Tipitaka.org | Việt dịch: GS. Trần Phương Lan | Việt dịch: TK. Indacanda |
Bấy giờ, đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi, trong Kỳ Viên. Thời ấy như đã nói trên, Tôn giả Mahà-Moggallàna du hành trên thiên giới, đến cõi trời Ba mươi ba. | ||
Một vị Thiên tử đang đứng ở cửa Lâu đài của chàng liền đến gần cung kính đảnh lễ Tôn giả. Thuở tiền kiếp, khi ngôi kim Tháp rộng một dặm đã được dựng để thờ xá-lợi của đức Phật Kassapa, bốn hội chúng thường đến cúng dường lễ vật. | ||
Có một cư sĩ, sau khi dâng hoa tại đó, đã chưng bày lại những bông hoa được sắp đặt vụng về, rồi làm lễ cúng lần nữa. Vị ấy lấy các hoa kia làm đề tài thiền quán và tưởng niệm các đức tính của bậc Đạo Sư, rồi đặt trọn công đức này vào lòng. | ||
Về sau lúc từ trần, nhờ uy lực của hạnh nghiệp này, vị ấy được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba với một đám tùy tùng đông đảo. Tôn giả Mahà-Moggallàna ngâm kệ hỏi vị ấy: | ||
1282. ‘‘Uccamidaṃ maṇithūṇaṃ vimānaṃ, samantato dvādasa yojanāni; Kūṭāgārā sattasatā uḷārā, veḷuriyathambhā rucakatthatā subhā. | 1. Lầu các trụ cao bằng ngọc bích,. Mười hai dặm trải rộng chung quanh, Bảy trăm nóc nhọn huy hoàng quá, Trụ ngọc nền vàng thật hiển vinh. | 1284. “Thiên cung này cao, có cây trụ chống bằng ngọc ma-ni, ở xung quanh mười hai do-tuần, có bảy trăm ngôi nhà mái nhọn cao sang với các cây cột làm bằng ngọc bích, được trải lót bằng vàng, xinh đẹp. |
1283. ‘‘Tatthacchasi pivasi khādasi ca, dibbā ca vīṇā pavadanti vagguṃ; Dibbā rasā kāmaguṇettha pañca, nāriyo ca naccanti suvaṇṇachannā. | 2. Chàng uống ăn, cư trú lạc an,. Khi đàn tiên trổi khúc du dương, Đây là thiên vị, năm thiên lạc, Tiên nữ múa, trang điểm ngọc vàng. | 1285. Ở nơi ấy, ngươi trú ngụ, ngươi uống, và ngươi ăn. Có các cây đàn vīṇā thuộc cõi Trời phát ra âm thanh ngọt ngào, có các vị nếm thuộc cõi Trời, ở đây có năm loại dục lạc, và có các phụ nữ trang phục bằng vàng nhảy múa. |
1284. ‘‘Kena tetādiso vaṇṇo, kena te idha mijjhati; Uppajjanti ca te bhogā, ye keci manaso piyā. | 3. Vì sao chàng được sắc như vầy,. Vì cớ gì chàng vinh hiển đây, Những lạc thú nào chàng mến chuộng Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay? | 1286. Do điều gì ngươi có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho ngươi ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho ngươi? |
1285. ‘‘Pucchāmi ‘taṃ deva mahānubhāva, manussabhūto kimakāsi puññaṃ; Kenāsi evaṃ jalitānubhāvo, vaṇṇo ca te sabbadisā pabhāsatī’’ti. | 4. Hỡi chàng Thiên tử đại oai thần,. Chàng tạo đức gì giữa thế nhân, Vì cớ gì oai nghi rực rỡ, Dung quang chiếu sáng khắp mười phương? | 1287. Hỡi Thiên nhân có đại oai lực, ta hỏi ngươi: ‘Khi là con người, ngươi đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà ngươi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của ngươi chiếu sáng khắp các phương?’” |
Vị Thiên tử ngâm kệ nói về hạnh nghiệp đã làm. Các vị kết tập Kinh điển giải thích việc này: | ||
1286. So devaputto attamano, moggallānena pucchito; Pañhaṃ puṭṭho viyākāsi, yassa kammassidaṃ phalaṃ. | 5. Chàng Thiên tử ấy hỷ tâm tràn,. Được Mục-liên Tôn giả hỏi han, Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp, Và đây là kết quả cho chàng: | 1288. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào: |
1287. ‘‘Dunnikkhittaṃ mālaṃ sunikkhipitvā, patiṭṭhapetvā sugatassa thūpe; Mahiddhiko camhi mahānubhāvo, dibbehi kāmehi samaṅgibhūto. | 6. Khi sắp đặt xong một chuỗi hoa. Mà người đã sắp đặt qua loa, Rồi dâng hoa tại ngôi kim Tháp Đấng Thiện Thệ là Kas-sa-pa, Con đắc đại thần thông, đại lực, Hưởng đầy thiên lạc cõi Băm-ba. | 1289. “Sau khi khéo đặt xuống tràng hoa đã được đặt xuống cẩu thả, sau khi sắp đặt nó ở ngôi bảo tháp của đấng Thiện Thệ, tôi trở nên có đại thần lực và có đại oai lực, được thọ hưởng các dục ở cõi Trời. |
1288. ‘‘Tena metādiso vaṇṇo, Tena me idha mijjhati; Uppajjanti ca me bhogā, Ye keci manaso piyā. | 7. Vì vậy sắc con đẹp thế này,. Và con vinh hiển ở nơi đây, Bất kỳ lạc thú nào trong dạ Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay. | 1290. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi. |
1289. ‘‘Akkhāmi te bhikkhu mahānubhāva, Manussabhūto yamahaṃ akāsiṃ; Tenamhi evaṃ jalitānubhāvo, Vaṇṇo ca me sabbadisā pabhāsatī’’ti. | 8. Xin trình Tôn giả đại oai thần,. Công đức con làm giữa thế nhân, Vì thế oai nghi con rực rỡ, Dung quang chiếu sáng khắp mười phương. | 1291. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.” |
Sunikkhittavimānaṃ ekādasamaṃ. | Tổng Kết | Phẩm Khéo Đặt Xuống là thứ bảy. |
Sunikkhittavaggo sattamo niṭṭhito. | – Lâu đài Hai Người Nghèo, Hai Tinh Xá. | TÓM LƯỢC PHẨM NÀY |
Tassuddānaṃ – | – Một Người làm thuê, Một Kẻ Chăn Bò, Kanthaka. | (Chuyện) hai người nghèo khó, hai trú xá, kẻ làm thuê, người chăn bò, con ngựa Kanthaka, (Thiên cung) nhiều màu sắc, Maṭṭakuṇḍalī, Serissaka, (Thiên cung) khéo đặt xuống; là phẩm thứ ba của những người nam.” |
Dve daliddā vanavihārā, bhatako gopālakaṇḍakā; | – Lâu đài Nhiều Màu Sắc, Mattakundalin, Serissaka, Sunikkhitta. | TỤNG PHẨM THỨ TƯ. |
Anekavaṇṇamaṭṭhakuṇḍalī, serīsako sunikkhittaṃ; | Đó là Phẩm thứ Bảy về Lâu đài Nam giới. | |
Purisānaṃ tatiyo vaggo pavuccatīti. | Phẩm Thứ Tư Để Phúng Tụng | |
Bhāṇavāraṃ catutthaṃ niṭṭhitaṃ. | ||
Vimānavatthupāḷi niṭṭhitā. |