Tipitaka.org |
Việt dịch: HT. Thích Minh Châu |
1. Indakasuttaṃ |
I. Indaka (S.i,206) |
235. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati indakūṭe pabbate, indakassa yakkhassa bhavane. Atha kho indako yakkho yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – |
1) Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), núi Indakuuta, tại trú xứ của Dạ-xoa Indaka. 2) Rồi Dạ-xoa Indaka đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên những bài kệ với Thế Tôn: |
‘‘Rūpaṃ na jīvanti vadanti buddhā, kathaṃ nvayaṃ vindatimaṃ sarīraṃ; |
Chư Phật, Ngài dạy rằng, Sắc không phải sinh mạng, Vậy sao sinh mạng này, Lại có trong thân này? |
Kutassa aṭṭhīyakapiṇḍameti, kathaṃ nvayaṃ sajjati gabbharasmi’’nti. |
Từ đâu xương thịt đến, Trong thân thể hiện tại? Làm sao sinh mạng này, Gá dính trong thai tạng? |
|
3) (Thế Tôn): |
‘‘Paṭhamaṃ kalalaṃ hoti, kalalā hoti abbudaṃ; |
Trước tiên, Kalala, Rồi từ Kalala, |
Abbudā jāyate pesi, pesi nibbattatī ghano; |
Abbuda có mặt. Rồi từ Abbuda, |
Ghanā pasākhā jāyanti, kesā lomā nakhāpi ca. |
Pesì (thịt mềm) được sanh ra. Pesì sinh Ghana (thịt cứng), |
‘‘Yañcassa bhuñjatī mātā, annaṃ pānañca bhojanaṃ; |
Rồi đến Pasàkha (chi tiết), Tóc, lông và các móng, |
Tena so tattha yāpeti, mātukucchigato naro’’ti. |
Tiếp tục được sanh ra. Những gì người mẹ ăn, |
|
Đồ ăn, đồ uống nào, Con người trong bụng mẹ, Ở đấy, lấy nuôi dưỡng. |
2. Sakkanāmasuttaṃ |
II. Sakka (S.i,206) |
236. Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate. Atha kho sakkanāmako yakkho yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – |
1) Một thời, Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá) trên núi Gijjhakuuta (Linh Thứu). 2) Rồi Dạ-xoa tên Sakka đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên những bài kệ với Thế Tôn: |
‘‘Sabbaganthappahīnassa , vippamuttassa te sato; |
Thật không tốt lành gì, Một Sa-môn như Ngài, Đã đoạn mọi triền phược, Đã sống chơn giải thoát, |
Samaṇassa na taṃ sādhu, yadaññamanusāsasī’’ti [yadaññamanusāsatīti (sī. syā. kaṃ. pī.)]. |
Lại tiếp tục giảng dạy, Những kẻ khác (tu học). |
|
3) (Thế Tôn): |
‘‘Yena kenaci vaṇṇena, saṃvāso sakka jāyati; |
Này Dạ-xoa Sakka, Dầu vì lý do gì, |
Na taṃ arahati sappañño, manasā anukampituṃ. |
Loài Người sống chung nhau, Không một lý do nào, |
‘‘Manasā ce pasannena, yadaññamanusāsati; |
Xứng đáng bậc trí tuệ, Với lòng từ lân mẫn, |
Na tena hoti saṃyutto, yānukampā [sānukampā (sī. pī.)] anuddayā’’ti. |
Nếu với tâm tín thành, Giảng dạy những người khác, |
|
Do vậy không hệ lụy, Vì lòng từ lân mẫn. |
3. Sūcilomasuttaṃ |
III. Suciloma (S.i,207) |
237. Ekaṃ samayaṃ bhagavā gayāyaṃ viharati ṭaṅkitamañce sūcilomassa yakkhassa bhavane. Tena kho pana samayena kharo ca yakkho sūcilomo ca yakkho bhagavato avidūre atikkamanti. Atha kho kharo yakkho sūcilomaṃ yakkhaṃ etadavoca – ‘‘eso samaṇo’’ti! ‘‘Neso samaṇo, samaṇako eso’’. ‘‘Yāva jānāmi yadi vā so samaṇo yadi vā pana so samaṇako’’ti. |
1) Một thời Thế Tôn ở Gayà, trên hòn đá Tankita tại trú xứ của Dạ-xoa Suciloma. 2) Lúc bấy giờ, Dạ-xoa Khara và Dạ-xoa Suciloma đi ngang qua, không xa Thế Tôn bao nhiêu. 3) Rồi Dạ-xoa Khara nói với Dạ-xoa Suciloma: — Đây là một Sa-môn. 4) — Đây không phải Sa-môn. Đây là Sa-môn giả. Hay ít nhất cho đến khi ta biết được Sa-môn hay Sa-môn giả. |
Atha kho sūcilomo yakkho yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavato kāyaṃ upanāmesi. Atha kho bhagavā kāyaṃ apanāmesi. Atha kho sūcilomo yakkho bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘bhāyasi maṃ samaṇā’’ti? ‘‘Na khvāhaṃ taṃ, āvuso, bhāyāmi; api ca te samphasso pāpako’’ti. ‘‘Pañhaṃ taṃ, samaṇa pucchissāmi. Sace me na byākarissasi, cittaṃ vā te khipissāmi, hadayaṃ vā te phālessāmi, pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya [pāraṃ gaṅgāya (ka.)] khipissāmī’’ti. ‘‘Na khvāhaṃ taṃ, āvuso, passāmi sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya, yo me cittaṃ vā khipeyya hadayaṃ vā phāleyya pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipeyya; api ca tvaṃ, āvuso, puccha yadā kaṅkhasī’’ti. Atha kho sūcilomo yakkho bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – ( ) [(atha kho sūcilomo yakkho bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi.) (sī.)] |
5) Rồi Dạ-xoa Suciloma đi đến Thế Tôn, sau khi đến liền nghiêng thân về phía Thế Tôn. 6) Thế Tôn liền tránh né thân của mình. 7) Dạ-xoa Suciloma nói với Thế Tôn: — Có phải Sa-môn sợ ta? 8) — Này Hiền giả, Ta không sợ Ông. Nhưng xúc chạm với Ông là điều đáng ghét (pàpaka). 9) — Này Sa-môn, ta sẽ hỏi Ông một câu. Nếu Ông không trả lời ta được, ta sẽ làm tâm Ông điên loạn, hay ta làm Ông bể tim, hay nắm lấy chân, ta sẽ quăng Ông qua bờ bên kia sông Hằng. 10) — Này Hiền giả, ở thế giới chư Thiên, Ma giới hay Phạm thiên giới, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, Ta không thấy một ai có thể làm tâm Ta điên loạn, hay làm bể tim Ta, hay nắm lấy chân Ta, quăng Ta qua bờ bên kia. Tuy vậy, này Hiền giả, hãy hỏi đi như Ông muốn. 11) (Dạ-xoa): |
‘‘Rāgo ca doso ca kutonidānā, |
Tham dục và sân hận, Do nhân gì sanh khởi? |
Aratī ratī lomahaṃso kutojā; |
Bất mãn và thỏa mãn, Sợ hãi từ đâu sanh? |
Kuto samuṭṭhāya manovitakkā, |
Từ đâu được khởi lên, Các tư tưởng, tư duy, |
Kumārakā dhaṅkamivossajantī’’ti. |
Như quạ được bầy trẻ, Thả bay rồi kéo lại? |
|
12) (Thế Tôn): |
‘‘Rāgo ca doso ca itonidānā, |
Tham dục và sân hận, Do nhân này sanh khởi, |
Aratī ratī lomahaṃso itojā; |
Bất mãn và thỏa mãn, Sợ hãi từ đây sanh. |
Ito samuṭṭhāya manovitakkā, |
Từ đây được khởi lên, Các tư tưởng, tư duy, |
Kumārakā dhaṅkamivossajanti. |
Như quạ được bầy trẻ, Thả bay rồi kéo lại. |
‘‘Snehajā attasambhūtā, nigrodhasseva khandhajā; |
Chính do tham ái sanh, Chính do tự ngã sanh. |
Puthū visattā kāmesu, māluvāva vitatā [vitthatā (syā. kaṃ.)] vane. |
Như cây nigroda (cây bàng), Do từ thân cây sanh. |
‘‘Ye naṃ pajānanti yatonidānaṃ, |
Phàm phu bám ác dục, Như cây leo khắp rừng. |
Te naṃ vinodenti suṇohi yakkha; |
Những ai hiểu biết được, Do nhân ấy sanh khởi, |
Te duttaraṃ oghamimaṃ taranti, |
Họ diệt trừ nhân ấy. Hãy nghe, này Dạ-xoa, |
Atiṇṇapubbaṃ apunabbhavāyā’’ti. |
Họ vượt bộc lưu này, Bộc lưu thật khó vượt, |
|
Từ trước chưa vượt qua, Không còn phải tái sanh. |
4. Maṇibhaddasuttaṃ |
IV. Manibhadda (S.i,208) |
238. Ekaṃ samayaṃ bhagavā magadhesu viharati maṇimālike cetiye maṇibhaddassa yakkhassa bhavane. Atha kho maṇibhaddo yakkho yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi – |
1) Một thời Thế Tôn trú giữa dân chúng Magadha, tại điện thờ Manimàlaka, tại một trú xứ của Dạ-xoa Manibhadda. 2) Rồi Dạ-xoa Manibhadda đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn: |
‘‘Satīmato sadā bhaddaṃ, satimā sukhamedhati; |
Lành thay, thường chánh niệm, Nhờ niệm, lạc tăng trưởng. |
Satīmato suve seyyo, verā ca parimuccatī’’ti. |
Có niệm, mai đẹp hơn, Hận thù được giải thoát. |
|
3) (Thế Tôn): |
‘‘Satīmato sadā bhaddaṃ, satimā sukhamedhati; |
Lành thay, thường chánh niệm, Nhờ niệm, lạc tăng trưởng, |
Satīmato suve seyyo, verā na parimuccati. |
Có niệm, mai đẹp hơn, Hận thù chưa giải thoát. |
‘‘Yassa sabbamahorattaṃ [rattiṃ (syā. kaṃ. ka.)], ahiṃsāya rato mano; |
Với ai trọn ngày đêm, Tâm ý lạc, bất hại, |
Mettaṃ so sabbabhūtesu, veraṃ tassa na kenacī’’ti. |
Từ tâm mọi hữu tình, Vị ấy không thù hận. |
5. Sānusuttaṃ |
V. Sanu (S.i,209) |
239. Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena aññatarissā upāsikāya sānu nāma putto yakkhena gahito hoti. Atha kho sā upāsikā paridevamānā tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi – |
1) Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika. 2) Lúc bấy giờ, Sànu, con một nữ cư sĩ bị Dạ-xoa ám ảnh. 3) Nữ cư sĩ ấy than khóc, ngay lúc ấy nói lên bài kệ này: |
‘‘Cātuddasiṃ pañcadasiṃ, yā ca pakkhassa aṭṭhamī; |
Con ta là La-hán, Đối với ta là vậy, |
Pāṭihāriyapakkhañca, aṭṭhaṅgasusamāgataṃ. |
Và chính ta được nghe, Vị La-hán nói vậy. |
‘‘Uposathaṃ upavasanti, brahmacariyaṃ caranti ye; |
Nay ta thấy Sànu, Bị Dạ-xoa ám ảnh. |
Na tehi yakkhā kīḷanti, iti me arahataṃ sutaṃ; |
Ngày mười bốn, mười lăm, Và ngày tám nửa tháng, |
Sā dāni ajja passāmi, yakkhā kīḷanti sānunā’’ti. |
Cả ngày lễ đặc biệt, Khéo tu tám trai giới, |
‘‘Cātuddasiṃ pañcadasiṃ, yā ca pakkhassa aṭṭhamī; |
Tuân trì lễ Bố-tát. Và chính ta được nghe, |
Pāṭihāriyapakkhañca, aṭṭhaṅgasusamāgataṃ; |
Vị La-hán nói vậy, Nay ta thấy Sànu, |
Uposathaṃ upavasanti, brahmacariyaṃ caranti ye. |
Bị Dạ-xoa ám ảnh. Ngày mười bốn, mười lăm, |
‘‘Na tehi yakkhā kīḷanti, sāhu te arahataṃ sutaṃ; |
Và ngày tám nửa tháng, Cả ngày lễ đặc biệt, |
Sānuṃ pabuddhaṃ vajjāsi, yakkhānaṃ vacanaṃ idaṃ; |
Khéo tu tám trai giới, Tuân trì lễ Bố-tát. |
Mākāsi pāpakaṃ kammaṃ, āvi vā yadi vā raho. |
Những ai sống Phạm hạnh, Dạ-xoa không ám ảnh, |
‘‘Sace ca [saceva (syā. kaṃ. pī. ka.), yañceva (sī.)] pāpakaṃ kammaṃ, karissasi karosi vā; |
Và chính ta được nghe, Vị La-hán nói vậy. |
Na te dukkhā pamutyatthi, uppaccāpi palāyato’’ti. |
Người nói với Sànu, Có trí và sáng suốt, |
‘‘Mataṃ vā amma rodanti, yo vā jīvaṃ na dissati; |
Đây là lời Dạ-xoa, Chớ có làm điều ác, |
Jīvantaṃ amma passantī, kasmā maṃ amma rodasī’’ti. |
Công khai hay bí mật. Nếu người làm điều ác, |
‘‘Mataṃ vā putta rodanti, yo vā jīvaṃ na dissati; |
Sẽ làm hay đang làm, Ông không thoát khổ đau, |
Yo ca kāme cajitvāna, punarāgacchate idha; |
Dầu có đứng lên chạy, Chạy một mạch, chạy dài. |
Taṃ vāpi putta rodanti, puna jīvaṃ mato hi so. |
4) (Sànu được khỏi ám ảnh): |
‘‘Kukkuḷā ubbhato tāta, kukkuḷaṃ [kukkuḷe (sī.)] patitumicchasi; |
Này mẹ, người ta khóc, Là khóc cho người chết, |
Narakā ubbhato tāta, narakaṃ patitumicchasi. |
Hay khóc cho người sống, Nhưng không được thấy mặt? |
‘‘Abhidhāvatha bhaddante, kassa ujjhāpayāmase; |
Này mẹ, chúng thấy con, Hiện có mặt đang sống. |
Ādittā nīhataṃ [nibbhataṃ (syā. kaṃ. ka.), nibhataṃ (pī. ka.)] bhaṇḍaṃ, puna ḍayhitumicchasī’’ti. |
Vậy sao mẹ khóc con, Này người mẹ (thân yêu)? |
|
5) (Bà mẹ): |
|
Người ta khóc cho con, Là khóc cho con chết, |
|
Hay khóc cho con sống, Nhưng không được thấy mặt. |
|
Ai đã bỏ dục vọng, Lại trở lui đời này, |
|
Này con, người ta khóc, Là khóc cho người ấy, |
|
Vì người ấy được xem, Còn sống cũng như chết. |
|
Nay con được kéo ra, Khỏi than hừng đỏ rực, |
|
Con còn muốn rơi vào, Đống than hồng ấy chăng? |
|
Nay con được thoát ra, Khỏi địa ngục (đau khổ), |
|
Con còn muốn rơi vào, Cõi địa ngục ấy chăng? |
|
Hãy dong ruỗi đời con, Ta chúc con hạnh phúc, |
|
Hãy sống như thế nào, Không làm ai bực phiền. |
|
Đồ vật thoát lửa cháy, Con muốn đốt lại chăng? |
6. Piyaṅkarasuttaṃ |
VI. Piyankara (S.i,209) |
240. Ekaṃ samayaṃ āyasmā anuruddho sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena āyasmā anuruddho rattiyā paccūsasamayaṃ paccuṭṭhāya dhammapadāni bhāsati. Atha kho piyaṅkaramātā yakkhinī puttakaṃ evaṃ tosesi – |
1) Một thời Tôn giả Anuruddha trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika. 2) Lúc bấy giờ Tôn giả Anuruddha thức dậy khi đêm vừa mới sáng, đang tụng đọc pháp cú. 3) Một nữ Dạ-xoa, mẹ của Piyankara dỗ cho con nín như sau: |
‘‘Mā saddaṃ kari piyaṅkara, bhikkhu dhammapadāni bhāsati; |
Này Piyankara, Chớ có sanh tiếng động, Vị Tỷ-kheo đang tụng, |
Api [api (sī.)] ca dhammapadaṃ vijāniya, paṭipajjema hitāya no siyā. |
Những lời về pháp cú. Nếu chúng ta biết được, Học được pháp cú này, |
‘‘Pāṇesu ca saṃyamāmase, sampajānamusā na bhaṇāmase; |
Rồi như pháp hành trì, Chúng ta được lợi ích. Không sát hại sanh vật, |
Sikkhema susīlyamattano [susīlamattano (sī. ka.)], api muccema pisācayoniyā’’ti. |
Không cố ý nói láo, Tự học tập giới luật, Chúng ta thoát ngạ quỷ. |
7. Punabbasusuttaṃ |
VII. Punabbasu (S.i,209) |
241. Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena bhagavā bhikkhū nibbānapaṭisaṃyuttāya dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti. Te ca bhikkhū aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṃ suṇanti. Atha kho punabbasumātā yakkhinī puttake evaṃ tosesi – |
1) Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika. 2) Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang thuyết pháp cho chúng Tỷ-kheo về vấn đề liên hệ đến Niết-bàn, tuyên thuyết, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Và các Tỷ-kheo ấy chú tâm, chú ý, tập trung mọi tâm tư, lóng tai nghe pháp. 3) Rồi một nữ Dạ-xoa, mẹ Punabbasu dỗ con nín như sau: |
‘‘Tuṇhī uttarike hohi, tuṇhī hohi punabbasu; |
Hãy gìn giữ im lặng, Này Uttarika! |
Yāvāhaṃ buddhaseṭṭhassa, dhammaṃ sossāmi satthuno. |
Hãy gìn giữ im lặng, Này Punabbasu! |
‘‘Nibbānaṃ bhagavā āha, sabbaganthappamocanaṃ; |
Để mẹ được nghe pháp. Đạo Sư, tối thượng Phật, |
Ativelā ca me hoti, asmiṃ dhamme piyāyanā. |
Thế Tôn giảng Niết-bàn, Thoát ly mọi triền phược, |
‘‘Piyo loke sako putto, piyo loke sako pati; |
Mẹ đối với pháp ấy, Thật cực kỳ ái lạc. |
Tato piyatarā mayhaṃ, assa dhammassa magganā. |
Đời ái lạc con mình, Đời ái lạc chồng mình, |
‘‘Na hi putto pati vāpi, piyo dukkhā pamocaye; |
Nhưng đối với đạo pháp, Mẹ ái lạc nhiều hơn. |
Yathā saddhammassavanaṃ, dukkhā moceti pāṇinaṃ. |
Con hay chồng dầu thân, Không cứu ta thoát khổ, |
‘‘Loke dukkhaparetasmiṃ, jarāmaraṇasaṃyute; |
Không như nghe diệu pháp, Chúng sanh được thoát khổ. |
Jarāmaraṇamokkhāya, yaṃ dhammaṃ abhisambudhaṃ; |
Trong đau khổ đời sau, Dính liền già và chết, |
Taṃ dhammaṃ sotumicchāmi, tuṇhī hohi punabbasū’’ti. |
Chánh pháp Ngài giác ngộ, Giải thoát khỏi già chết. |
‘‘Ammā na byāharissāmi, tuṇhībhūtāyamuttarā; |
Mẹ muốn nghe pháp ấy Hãy nín đi con ơi! |
Dhammameva nisāmehi, saddhammassavanaṃ sukhaṃ; |
Này Punabbasu. 4) (Punabbasu): |
Saddhammassa anaññāya, ammā dukkhaṃ carāmase. |
Thưa mẹ, con không nói, Uttarà nín lặng. |
|
Mẹ hãy lắng nghe pháp, Nghe pháp được an lạc. |
|
Vì không biết diệu pháp, Chúng ta trôi sanh tử. |
‘‘Esa devamanussānaṃ, sammūḷhānaṃ pabhaṅkaro; |
Giữa Nhân, Thiên mù quáng, Ngài đem cho ánh sáng, |
Buddho antimasārīro, dhammaṃ deseti cakkhumā’’ti. |
Giác ngộ, thân tối hậu, Bậc Pháp nhãn thuyết pháp. |
|
5) (Bà mẹ): |
‘‘Sādhu kho paṇḍito nāma, putto jāto uresayo; |
Hữu trí thay, con ta! Con ta sanh ẵm ngực. |
Putto me buddhaseṭṭhassa, dhammaṃ suddhaṃ piyāyati. |
Nay con ta ái lạc, Tịnh pháp Vô thượng Phật. |
‘‘Punabbasu sukhī hohi, ajjāhamhi samuggatā; |
Này Punabbasu! Hãy sống chơn an lạc, Nay ta được sống lại, |
Diṭṭhāni ariyasaccāni, uttarāpi suṇātu me’’ti. |
Thấy được chơn Thánh đế, Này con Uttara! Hãy nghe theo lời ta. |
8. Sudattasuttaṃ |
VIII. Sudatta. (S.i,210) |
242. Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati sītavane. Tena kho pana samayena anāthapiṇḍiko gahapati rājagahaṃ anuppatto hoti kenacideva karaṇīyena. Assosi kho anāthapiṇḍiko gahapati – ‘‘buddho kira loke uppanno’’ti. Tāvadeva ca pana bhagavantaṃ dassanāya upasaṅkamitukāmo hoti. Athassa anāthapiṇḍikassa gahapatissa etadahosi – ‘‘akālo kho ajja bhagavantaṃ dassanāya upasaṅkamituṃ. Sve dānāhaṃ kālena bhagavantaṃ dassanāya gamissāmī’’ti buddhagatāya satiyā nipajji. Rattiyā sudaṃ tikkhattuṃ vuṭṭhāsi pabhātanti maññamāno. Atha kho anāthapiṇḍiko gahapati yena sivathikadvāraṃ [sīvathikadvāraṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)] tenupasaṅkami. Amanussā dvāraṃ vivariṃsu. Atha kho anāthapiṇḍikassa gahapatissa nagaramhā nikkhamantassa āloko antaradhāyi, andhakāro pāturahosi, bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃso udapādi, tatova puna nivattitukāmo ahosi. Atha kho sivako [sīvako (sī. pī.)] yakkho antarahito saddamanussāvesi – |
1) Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương Xá), tại rừng Sìta. 2) Lúc bấy giờ cư sĩ Anàthapindika (Cấp Cô Độc) đã đến Ràjagaha để làm một vài công việc. 3) Cư sĩ Anàthapindika được nghe đức Phật đã ra đời và muốn đến yết kiến Thế Tôn. 4) Rồi cư sĩ Anàthapindika suy nghĩ: “Nay không phải thời để yết kiến Thế Tôn. Ngày mai mới phải thời ta đến yết kiến Thế Tôn”. Như vậy với ý nghĩ đi yết kiến đức Phật, ông Anàthapindika nằm ngủ. Trong đêm, ông ấy thức dậy ba lần, tưởng rằng trời đã sáng. 5) Rồi cư sĩ Anàthapindika đi đến cửa Sìvatthika (nghĩa địa), và có những phi nhân mở cửa. 6) Và khi ông ra khỏi thành phố, ánh sáng biến mất và bóng tối hiện ra. Ông sợ hãi, hoảng hốt, lông tóc dựng ngược và muốn đi trở về. 7) Rồi Dạ-xoa Sìvaka ẩn hình, lên tiếng như sau: |
‘‘Sataṃ hatthī sataṃ assā, sataṃ assatarīrathā; |
Trăm voi và trăm ngựa, Trăm xe do ngựa kéo, |
Sataṃ kaññāsahassāni, āmukkamaṇikuṇḍalā; |
Cả trăm ngàn thiếu nữ, Được trang sức bông tai, |
Ekassa padavītihārassa, kalaṃ nāgghanti soḷasiṃ. |
Không bằng phần mười sáu, Một bước đi tới này. |
‘‘Abhikkama gahapati, abhikkama gahapati; |
Cư sĩ, hãy tiến tới! Cư sĩ, hãy tiến tới! |
Abhikkamanaṃ te seyyo, no paṭikkamana’’nti. |
Tiến tới, tốt đẹp hơn, Chớ có lui, thối bước! |
Atha kho anāthapiṇḍikassa gahapatissa andhakāro antaradhāyi, āloko pāturahosi, yaṃ ahosi bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃso, so paṭippassambhi. Tatiyampi kho anāthapiṇḍikassa gahapatissa āloko antaradhāyi, andhakāro pāturahosi, bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃso udapādi, tatova puna nivattitukāmo ahosi. Tatiyampi kho sivako yakkho antarahito saddamanussāvesi – |
8) Rồi với Anàthapindika, tối tăm biến mất, ánh sáng hiện ra. Và sợ hãi, hốt hoảng, lông tóc dựng ngược đã khởi lên được dịu hẳn xuống. 9) Lần thứ hai… (như trên)… 10) Lần thứ ba, với Anàthapindika, ánh sáng biến mất, bóng tối hiện ra. Và sợ hãi, hoảng hốt, lông tóc dựng ngược khởi lên. Và Anàthapindika muốn trở lui. Lần thứ ba, Dạ-xoa Sìvaka ẩn hình lên tiếng như sau : |
‘‘Sataṃ hatthī sataṃ assā…pe… |
Trăm voi và trăm ngựa, Trăm xe do ngựa kéo, Cả trăm ngàn thiếu nữ, Được trang sức bông tai, |
Kalaṃ nāgghanti soḷasiṃ. |
Không bằng phần mười sáu, Một bước đi tới này. |
‘‘Abhikkama gahapati, abhikkama gahapati; |
Cư sĩ, hãy tiến tới! Cư sĩ, hãy tiến tới! |
Abhikkamanaṃ te seyyo, no paṭikkamana’’nti. |
Tiến tới, tốt đẹp hơn, Chớ có lui, thối bước! |
Atha kho anāthapiṇḍikassa gahapatissa andhakāro antaradhāyi, āloko pāturahosi, yaṃ ahosi bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃso, so paṭippassambhi. Atha kho anāthapiṇḍiko gahapati yena sītavanaṃ yena bhagavā tenupasaṅkami. |
11) Rồi với Anàthapindika, bóng tối biến mất, ánh sáng hiện ra và sợ hãi, hoảng hốt, lông tóc dựng ngược đã khởi lên được dịu bớt. 12) Rồi Anàthapindika đi đến rừng Sìta, đi đến Thế Tôn. |
Tena kho pana samayena bhagavā rattiyā paccūsasamayaṃ paccuṭṭhāya abbhokāse caṅkamati. Addasā kho bhagavā anāthapiṇḍikaṃ gahapatiṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna caṅkamā orohitvā paññatte āsane nisīdi. Nisajja kho bhagavā anāthapiṇḍikaṃ gahapatiṃ etadavoca – ‘‘ehi sudattā’’ti. Atha kho anāthapiṇḍiko gahapati, nāmena maṃ bhagavā ālapatīti, haṭṭho udaggo tattheva bhagavato pādesu sirasā nipatitvā bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kacci, bhante, bhagavā sukhamasayitthā’’ti? |
13) Lúc bấy giờ Thế Tôn thức dậy vào lúc đêm vừa mãn và đang đi kinh hành ngoài trời. 14) Thế Tôn thấy Anàthapindika từ xa đi đến, khi thấy vậy, từ chỗ kinh hành đi xuống, và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với cư sĩ Anàthapindika: — Hãy đến đây, Sudatta! 15) Rồi cư sĩ Anàthapindika nghĩ: “Thế Tôn kêu tên ta”, rồi cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và bạch Thế Tôn: — Bạch Thế Tôn, Thế Tôn ngủ có an lạc chăng? (Thế Tôn): |
‘‘Sabbadā ve sukhaṃ seti, brāhmaṇo parinibbuto; |
Bà-la-môn tịch tịnh, Luôn luôn sống an lạc, |
Yo na limpati kāmesu, sītibhūto nirūpadhi. |
Không đèo bồng dục vọng, Thanh lương, không sanh y, |
‘‘Sabbā āsattiyo chetvā, vineyya hadaye daraṃ; |
Mọi ái trước đoạn diệt, Tâm khổ não điều phục, |
Upasanto sukhaṃ seti, santiṃ pappuyya cetasā’’ti [cetasoti (sī.)]. |
Tịch tịnh, sống an lạc, Tâm tư đạt hòa bình. |
9. Paṭhamasukkāsuttaṃ |
IX. Sukkà (S.i,212) |
243. Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Tena kho pana samayena sukkā bhikkhunī mahatiyā parisāya parivutā dhammaṃ deseti. Atha kho sukkāya bhikkhuniyā abhippasanno yakkho rājagahe rathikāya rathikaṃ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṃ upasaṅkamitvā tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi – |
1) Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), tại Veluvana (Trúc Lâm), chỗ nuôi dưỡng các con sóc. 2) Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo-ni Sukkà, có đại chúng đoanh vây, đang thuyết pháp. 3) Rồi một Dạ-xoa có lòng tịnh tín đối với Tỷ-kheo-ni Sukkà, đi từ đường xe này đến đường xe khác, đi từ ngã tư này đến ngã tư khác ở Ràjagaha, và ngay lúc ấy, nói lên những bài kệ này: |
‘‘Kiṃ me katā rājagahe manussā, madhupītāva seyare; |
Này người Vương Xá thành, Các Người đã làm gì, Mà nay lại nằm dài, |
Ye sukkaṃ na payirupāsanti, desentiṃ amataṃ padaṃ. |
Như say vì rượu ngọt. Không hầu hạ Sukkà, Đang thuyết pháp bất tử? |
‘‘Tañca pana appaṭivānīyaṃ, asecanakamojavaṃ; |
Pháp ấy không trở lui, Cam lồ không lưng vơi. Ta nghĩ người trí tuệ |
Pivanti maññe sappaññā, valāhakamiva panthagū’’ti [valāhakamivaddhagūti (sī.)]. |
Uống nước (cam lồ) ấy, Chẳng khác một đám mưa, Đối với kẻ lữ hành. |
10. Dutiyasukkāsuttaṃ |
X. Sukkà (S.i,212) |
244. Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Tena kho pana samayena aññataro upāsako sukkāya bhikkhuniyā bhojanaṃ adāsi. Atha kho sukkāya bhikkhuniyā abhippasanno yakkho rājagahe rathikāya rathikaṃ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṃ upasaṅkamitvā tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi – |
1) Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha, tại Veluvana, chỗ nuôi dưỡng các con sóc. 2) Lúc bấy giờ, một người cư sĩ đang cúng dường đồ ăn cho Tỷ-kheo-ni Sukkà. 3) Rồi một Dạ-xoa, khởi lòng tịnh tín đối với Tỷ-kheo-ni Sukkà, liền đi từ đường xe này đến đường xe khác, đi từ ngã ba này ba khác ở Ràjagaha, ngay lúc ấy nói lên bài kệ này: |
‘‘Puññaṃ vata pasavi bahuṃ, sappañño vatāyaṃ upāsako; |
Cư sĩ có trí này, Chắc hưởng nhiều công đức, Đã cúng dường món ăn, |
Yo sukkāya adāsi bhojanaṃ, sabbaganthehi vippamuttiyā’’ti [vippamuttāyāti (syā. kaṃ.)]. |
Dâng cúng lên Sukkà, Một vị đã giải thoát, Tất cả mọi triền phược. |
11. Cīrāsuttaṃ |
XI. Cirà hay Virà (S.i,215) |
245. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Tena kho pana samayena aññataro upāsako cīrāya [cirāya (ka.)] bhikkhuniyā cīvaraṃ adāsi. Atha kho cīrāya bhikkhuniyā abhippasanno yakkho rājagahe rathikāya rathikaṃ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṃ upasaṅkamitvā tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi – |
1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Ràagaha (Vương Xá), tại Veluvana (Trúc Lâm), chỗ nuôi dưỡng các con sóc. 2) Lúc bấy giờ, một cư sĩ dâng y cúng dường Tỷ-kheo-ni Cirà. 3) Rồi một Dạ-xoa, khởi lòng tịnh tín đối với Tỷ-kheo-ni Cirà, liền đi từ đường xe này đến đường xe khác, từ ngã ba này đến ngã ba khác tại thành Vương Xá, ngay lúc ấy nói lên bài kệ này: |
‘‘Puññaṃ vata pasavi bahuṃ, sappañño vatāyaṃ upāsako; |
Cư sĩ có trí này, Chắc hưởng nhiều công đức, Đã cúng dường tấm y, |
Yo cīrāya adāsi cīvaraṃ, sabbayogehi vippamuttiyā’’ti [vippamuttāyāti (syā. kaṃ.)]. |
Dâng cúng lên Cirà, Một vị đã giải thoát, Tất cả mọi khổ ách. |
12. Āḷavakasuttaṃ |
XII. Alava (S.i,218) |
246. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā āḷaviyaṃ viharati āḷavakassa yakkhassa bhavane. Atha kho āḷavako yakkho yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘nikkhama, samaṇā’’ti. ‘‘Sādhāvuso’’ti bhagavā nikkhami. ‘‘Pavisa, samaṇā’’ti. ‘‘Sādhāvuso’’ti bhagavā pāvisi. Dutiyampi kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘nikkhama, samaṇā’’ti. ‘‘Sādhāvuso’’ti bhagavā nikkhami. ‘‘Pavisa, samaṇā’’ti. ‘‘Sādhāvuso’’ti bhagavā pāvisi. Tatiyampi kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘nikkhama, samaṇā’’ti. ‘‘Sādhāvuso’’ti bhagavā nikkhami. ‘‘Pavisa, samaṇā’’ti. ‘‘Sādhāvuso’’ti bhagavā pāvisi. Catutthampi kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘nikkhama, samaṇā’’ti. ‘‘Na khvāhaṃ taṃ, āvuso, nikkhamissāmi. Yaṃ te karaṇīyaṃ taṃ karohī’’ti. ‘‘Pañhaṃ taṃ, samaṇa, pucchissāmi. Sace me na byākarissasi, cittaṃ vā te khipissāmi, hadayaṃ vā te phālessāmi, pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipissāmī’’ti. ‘‘Na khvāhaṃ taṃ, āvuso, passāmi sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya, ye me cittaṃ vā khipeyya hadayaṃ vā phāleyya, pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipeyya. Api ca tvaṃ, āvuso, puccha yadā kaṅkhasī’’ti [(atha kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi.) (sī.)]. |
1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở €lavi, tại trú xứ của Dạ-xoa Alavakka. 2) Rồi Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn: — Này Sa-môn, hãy đi ra! — Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn nói và đi ra. — Này Sa-môn, hãy đi vào. — Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn nói và đi vào. 3) Lần thứ hai, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn: — Này Sa-môn, hãy đi ra. — Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn nói và đi ra. — Này Sa-môn, hãy đi vào. — Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn nói và đi vào. 4) Lần thứ ba, Dạ-xoa Alavika nói với Thế Tôn: — Này Sa-môn, hãy đi ra. — Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn nói và đi ra. — Này Sa-môn, hãy đi vào. — Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn nói và đi vào. 5) Lần thứ tư, Dạ-xoa Alavika nói với Thế Tôn: — Này Sa-môn, hãy đi ra. 6) — Này Hiền giả, Ta không đi ra. Hãy làm gì Ông nghĩ là phải làm. 7) — Này Sa-môn, ta sẽ hỏi Ông một câu hỏi. Nếu Ông không trả lời ta được, ta sẽ làm tâm Ông điên loạn, hay ta làm Ông bể tim, hay nắm lấy chân, ta sẽ quăng Ông qua bờ bên kia sông Hằng. 8) — Này Hiền giả, Ta không thấy một ai, ở thế giới chư Thiên, Ma giới hay Phạm thiên giới, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người có thể làm tâm Ta điên loạn, hay làm bể tim Ta hay nắm lấy chân, quăng Ta qua bờ bên kia sông Hằng. Tuy vậy, này Hiền giả, hãy hỏi đi như Ông muốn. |
|
9) (Dạ-xoa): |
‘‘Kiṃsūdha vittaṃ purisassa seṭṭhaṃ, kiṃsu suciṇṇaṃ sukhamāvahāti; |
Cái gì đối người đời, Là tài sản tối thượng? Cái gì khéo hành trì, Đem lại chơn an lạc? |
Kiṃsu have sādutaraṃ rasānaṃ, kathaṃjīviṃ jīvitamāhu seṭṭha’’nti. |
Cái gì giữa các vị, Là vị ngọt tối thượng? Phải sống như thế nào, Được gọi sống tối thượng? |
|
10) (Thế Tôn): |
‘‘Saddhīdha vittaṃ purissa seṭṭhaṃ, dhammo suciṇṇo sukhamāvahāti; |
Lòng tin đối người đời, Là tài sản tối thượng. Chánh pháp khéo hành trì, Đem lại chơn an lạc. |
Saccaṃ have sādutaraṃ rasānaṃ, paññājīviṃ jīvitamāhu seṭṭha’’nti. |
Chân lý giữa các vị, Là vị ngọt tối thượng. Phải sống với trí tuệ, Được gọi sống tối thượng. |
|
11) (Dạ-xoa): |
‘‘Kathaṃsu tarati oghaṃ, kathaṃsu tarati aṇṇavaṃ; |
Làm sao vượt bộc lưu? Làm sao vượt biển lớn? |
Kathaṃsu dukkhamacceti, kathaṃsu parisujjhatī’’ti. |
Làm sao siêu khổ não? Làm sao được thanh tịnh? |
|
12) (Thế Tôn): |
‘‘Saddhāya tarati oghaṃ, appamādena aṇṇavaṃ; |
Với tín, vượt bộc lưu. Không phóng dật, vượt biển. |
Vīriyena dukkhamacceti, paññāya parisujjhatī’’ti. |
Tinh tấn, siêu khổ não. Với Trí, được thanh tịnh. |
|
13) (Dạ-xoa): |
‘‘Kathaṃsu labhate paññaṃ, kathaṃsu vindate dhanaṃ; |
Làm sao được trí tuệ? Làm sao được tài sản? |
Kathaṃsu kittiṃ pappoti, kathaṃ mittāni ganthati; |
Làm sao đạt danh xưng? Làm sao kết bạn hữu? |
Asmā lokā paraṃ lokaṃ, kathaṃ pecca na socatī’’ti. |
Đời này qua đời khác, Làm sao không sầu khổ? |
|
14) (Thế Tôn): |
‘‘Saddahāno arahataṃ, dhammaṃ nibbānapattiyā; |
Ai tin tưởng Chánh pháp Của bậc A-la-hán, |
Sussūsaṃ [sussūsā (sī. pī.)] labhate paññaṃ, appamatto vicakkhaṇo. |
Pháp ấy khiến đạt được, Niết-bàn (chơn an lạc), |
‘‘Patirūpakārī dhuravā, uṭṭhātā vindate dhanaṃ; |
Khéo học, không phóng dật, Minh nhãn khéo phân biệt, |
Saccena kittiṃ pappoti, dadaṃ mittāni ganthati; |
Nhờ hành trì như vậy, Vị ấy được trí tuệ. |
Asmā lokā paraṃ lokaṃ, evaṃ pecca na socati. |
Làm gì khéo thích hợp, Gánh vác các trách nhiệm, |
‘‘Yassete caturo dhammā, saddhassa gharamesino; |
Phấn chấn, thích hoạt động, Như vậy được tài sản, |
Saccaṃ dammo dhiti cāgo, sa ve pecca na socati. |
Chơn thật đạt danh xưng, Bố thí kết bạn hữu, |
‘‘Iṅgha aññepi pucchassu, puthū samaṇabrāhmaṇe; |
Đời này qua đời khác, Như vậy không sầu khổ. |
Yadi saccā dammā cāgā, khantyā bhiyyodha vijjatī’’ti. |
Tín nam gia chủ nào, Tìm cầu bốn pháp này, |
|
Chơn thực và chế ngự, Kiên trì và xả thí, |
|
Vị ấy sau khi chết, Không còn phải sầu khổ. |
|
Đời này qua đời khác, Sau chết, không sầu khổ. |
|
Ta muốn Ông đến hỏi, Sa-môn, Bà-la-môn, |
|
Có những pháp nào khác, Tốt hơn bốn pháp này: |
|
Chơn thực và chế ngự, Xả thí và kham nhẫn. |
|
15) (Dạ-xoa): |
‘‘Kathaṃ nu dāni puccheyyaṃ, puthū samaṇabrāhmaṇe; |
Làm sao nay ta hỏi, Sa-môn, Bà-la-môn, |
Yohaṃ [sohaṃ (sī.), svāhaṃ (ka.)] ajja pajānāmi, yo attho samparāyiko. |
Khi nay ta được biết, Nguyên nhân của đời sau. |
‘‘Atthāya vata me buddho, vāsāyāḷavimāgamā [māgato (pī. ka.)]; |
Phật đến Alavi, Thật lợi ích cho ta. |
Yohaṃ [sohaṃ (sī.)] ajja pajānāmi, yattha dinnaṃ mahapphalaṃ. |
Nay ta được biết rõ, Cho gì được quả lớn. |
‘‘So ahaṃ vicarissāmi, gāmā gāmaṃ purā puraṃ; |
Nên ta sẽ bộ hành, Làng này qua làng khác, |
Namassamāno sambuddhaṃ, dhammassa ca sudhammata’’nti. |
Thành này qua thành khác, Đảnh lễ Phật Chánh Giác, |
Yakkhasaṃyuttaṃ samattaṃ. |
Cùng đảnh lễ Chánh pháp, Các vị chứng Pháp tánh. |
Tassuddānaṃ – |
|
Indako sakka sūci ca, maṇibhaddo ca sānu ca; |
|
Piyaṅkara punabbasu sudatto ca, dve sukkā cīraāḷavīti dvādasa. |
|