, kodhabhakkho yakkho bhavissatī’’’ti. 6) Rồi này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở Tam thập tam thiên đi đến Thiên chủ Sakka; sau khi đến, nói với Thiên chủ Sakka: 7) “– Ở đây, này Tôn giả, có một Dạ-xoa xấu xí, thấp lùn, bụng to đến ngồi trên chỗ ngồi của Ngài. Ở đây, này Tôn giả, chư Thiên ở Tam thập tam thiên, bực tức, chán ghét, phẫn uất: “Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay! Dạ-xoa này xấu xí, thấp lùn, bụng to lại đến ngồi trên chỗ ngồi của Thiên chủ Sakka!”. Nhưng này Tôn giả, chư Thiên ở Tam thập tam thiên càng bực tức, chán ghét, phẫn uất bao nhiêu, thời Dạ-xoa xấu xí, thấp lùn, bụng to ấy càng tốt đẹp, càng dễ nhìn và càng dễ thương bấy nhiêu. Thưa Tôn giả, có phải Dạ-xoa ấy sẽ trở thành Dạ-xoa nuôi dưỡng với phẫn nộ?”
‘‘Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo yena so kodhabhakkho yakkho tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā dakkhiṇajāṇumaṇḍalaṃ pathaviyaṃ nihantvā yena so kodhabhakkho yakkho tenañjaliṃ paṇāmetvā tikkhattuṃ nāmaṃ sāveti – ‘sakkohaṃ mārisa, devānamindo, sakkohaṃ, mārisa, devānamindo’ti. Yathā yathā kho, bhikkhave, sakko devānamindo nāmaṃ sāvesi, tathā tathā so yakkho dubbaṇṇataro ceva ahosi okoṭimakataro ca. Dubbaṇṇataro ceva hutvā okoṭimakataro ca tatthevantaradhāyī’’ti. Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo sake āsane nisīditvā deve tāvatiṃse anunayamāno tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi – 8) Rồi này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka đi đến Dạ-xoa nuôi dưỡng bằng phẫn nộ ấy; sau khi đến đắp thượng y vào một bên vai, đầu gối phải quỳ trên đất, chấp tay vái Dạ-xoa nuôi dưỡng với phẫn nộ và nói lên tên của mình ba lần: “Thưa Tôn giả, tôi là Thiên chủ Sakka! Thưa Tôn giả, tôi là Thiên chủ Sakka!”. 9) Này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka càng nói lên tên của mình bao nhiêu thời Dạ-xoa ấy càng trở thành xấu xí, thấp lùn, bụng to bấy nhiêu; và sau khi trở thành càng xấu xí, càng thấp lùn, bụng to hơn, vị ấy biến mất tại chỗ ấy. 10) Này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka, sau khi ngồi xuống trên chỗ ngồi của mình, làm cho hòa dịu chư Thiên ở Tam thập tam thiên, ngay lúc ấy, nói lên những bài kệ này:
‘‘Na sūpahatacittomhi, nāvattena suvānayo; Tâm ta không dễ dàng, Để cho bị thất trận, Không dễ bị lôi kéo, Trong xoáy nước dục tình.
Na vo cirāhaṃ kujjhāmi, kodho mayi nāvatiṭṭhati. Người biết đã từ lâu, Ta không còn phẫn nộ, Phẫn nộ không chân đứng Một chỗ nào trong ta.
‘‘Kuddhāhaṃ na pharusaṃ brūmi, na ca dhammāni kittaye; Ta không nói ác ngữ, Vì phẫn nộ giận hờn, Và không có khen tặng, Những đức tánh của ta.
Sanniggaṇhāmi attānaṃ, sampassaṃ atthamattano’’ti. Thấy được lợi ích mình, Ta tự thân chế ngự.  
3. Sambarimāyāsuttaṃ III. Huyễn Thuật (S.i,238)
269. Sāvatthiyaṃ…pe… bhagavā etadavoca – ‘‘bhūtapubbaṃ, bhikkhave, vepacitti asurindo ābādhiko ahosi dukkhito bāḷhagilāno. Atha kho bhikkhave, sakko devānamindo yena vepacitti asurindo tenupasaṅkami gilānapucchako. Addasā kho, bhikkhave, vepacitti asurindo sakkaṃ devānamindaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna sakkaṃ devānamindaṃ etadavoca – ‘tikiccha maṃ devānamindā’ti. ‘Vācehi maṃ, vepacitti, sambarimāya’nti. ‘Na tāvāhaṃ vācemi, yāvāhaṃ, mārisa, asure paṭipucchāmī’’’ti. ‘‘Atha kho, bhikkhave, vepacitti asurindo asure paṭipucchi – ‘vācemahaṃ, mārisā, sakkaṃ devānamindaṃ sambarimāya’nti? ‘Mā kho tvaṃ, mārisa, vācesi sakkaṃ devānamindaṃ sambarimāya’’’nti. Atha kho, bhikkhave, vepacitti asurindo sakkaṃ devānamindaṃ gāthāya ajjhabhāsi – 1) Tại Sàvatthi… 2) Thế Tôn nói như sau: 3) — Này các Tỷ-kheo, thuở xưa A-tu-la Vepacitti, vua các A-tu-la bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh. 4) Rồi này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka đi đến A-tu-la để hỏi thăm tình trạng bịnh hoạn. 5) Này các Tỷ-kheo, Vepacitti từ đàng xa trông thấy Thiên chủ Sakka đi đến, thấy vậy liền nói với Thiên chủ Sakka: “– Này Thiên chủ, hãy chữa bệnh cho tôi”. 6) “– Này Vepacitti, hãy nói tôi biết ảo thuật của Sambhara”. 7) “– Này Tôn giả, hãy chờ tôi hỏi ý kiến các A-tu-la.” 8) Rồi này các Tỷ-kheo, Vepacitti, vua các A-tu-la hỏi ý kiến các A-tu-la: ” — Chư Tôn giả, tôi có nên nói cho Thiên chủ Sakka, ảo thuật của Sambhara không?” 9) ” — Thưa Tôn giả, Ngài không nên nói cho Thiên chủ Sakka ảo thuật của Sambhara”. 10) Rồi này các Tỷ-kheo, Vepacitti, vua các A-tu-la nói lên bài kệ này với Thiên chủ Sakka:
‘‘Māyāvī maghavā sakka, devarāja sujampati; Ông thuộc dòng Magha, Là Sakka, Thiên chủ, Là chồng của Sujà, Ảo thuật dắt dẫn đến,
Upeti nirayaṃ ghoraṃ, sambarova sataṃ sama’’nti. Vực sâu của địa ngục, Tại đấy Sambhara, Đã sống một trăm năm. 
4. Accayasuttaṃ IV. Tội Lỗi (hay Không Phẫn Nộ) (S.i,239)
270. Sāvatthiyaṃ…pe… ārāme. Tena kho pana samayena dve bhikkhū sampayojesuṃ. Tatreko bhikkhu accasarā. Atha kho so bhikkhu tassa bhikkhuno santike accayaṃ accayato deseti; so bhikkhu nappaṭiggaṇhāti. Atha kho sambahulā bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘idha, bhante, dve bhikkhū sampayojesuṃ, tatreko bhikkhu accasarā . Atha kho so, bhante, bhikkhu tassa bhikkhuno santike accayaṃ accayato deseti, so bhikkhu nappaṭiggaṇhātī’’ti. 1) Tại Sàvatthi… tại vườn ông Cấp Cô Độc. 2) Lúc bấy giờ hai Tỷ-kheo cãi lộn nhau. Ở đây, một Tỷ-kheo phạm tội, Tỷ-kheo ấy phát lộ tội phạm là tội phạm trước mặt Tỷ-kheo kia. Tỷ-kheo ấy không chấp nhận. 3) Rồi Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn: 4) — Ở đây, bạch Thế Tôn, có hai Tỷ-kheo cãi lộn nhau. Một Tỷ-kheo phạm tội. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo ấy phát lộ tội phạm là tội phạm trước mặt Tỷ-kheo kia. Tỷ-kheo ấy không chấp nhận.
‘‘Dveme, bhikkhave, bālā. Yo ca accayaṃ accayato na passati, yo ca accayaṃ desentassa yathādhammaṃ nappaṭiggaṇhā’’ti – ime kho, bhikkhave, dve bālā. ‘‘Dveme, bhikkhave, paṇḍitā. Yo ca accayaṃ accayato passati, yo ca accayaṃ desentassa yathādhammaṃ paṭiggaṇhā’’ti – ime kho, bhikkhave, dve paṇḍitā. 5) — Này các Tỷ-kheo, hai Tỷ-kheo này là ngu si: một vị không thấy phạm tội là phạm tội, một vị không chấp nhận phát lộ tội phạm đúng pháp. Này các Tỷ-kheo, hai vị Tỷ-kheo này là ngu si. 6) Này các Tỷ-kheo, hai Tỷ-kheo này là sáng suốt, một vị thấy phạm tội, một vị chấp nhận phát lộ tội phạm đúng pháp. Này các Tỷ- kheo, hai Tỷ-kheo này là sáng suốt.
‘‘Bhūtapubbaṃ , bhikkhave, sakko devānamindo sudhammāyaṃ sabhāyaṃ deve tāvatiṃse anunayamāno tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi – 7) Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka, để làm hòa dịu chư Thiên ở Tam thập tam thiên tại hội trường Sudhamma, ngay trong lúc ấy, nói lên bài kệ này:
‘‘Kodho vo vasamāyātu, mā ca mittehi vo jarā; Hãy nhiếp phục phẫn nộ, Giữ tình bạn không phai,
Agarahiyaṃ mā garahittha, mā ca bhāsittha pesuṇaṃ; Không đáng mắng, chớ mắng, Không nên nói hai lưỡi,
Atha pāpajanaṃ kodho, pabbatovābhimaddatī’’ti. Phẫn nộ quăng người ác, Như đá rơi vực thẳm.
5. Akkodhasuttaṃ V. Không Phẫn Nộ (Không Hại) (S.i,240)
271. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho bhagavā bhikkhū…pe… bhagavā etadavoca – ‘‘bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sakko devānamindo sudhammāyaṃ sabhāyaṃ deve tāvatiṃse anunayamāno tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi – 1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn Anàthapindika (Cấp Cô Độc). 2) Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo… Thế Tôn nói như sau: 3) — Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka, để làm hòa dịu chư Thiên ở Tam thập tam thiên tại hội trường Sudhamma, ngay trong lúc ấy nói lên bài kệ này:
‘‘Mā vo kodho ajjhabhavi, mā ca kujjhittha kujjhataṃ; Chớ để lòng phẫn nộ, Nhiếp phục, chi phối người!
Akkodho avihiṃsā ca, ariyesu ca paṭipadā [vasatī sadā (sī. syā. kaṃ. pī.)]; Chớ để lòng sân hận, Đối trị với sân hận!
Atha pāpajanaṃ kodho, pabbatovābhimaddatī’’ti. Không phẫn nộ, vô hại, Bậc Thánh thường an trú.
  Phẫn nộ quăng người ác, Như đá rơi vực thẳm.
Tatiyo vaggo.  
Tassuddānaṃ –  
Chetvā dubbaṇṇiyamāyā, accayena akodhano;  
Desitaṃ buddhaseṭṭhena, idañhi sakkapañcakanti.  
Sakkasaṃyuttaṃ samattaṃ.  
Sagāthāvaggo paṭhamo.  
Tassuddānaṃ –  
Devatā devaputto ca, rājā māro ca bhikkhunī;  
Brahmā brāhmaṇa vaṅgīso, vanayakkhena vāsavoti. [Hết Tập I : Kinh Tương Ưng Bộ]
Sagāthāvaggasaṃyuttapāḷi niṭṭhitā.