8. Chetvāvaggo

VIII. Phẩm Đoạn (S.i,41)

Tipitaka.org Việt dịch: HT. Thích Minh Châu
1. Chetvāsuttaṃ I. Đoạn Sát (S.i,41)
71. Sāvatthinidānaṃ. Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – … Đứng một bên, vị Thiên nhân ấy nói lên bài kệ với Thế Tôn:
‘‘Kiṃsu chetvā [jhatvā (sī.), ghatvā (syā. kaṃ.) evamuparipi] sukhaṃ seti, kiṃsu chetvā na socati; Sát vật gì được lạc? Sát vật gì không sầu?
Kissassu ekadhammassa, vadhaṃ rocesi gotamā’’ti. Có một pháp loại gì, Ngài tán đồng sát hại,Tôn giả Gotama?
  (Thế Tôn):
‘‘Kodhaṃ chetvā sukhaṃ seti, kodhaṃ chetvā na socati; Sát phẫn nộ được lạc, Sát phẫn nộ không sầu,
Kodhassa visamūlassa, madhuraggassa devate; Phẫn nộ với độc căn, Với vị ngọt tối thượng,
Vadhaṃ ariyā pasaṃsanti, tañhi chetvā na socatī’’ti. Pháp ấy, bậc Thánh Hiền, Tán đồng sự sát hại.
  Sát pháp ấy không sầu, Này (Hiền giả) Thiên nhân.
2. Rathasuttaṃ II. Cỗ Xe (S.i,41)
72. ‘‘Kiṃsu rathassa paññāṇaṃ, kiṃsu paññāṇamaggino; — Cỗ xe hiện tướng gì? Ngọn lửa hiện tướng gì?
Kiṃsu raṭṭhassa paññāṇaṃ, kiṃsu paññāṇamitthiyā’’ti. Vương quốc hiện tướng gì? Phụ nữ hiện tướng gì?
‘‘Dhajo rathassa paññāṇaṃ, dhūmo paññāṇamaggino; — Cờ hiện tướng cỗ xe, Khói hiện tướng ngọn lửa,
Rājā raṭṭhassa paññāṇaṃ, bhattā paññāṇamitthiyā’’ti. Vua hiện tướng vương quốc, Chồng hiện tướng nữ nhân.
3. Vittasuttaṃ III. Tài Sản (S.i,42)
73. ‘‘Kiṃsūdha vittaṃ purisassa seṭṭhaṃ, kiṃsu suciṇṇo sukhamāvahati; — Tài sản gì ở đời, Đối người là tối thượng? Sự gì khéo tu trì, Đưa đến chơn an lạc?
Kiṃsu have sādutaraṃ [sādhutaraṃ (ka.)] rasānaṃ, kathaṃjīviṃ [kiṃsujīviṃ (ka.)] jīvitamāhu seṭṭha’’nti. Vật gì ngọt tối thượng, Trong tất cả vị ngọt? Sống cuộc sống thế nào, Được gọi sống tối thượng?
‘‘Saddhīdha vittaṃ purisassa seṭṭhaṃ, dhammo suciṇṇo sukhamāvahati; — Lòng tin ở đời này, Là tài sản tối thượng. Chánh pháp khéo tu trì, Đưa đến chơn an lạc.
Saccaṃ have sādutaraṃ rasānaṃ, paññājīviṃ jīvitamāhu seṭṭha’’nti. Sự thật ngọt tối thượng, Trong tất cả vị ngọt. Sống cuộc sống trí tuệ, Được gọi sống tối thượng.
4. Vuṭṭhisuttaṃ IV. Mưa (S.i,42)
74. ‘‘Kiṃsu uppatataṃ seṭṭhaṃ, kiṃsu nipatataṃ varaṃ; Vật gì được mọc lên, Là mọc lên tối thượng? Vật gì được rơi xuống,
Kiṃsu pavajamānānaṃ, kiṃsu pavadataṃ vara’’nti. Là rơi xuống tối thượng? Vật gì thường bộ hành? Vật gì thuyết tối thượng?
  (Một Thiên nhân):
‘‘Bījaṃ uppatataṃ seṭṭhaṃ, vuṭṭhi nipatataṃ varā; Hột giống được mọc lên, Là mọc lên tối thượng. Cơn mưa được rơi xuống,
Gāvo pavajamānānaṃ, putto pavadataṃ varoti. Là rơi xuống tối thượng. Con bò thường bộ hành, Con trai thuyết tối thượng.
  (Thế Tôn):
‘‘Vijjā uppatataṃ seṭṭhā, avijjā nipatataṃ varā; Huệ minh được mọc lên, Là mọc lên tối thượng. Vô minh được rơi xuống,
Saṅgho pavajamānānaṃ, buddho pavadataṃ varo’’ti. Là rơi xuống tối thượng. Tăng-già thường bộ hành, Đức Phật thuyết tối thượng.
5. Bhītāsuttaṃ V. Khủng Bố (S.i,42)
75. ‘‘Kiṃsūdha bhītā janatā anekā, Vì sao ở đời này, Rất nhiều người sợ hãi,
Maggo canekāyatanappavutto; Dầu con đường đề cập, Dưới hình thức sai biệt?
Pucchāmi taṃ gotama bhūripañña, Con hỏi Gotama, Bậc trí tuệ sáng suốt,
Kismiṃ ṭhito paralokaṃ na bhāye’’ti. Phải an trú chỗ nào, Khỏi sợ hãi đời sau?
  (Thế Tôn):
‘‘Vācaṃ manañca paṇidhāya sammā, Hãy chánh trú lời, ý, Thân nghiệp chớ làm ác.
Kāyena pāpāni akubbamāno; Nếu an trú trong nhà, Với tài sản dồi dào,
Bavhannapānaṃ gharamāvasanto, Hãy tín tâm, nhu hòa, Chia tài sản, hòa nhã.
Saddho mudū saṃvibhāgī vadaññū; An trú bốn pháp này, Không sợ hãi đời sau.
Etesu dhammesu ṭhito catūsu,  
Dhamme ṭhito paralokaṃ na bhāye’’ti.  
6. Najīratisuttaṃ VI. Không Già (S.i,43)
76. ‘‘Kiṃ jīrati kiṃ na jīrati, kiṃsu uppathoti vuccati; — Ai già, ai không già? Thế nào gọi phi đạo?
Kiṃsu dhammānaṃ paripantho, kiṃsu rattindivakkhayo; Vật gì chướng ngại pháp? Vật gì đêm ngày diệt?
Kiṃ malaṃ brahmacariyassa, kiṃ sinānamanodakaṃ. Vật gì uế Phạm hạnh? Vật gì tắm không nước?
‘‘Kati lokasmiṃ chiddāni, yattha vittaṃ [cittaṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)] na tiṭṭhati; Đời bao nhiêu lỗ trống, Trên ấy, tâm không trú?
Bhagavantaṃ puṭṭhumāgamma, kathaṃ jānemu taṃ maya’’nti. Con đến hỏi Thế Tôn, Mong biết câu trả lời!
‘‘Rūpaṃ jīrati maccānaṃ, nāmagottaṃ na jīrati; — Sắc hữu tình bị già, Danh tánh lại không già,
Rāgo uppathoti vuccati. Tham dục gọi phi đạo, Tham ái, chướng ngại pháp.
‘‘Lobho dhammānaṃ paripantho, vayo rattindivakkhayo; Tuổi tác đêm, ngày diệt, Nữ nhân uế Phạm hạnh,
Itthī malaṃ brahmacariyassa, etthāyaṃ sajjate pajā; Đắm trước trong uế này, Là toàn thể chúng sanh.
Tapo ca brahmacariyañca, taṃ sinānamanodakaṃ. Khổ hạnh và Phạm hạnh, Là tắm không cần nước,
‘‘Cha lokasmiṃ chiddāni, yattha vittaṃ na tiṭṭhati; Sáu lỗ trống ở đời, Trên ấy, tâm không trú,
Ālasyañca [ālassañca (sī. pī.)] pamādo ca, anuṭṭhānaṃ asaṃyamo; Biếng nhác và phóng dật, Uể oải, không tự chế,
Niddā tandī [tandi (sī.)] ca te chidde, sabbaso taṃ vivajjaye’’ti. Thụy miên và hôn trầm, Cả sáu lỗ trống này,Cần ly khai tất cả. 
7. Issariyasuttaṃ VII. Tôn Chủ (S.i,43)
77. ‘‘Kiṃsu issariyaṃ loke, kiṃsu bhaṇḍānamuttamaṃ; — Vật gì chủ ở đời? Hàng hóa gì tối thượng?
Kiṃsu satthamalaṃ loke, kiṃsu lokasmimabbudaṃ. Vật gì làm rỉ sét, Lưỡi kiếm ở trên đời?
‘‘Kiṃsu harantaṃ vārenti, haranto pana ko piyo; Vật gì ở đời này, Tác thành cõi địa ngục?
Kiṃsu punappunāyantaṃ, abhinandanti paṇḍitā’’ti. Ai đem đi, bị chận? Ai đem đi, được ưa?
‘‘Vaso issariyaṃ loke, itthī bhaṇḍānamuttamaṃ; Ai thường xuyên đi lại, Được kẻ trí hoan hỷ?
Kodho satthamalaṃ loke, corā lokasmimabbudā. — Thế lực chủ ở đời, Nữ nhân, vật tối thượng.
‘‘Coraṃ harantaṃ vārenti, haranto samaṇo piyo; Phẫn nộ làm rỉ sét, Lưỡi kiếm ở trên đời.
Samaṇaṃ punappunāyantaṃ, abhinandanti paṇḍitā’’ti. Kẻ trộm ở đời này, Tác thành cõi địa ngục.
  Trộm đem đi, bị chận, Sa-môn đem, được ưa,
  Sa-môn thường đi lại, Được kẻ trí hoan hỷ.
8. Kāmasuttaṃ VIII. Dục (S.i,44)
78. ‘‘Kimatthakāmo na dade, kiṃ macco na pariccaje; — Nghĩ lợi, không cho ai, Con người từ bỏ gì?
Kiṃsu muñceyya kalyāṇaṃ, pāpikaṃ na ca mocaye’’ti. Thiện gì nên thốt ra? Ác gì nên ngăn chận?
‘‘Attānaṃ na dade poso, attānaṃ na pariccaje; — Con người không cho mình, Không nên từ bỏ mình,
Vācaṃ muñceyya kalyāṇaṃ, pāpikañca na mocaye’’ti. Lời thiện, nên thốt ra, Lời ác, nên ngăn chận.
9. Pātheyyasuttaṃ IX. Lương Thực (S.i,44)
79. ‘‘Kiṃsu bandhati pātheyyaṃ, kiṃsu bhogānamāsayo; — Cái gì cột lương thực? Cái gì hút tài sản?
Kiṃsu naraṃ parikassati, kiṃsu lokasmi dujjahaṃ; Cái gì lôi cuốn người? Ở đời, khó bỏ gì?
Kismiṃ baddhā puthū sattā, pāsena sakuṇī yathā’’ti. Cái gì buộc phàm nhân, Như chim bị bẫy sập?
‘‘Saddhā bandhati pātheyyaṃ, sirī bhogānamāsayo; — Lòng tin cột lương thực, Thần tài hút tài sản.
Icchā naraṃ parikassati, icchā lokasmi dujjahā; Lòng muốn lôi cuốn người, Ở đời, muốn (icchà) khó bỏ.
Icchābaddhā puthū sattā, pāsena sakuṇī yathā’’ti. Ham muốn buộc phàm nhân, Như chim bị bẫy sập.
10. Pajjotasuttaṃ X. Chớp (S.i,44)
80. ‘‘Kiṃsu lokasmi pajjoto, kiṃsu lokasmi jāgaro; — Vật gì chiếu sáng đời? Vật gì thức tỉnh đời?
Kiṃsu kamme sajīvānaṃ, kimassa iriyāpatho. Ai cọng nghiệp với người? Cử chỉ chúng là gì?
‘‘Kiṃsu alasaṃ analasañca [kiṃ ālasyānālasyañca (ka.)], mātā puttaṃva posati; Ai nuôi kẻ nhác, siêng, Như mẹ nuôi con cái?
Kiṃ bhūtā upajīvanti, ye pāṇā pathavissitā’’ti. Hữu tình gì trì mạng, Y cứ vào địa đại?
‘‘Paññā lokasmi pajjoto, sati lokasmi jāgaro; — Trí tuệ chiếu sáng đời, Chánh niệm thức tỉnh đời,
Gāvo kamme sajīvānaṃ, sītassa iriyāpatho. Bò cọng nghiệp với người, Đường cày là con đường.
‘‘Vuṭṭhi alasaṃ analasañca, mātā puttaṃva posati; Mưa nuôi kẻ nhác, siêng, Như mẹ nuôi con cái.
Vuṭṭhiṃ bhūtā upajīvanti, ye pāṇā pathavissitā’’ti. Mưa trì mạng chúng sanh, Y cứ vào địa đại.
11. Araṇasuttaṃ XI. Không Tranh Luận (S.i,44)
81. ‘‘Kesūdha araṇā loke, kesaṃ vusitaṃ na nassati; — Ai không tranh luận đời? Ai sống không hoại diệt?
Kedha icchaṃ parijānanti, kesaṃ bhojissiyaṃ sadā. Ai rõ ham muốn đời? Ai thường xuyên tự tại?
‘‘Kiṃsu mātā pitā bhātā, vandanti naṃ patiṭṭhitaṃ; Ai an trú như vậy, Cha, mẹ, anh đảnh lễ?
Kiṃsu idha jātihīnaṃ, abhivādenti khattiyā’’ti. Ai dầu có hạ sanh, Được Sát-lỵ tôn kính?
‘‘Samaṇīdha araṇā loke, samaṇānaṃ vusitaṃ na nassati; — Sa-môn không tranh đời, Sa-môn sống không diệt,
Samaṇā icchaṃ parijānanti, samaṇānaṃ bhojissiyaṃ sadā. Sa-môn rõ dục vọng, Sa-môn thường tự tại,
‘‘Samaṇaṃ mātā pitā bhātā, vandanti naṃ patiṭṭhitaṃ; Sa-môn trú như vậy, Cha, mẹ, anh kính lễ.
Samaṇīdha jātihīnaṃ, abhivādenti khattiyā’’ti. Sa-môn dầu hạ sanh, Được Sát-lỵ tôn kính.
Chetvāvaggo aṭṭhamo.  
Tassuddānaṃ –  
Chetvā rathañca cittañca, vuṭṭhi bhītā najīrati;  
Issaraṃ kāmaṃ pātheyyaṃ, pajjoto araṇena cāti.  
Devatāsaṃyuttaṃ samattaṃ.