Tipitaka.org | Việt dịch: GS. Trần Phương Lan | Việt dịch: TK. Indacanda |
Bấy giờ, đức Thế Tôn trú ở Savàtthi, trong Kỳ Viên. Và Tôn giả Mahà-Moggallàna đang du hành cõi trời Ba mươi ba, thấy một Thiên tử tên Gopàla vừa rời Lâu đài bước lên cỗ xe uy nghi của chàng để nhàn du trong vườn Thiên lạc. Vị Thiên tử thấy Tôn giả, liền xuống xe và đứng trước Ngài, chắp tay đảnh lễ. | ||
Tôn giả Mahà Moggallàna hỏi chàng: | ||
1015. ‘‘Sahassayuttaṃ hayavāhanaṃ subhaṃ, āruyhimaṃ sandanaṃ nekacittaṃ; Uyyānabhūmiṃ abhito anukkamaṃ, purindado bhūtapatīva vāsavo. | 1. Trên xe tô điểm biết bao màu,. Tráng lệ với thiên mã dẫn đầu, Đang tiến bước về vườn Hỷ lạc, Hình chàng chiếu sáng giữa trời cao, Giống như thí chủ đầy hào phóng, Thiên chủ Va-sa-va thuở nào. | 1016. “Ngươi bước lên cỗ xe xinh đẹp được tô điểm nhiều màu sắc này, chiếc xe ngựa được kéo bởi một ngàn con, đang di chuyển lân cận khu vực vườn hoa, (ngươi) tựa như Vāsava,[8] vị Chúa của chư Thiên, đấng chủ tể của các sanh linh. |
1016. ‘‘Sovaṇṇamayā te rathakubbarā ubho, phalehi [thalehi (sī.)] aṃsehi atīva saṅgatā; Sujātagumbā naravīraniṭṭhitā, virocatī pannaraseva cando. | 2. Càng xe chàng được đúc bằng vàng,. Cân đối sườn, vai thật nhịp nhàng, Trụ đúc tinh vi nhờ thợ khéo, Như trăng rằm chiếu ánh hào quang. | 1017. Cả hai bên sườn cỗ xe của ngươi được làm bằng vàng, được kết hợp chặt chẽ với những thanh đứng và những thanh ngang, có cái khung được tạo ra khéo léo, đã được hoàn tất bởi nghệ nhân bậc thầy; (cỗ xe) chói sáng tựa như mặt trăng ngày rằm. |
1017. ‘‘Suvaṇṇajālāvatato ratho ayaṃ, bahūhi nānāratanehi cittito; Sunandighoso ca subhassaro ca, virocatī cāmarahatthabāhubhi. | 3. Xe này được phủ lưới bằng vàng,. Rực rỡ nhiều châu ngọc điểm trang Lấp lánh, tạo âm thanh dịu nhẹ Sáng ngời nhờ lắm quạt tay mang. | 1018. Được phủ lên với mạng lưới bằng vàng, được tô điểm với nhiều loại châu ngọc khác nhau, có âm thanh vô cùng vui tai, và vô cùng rực rỡ, cỗ xe này chói sáng với những cánh tay và bàn tay (đang phe phẩy) những cây phất trần. |
1018. ‘‘Imā ca nābhyo manasābhinimmitā, rathassa pādantaramajjhabhūsitā; Imā ca nābhyo satarājicittitā, sateratā vijjurivappabhāsare. | 4. Trục xe thiết kế thật cầu kỳ,. Và được trang hoàng giữa bánh xe, Các trục được tô trăm nét vẽ, Sáng ngời như chớp lóe trăm tia. | 1019. Và các ổ trục này (của các bánh xe) đã được biến hóa ra bởi ý, được trang hoàng ở khoảng giữa bên trong các chân của cỗ xe; và các ổ trục này được tô điểm với hàng trăm nét vẽ, chúng chiếu sáng với hàng trăm tia sáng, tựa như tia chớp. |
1019. ‘‘Anekacittāvatato ratho ayaṃ, puthū ca nemī ca sahassaraṃsiko; Tesaṃ saro suyyati [sūyati (sī.)] vaggurūpo, pañcaṅgikaṃ turiyamivappavāditaṃ. | 5. Xe được phủ đầy các loại tranh,. Khung xe rộng chiếu cả ngàn hình, Âm thanh kỳ diệu nghe từ đó Chẳng khác đàn năm thứ hợp thành. | 1020. Cỗ xe này được trải lên với vô số tranh vẽ, và vành bánh xe là to rộng có ngàn ánh hào quang; âm thanh của chúng có nét dễ thương được nghe tựa như nhạc cụ gồm năm loại đã được tấu lên. |
1020. ‘‘Sirasmiṃ cittaṃ maṇicandakappitaṃ, sadā visuddhaṃ ruciraṃ pabhassaraṃ; Suvaṇṇarājīhi atīva saṅgataṃ, veḷuriyarājīva atīva sobhati. | 6. Mặt tiền xe ấy được trang hoàng. Châu ngọc theo hình dáng mặt trăng, Thanh tịnh hào quang luôn chiếu sáng, Chứa tia vàng óng ánh tràn lan, Tỏa ra như thể cùng hòa lẫn Tia ngọc xanh xanh thật dịu dàng. | 1021. Đã được tô điểm ở phần đầu, được sửa soạn với mặt trăng bằng ngọc ma-ni, luôn luôn được trong sạch, đáng yêu, rực rỡ, được kết hợp dày đặc với các tia sáng bằng vàng, (cỗ xe) chói sáng nổi bật, tựa như có các tia sáng màu ngọc bích. |
1021. ‘‘Ime ca vāḷī maṇicandakappitā, ārohakambū sujavā brahūpamā. Brahā mahantā balino mahājavā, mano tavaññāya tatheva siṃsare [sabbare (ka.), sappare (?)]. | 7. Cả đàn tuấn mã được trang hoàng. Châu ngọc theo hình dáng mặt trăng, Cổ ngựa ngẩng cao đầy tốc lực, Thân hình cao lớn, thật hùng cường, Phi nhanh khi chúng vừa hay biết Ý muốn gì trong trí của chàng. | 1022. Và những con ngựa này, được sửa soạn với mặt trăng bằng ngọc ma-ni, cao to, có tốc độ nhanh, tương xứng với số đông, khổng lồ, vĩ đại, có sức mạnh, có tốc lực lớn lao, sau khi biết được tâm ý của ngươi, chúng di chuyển theo y như thế. |
1022. ‘‘Ime ca sabbe sahitā catukkamā, mano tavaññāya tatheva siṃsare; Samaṃ vahantā mudukā anuddhatā, āmodamānā turagāna [turaṅgāna (ka.)] muttamā. | 8. Tứ chi đàn ngựa khéo hòa đồng. Phi vút nhanh khi biết ý chàng, Chúng rước chàng đi êm ái quá, Ngựa thuần dễ dạy, chẳng hung hăng, Chúng hân hoan kéo xe tiên ấy, Tối thượng giữa loài ngựa bốn chân. | 1023. Và tất cả những con vật bốn chân này đã được phối hợp, sau khi biết được tâm ý của ngươi chúng di chuyển theo y như thế. Chúng kéo (cỗ xe) một cách đồng đều, chúng nhu thuận, không náo động, vui tính, là hạng nhất trong các loài ngựa. |
1023. ‘‘Dhunanti vagganti patanti [pavattanti (pī. ka.)] cambare, abbhuddhunantā sukate piḷandhane; Tesaṃ saro suyyati vaggurūpo, pañcaṅgikaṃ turiyamivappavāditaṃ. | 9. Chuyển động quay cuồng giữa cõi không,. Chúnh cùng nhảy nhót lại khua rân Cân đai phát tiếng nghe kỳ diệu, Chẳng khác đàn năm thứ họa đồng. | 1024. Chúng giũ (lông), phi nhanh, phóng vào khoảng không, trong lúc làm rung chuyển dữ dội các vật trang sức đã khéo được thực hiện; âm thanh của chúng có nét dễ thương được nghe tựa như nhạc cụ gồm năm loại đã được tấu lên. |
1024. ‘‘Rathassa ghoso apiḷandhanāna ca, khurassa nādo [nādī (syā.), nādi (pī. ka.)] abhihiṃsanāya ca; Ghoso suvaggū samitassa suyyati, gandhabbatūriyāni vicitrasaṃvane. | 10. Tiếng xe cùng với tiếng cân đai,. Tiếng vó câu và ngựa hí dài, Âm thanh kỳ diệu nghe từ đó Như nhạc vườn Thiên lạc tuyệt vời. | 1025. Âm vang của cỗ xe và của những vật trang sức, tiếng gầm của vó ngựa và của tiếng hí vang, âm thanh vô cùng dễ thương của (đám đông) đã hội tụ lại được nghe (tựa như) những nhạc cụ của các nhạc sĩ Thiên đình ở khu rừng nhiều màu sắc. |
1025. ‘‘Rathe ṭhitā tā migamandalocanā, āḷārapamhā hasitā piyaṃvadā; Veḷuriyajālāvatatā tanucchavā, sadeva gandhabbasūraggapūjitā. | 11. Mắt nhìn e thẹn, dáng linh dương,. Tiên nữ trong xe đứng một đàn, Đôi mí mắt dày,cười mỉm miệng, Làn da láng mướt, giọng oanh vàng, Khoác xiêm y kết đầy lam ngọc, Được các Nhạc thần kính lễ luôn. | 1026. Các nàng (tiên nữ) ấy đứng ở cỗ xe, có những cặp mắt lim dim của loài nai, có hàng mi dày, cười đùa, có lời nói đáng yêu, được che phủ với mạng lưới bằng ngọc bích, có làn da mảnh mai, vẫn luôn luôn được tôn vinh bởi các nhạc sĩ Thiên đình và các vị đứng đầu chư Thiên. |
1026. ‘‘Tā rattarattambarapītavāsasā, visālanettā abhirattalocanā; Kule sujātā sutanū sucimhitā, rathe ṭhitā pañjalikā upaṭṭhitā. | 12. Y phục quần tiên sắc đỏ, vàng,. Mắt to màu đỏ sẫm, cao sang, Hình dung yểu điệu, cười duyên dáng, Tay chắp trên xe hộ tống chàng. | 1027. Các nàng ấy, với tấm vải màu đỏ và y phục màu vàng quyến rũ, có cặp mắt to, với con mắt đỏ rực, đã được sanh ra tốt đẹp ở dòng dõi cao sang, có thân hình xinh xắn, có nụ cười vô tư, đứng ở cỗ xe, tay chắp lại, đã được sẵn sàng. |
1027. ‘‘Tā kambukeyūradharā suvāsasā, sumajjhimā ūruthanūpapannā; Vaṭṭaṅguliyo sumukhā sudassanā, rathe ṭhitā pañjalikā upaṭṭhitā. | 13. Xiêm y rực rỡ, chuỗi vòng vàng,. Khả ái toàn thân, ngón búp măng, Diễm lệ dung nhan, tiên chúng ấy Trên xe, tay chắp, đứng hầu chàng. | 1028. Các nàng ấy có mang vòng xuyến bằng vàng, có y phục đẹp, có vòng eo đẹp, đùi và ngực đầy đặn, có các ngón tay tròn, khuôn mặt đẹp, có nét xinh xắn, đứng ở cỗ xe, tay chắp lại, đã được sẵn sàng. |
1028. ‘‘Aññā suveṇī susu missakesiyo, samaṃ vibhattāhi pabhassarāhi ca; Anubbatā tā tava mānase ratā, rathe ṭhitā pañjalikā upaṭṭhitā. | 14. Vài nàng ngọc nữ lại trang hoàng. Các cuộc tóc tiên kết gọn gàng, Rực rỡ, sẵn sàng làm đẹp ý, Trên xe, tay chắp, đứng hầu chàng. | 1029. Những nàng khác, trẻ trung, có những bím tóc đẹp, có các sợi tóc được tết vào nhau, và (những cuộn tóc) được phân chia đồng đều, rực rỡ. Các nàng ấy phục tùng, vui thích theo ý định của ngươi, đứng ở cỗ xe, tay chắp lại, đã được sẵn sàng. |
1029. ‘‘Āveḷiniyo padumuppalacchadā, alaṅkatā candanasāravāsitā [vositā (syā.), bhūsitā (ka.)]; Anubbatā tā tava mānase ratā, rathe ṭhitā pañjalikā upaṭṭhitā. | 15. Xanh, đỏ, đóa sen khéo điểm trang,. Vòng hoa đầu đội, ngát mùi hương, Chiên-đàn đệ nhất thơm ngào ngạt, Làm đẹp lòng, tuân lệnh sẵn sàng, Đang ở trên xe, tay chắp lại, Cả đàn tiên nữ đứng hầu chàng. | 1030. Các nàng có những vòng hoa đội đầu được phủ lên với các sen hồng sen xanh, đã được trang điểm, đã được bôi thơm với tinh chất của trầm hương. Các nàng ấy phục tùng, vui thích theo ý định của ngươi, đứng ở cỗ xe, tay chắp lại, đã được sẵn sàng. |
1030. ‘‘Tā māliniyo padumuppalacchadā, alaṅkatā candanasāravāsitā; Anubbatā tā tava mānase ratā, rathe ṭhitā pañjalikā upaṭṭhitā. | 16. Đóa sen xanh, đỏ khéo trang hoàng,. Cùng các tràng hoa, hương tỏa lan Đệ nhất chiên-đàn thơm sực nức, Sẵn sàng tuân lệnh, đẹp lòng chàng, Trên xe, đang đứng, hai tay chắp, Hộ tống chàng, tiên nữ cả đàn. | 1031. Các nàng ấy có những tràng hoa được phủ lên với các sen hồng sen xanh, đã được trang điểm, đã được bôi thơm với tinh chất của trầm hương. Các nàng ấy phục tùng, vui thích theo ý định của ngươi, đứng ở cỗ xe, tay chắp lại, đã được sẵn sàng. |
1031. ‘‘Kaṇṭhesu te yāni piḷandhanāni, hatthesu pādesu tatheva sīse; Obhāsayantī dasa sabbaso disā, abbhuddayaṃ sāradikova bhāṇumā. | 17. Các món trang hoàng trên cổ vai,. Tay, chân, đầu tóc lẫn đôi tai, Làm mười phương thảy đều bừng sáng, Như nắng mùa thu chiếu rạng ngời. | 1032. Các vật trang sức ở cổ, ở các bàn tay, ở các bàn chân, tương tự y như thế ở đầu, khiến cho mười phương chiếu sáng toàn bộ, tựa như mặt trời mùa thu đang mọc lên. |
1032. ‘‘Vātassa vegena ca sampakampitā, bhujesu mālā apiḷandhanāni ca; Muñcanti ghosaṃ rūciraṃ suciṃ subhaṃ, sabbehi viññūhi sutabbarūpaṃ. | 18. Lay động theo làn gió nhẹ nhàng,. Vòng hoa tay với các kim hoàn Phát ra âm hưởng toàn trong trẻo, Thánh thót làm mê mẩn các nàng, Đối với mọi người nào hiểu biết, Tiếng này êm dịu nhất trần gian. | 1033. Và bị lay động bởi lực đẩy của làn gió, các tràng hoa và các vật trang sức ở các cánh tay phát ra âm thanh đáng yêu, trong trẻo, mỹ miều, có vẻ đáng được lắng nghe bởi tất cả những người có sự nhận thức. |
1033. ‘‘Uyyānabhūmyā ca duvaddhato ṭhitā, rathā ca nāgā tūriyāni ca saro; Tameva devinda pamodayanti, vīṇā yathā pokkharapattabāhubhi. | 19. Trong vườn Thiên lạc cả hai bên,. Xa, tượng, và dàn nhạc trổi lên, Khiến chàng hoan hỷ, này tiên chúa, Như phiếm đàn tơ với lục huyền. | 1034. Này vị chúa của chư Thiên, các cỗ xe và những con long tượng đứng ở hai bên tại khu đất của vườn hoa, cùng các nhạc cụ và âm thanh làm cho chính ngươi được vui thích, giống như cây đàn vīṇā với mặt đàn, bầu đàn, và cần đàn (làm mọi người được vui thích). |
1034. ‘‘Imāsu vīṇāsu bahūsu vaggūsu, manuññarūpāsu hadayeritaṃ pītiṃ [hadayeritaṃ pati (sī.), hadayeritampi taṃ (syā.)]; Pavajjamānāsu atīva accharā, bhamanti kaññā padumesu sikkhitā. | 20. Trong khi đang trổi các huyền cầm,. Mỹ lệ, dáng đàn đẹp mắt trông, Khơi dậy trong lòng bao hỷ lạc, Các tiên nữ khéo luyện tinh thông, Đứng trên các đóa hoa sen nở, Lã lướt tự nhiên, múa lượn vòng. | 1035. Này vị chúa tể, trong khi các cây đàn vīṇā này, gồm nhiều loại, dễ thương, có hình dáng làm hài lòng, đang được tấu lên dồn dập, gây xáo động trái tim, các nàng tiên nữ, các cô gái đã được học tập, nhởn nhơ giữa các đóa sen. |
1035. ‘‘Yadā ca gītāni ca vāditāni ca, naccāni cimāni [cemāni (sī.)] samenti ekato; Athettha naccanti athettha accharā, obhāsayantī ubhato varitthiyo. | 21. Và khi vũ điệu đã hòa đàn,. Cùng được diễn bày, ca hát vang Đây đó trong xe chàng, hội chúng Các nàng tiên nữ thật huy hoàng, Làm mười phương thảy đều bừng sáng, Cùng múa hai bên thật nhịp nhàng. | 1036. Và khi các bài ca, các khúc nhạc, và các vũ công này hợp chung lại thành một, khi ấy ở nơi này họ nhảy múa, khi ấy ở nơi này các tiên nữ, những phụ nữ cao quý đang làm cho cả hai nơi chiếu sáng. |
1036. ‘‘So modasi turiyagaṇappabodhano, mahīyamāno vajirāvudhoriva; Imāsu vīṇāsu bahūsu vaggūsu, manuññarūpāsu hadayeritaṃ pītiṃ. | 22. Chàng hưởng lạc theo nhạc cả dàn,. Khác nào Thiên chủ đại vinh quang Tay cầm bảo trượng thiên lôi ấy, Lòng rộn niềm vui với tiếng đàn. | 1037. Ngươi đây vui thích, với sự đánh thức bởi các nhóm nhạc cụ, trong khi đang được nể vì tựa như vị (thần Inda) có tia sét là vũ khí. Này vị chúa tể, có sự gây xáo động trái tim ở nơi các cây đàn vīṇā gồm nhiều loại, dễ thương, có hình dáng làm hài lòng này. |
1037. ‘‘Kiṃ tvaṃ pure kammamakāsi attanā, manussabhūto purimāya jātiyā; Uposathaṃ kaṃ vā [uposathaṃ kiṃ va (syā.)] tuvaṃ upāvasi, kaṃ [kiṃ (syā.)] dhammacariyaṃ vatamābhirocayi. | 23. Thiện nghiệp gì chàng đã thực hành. Ở trong kiếp trước giữa quần sanh, Phải chàng giữ giới hay hoan hỷ Sống chánh chân, tu tập pháp lành? | 1038. Trước đây, ngươi đã tự mình tạo nghiệp gì, khi là con người ở kiếp sống trước đây? Hay là ngươi đã hành trì ngày trai giới nào, đã say mê sự thực hành pháp, sự hành trì nào? |
1038. ‘‘Nayīdamappassa katassa [nayidaṃ appassa katassa (sī. syā.), sāsedaṃ appakatassa (ka.)] kammuno, pubbe suciṇṇassa uposathassa vā; Iddhānubhāvo vipulo ayaṃ tava, yaṃ devasaṅghaṃ abhirocase bhusaṃ. | 24. Cảnh này vinh hiển đại oai thần,. Chàng vượt xa Thiên chúng bội phần, Không thể phát sinh từ việc nhỏ, Hoặc do Trai giới giữ tinh cần. | 1039. Năng lực thần thông lớn lao này của ngươi, điều này không phải là của nghiệp nhỏ nhoi đã được làm, hoặc của ngày trai giới đã được hoàn thành tốt đẹp trong quá khứ, bởi vì ngươi tỏa sáng vượt trội hội chúng chư Thiên. |
1039. ‘‘Dānassa te idaṃ phalaṃ, atho sīlassa vā pana; Atho añjalikammassa, taṃ me akkhāhi pucchito’’ti. | 25. Hay quả này do việc cúng dường,. Hay do giữ giới luật thông thường, Hoặc do đảnh lễ đầy cung kính? Được hỏi, xin cho biết hỡi chàng! | 1040. Quả báo này của ngươi là do sự bố thí, hay là do giới hạnh, hoặc của hành động chắp tay? Được hỏi, xin ngươi hãy giải thích điều ấy cho ta.” |
Vị Thiên tử giải thích vấn đề khi được Đại Trưởng lão hỏi: | ||
1040. So devaputto attamano, moggallānena pucchito; Pañhaṃ puṭṭho viyākāsi, yassa kammassidaṃ phalanti. | 26. Chàng Thiên tử ấy kỷ tâm tràn,. Được Mục-liên Tôn giả hỏi han, Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp, Và đây là kết quả cho chàng: | 1041. Vị Thiên tử ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, vị ấy đã nói rõ quả báo này là của nghiệp nào: |
1041. ‘‘Jitindriyaṃ buddhamanomanikkamaṃ, naruttamaṃ kassapamaggapuggalaṃ; Avāpurantaṃ amatassa dvāraṃ, devātidevaṃ satapuññalakkhaṇaṃ. | 27. Điều phục các căn, đức Phật-đà,. Viên thành trí lực, Kas-sa-pa, Là người vô thượng trên nhân giới, Cửa Bất tử Ngài đã mở ra, Thiên đế tối cao trên thượng giới, Mang trăm tướng phước đức sâu xa. | 1042. “Đức Phật Kassapa, vị có giác quan đã được chế ngự, có sự ra đi tuyệt vời, đấng Tối Thượng Nhân, nhân vật cao cả, bậc đang mở ra cánh cửa Bất Tử ấy, vị Trời vượt trội các vị Trời, có trăm dấu hiệu phước báu. |
1042. ‘‘Tamaddasaṃ kuñjaramoghatiṇṇaṃ, suvaṇṇasiṅgīnadabimbasādisaṃ; Disvāna taṃ khippamahuṃ sucīmano, tameva disvāna subhāsitaddhajaṃ. | 28. Con thấy Ngài, vương tượng đại hùng,. Như vòng vàng ánh, vượt qua dòng, Thấy Ngài, tâm trí con an tịnh, Ngài, vị thiện ngôn thật lẫy lừng. | 1043. Tôi đã nhìn thấy Ngài, đấng Khổng Tượng, người đã vượt qua dòng nước lũ, tương tự hình tượng bóng láng bằng vàng. Sau khi nhìn thấy Ngài, sau khi nhìn thấy chính biểu hiện của (Giáo Pháp) đã khéo được thuyết giảng ấy, tôi đã tức thời trở nên có tâm ý trong sạch. |
1043. ‘‘Tamannapānaṃ athavāpi cīvaraṃ, suciṃ paṇītaṃ rasasā upetaṃ; Pupphābhikkiṇamhi sake nivesane, patiṭṭhapesiṃ sa asaṅgamānaso. | 29. An tịnh, con đi trải tọa sàng. Đầy hoa được rải rắc trang hoàng, Dâng Ngài đủ các thức ăn uống, Y phục tối ưu để cúng dường. | 1044. Ở nơi trú ngụ của mình đã được trải lót bông hoa, tôi đây, với tâm ý không có sự ràng buộc, đã cống hiến đến Ngài cơm ăn, nước uống, và luôn cả y phục sạch sẽ, hảo hạng, được thành tựu phẩm chất. |
1044. ‘‘Tamannapānena ca cīvarena ca, khajjena bhojjena ca sāyanena ca; Santappayitvā dvipadānamuttamaṃ, so saggaso devapure ramāmahaṃ. | 30. Sau khi con đã cúng dường xong. Ngài, bậc tối cao giữa thế nhân, Y phục, tọa sàng và thực phẩm, Loại mềm, loại cứng đủ cần dùng, Con an hưởng tại thành thiên giới, Giữa các cõi thiên mãi chuyển luân. | 1045. Sau khi làm toại ý bậc Tối Thượng của các loài hai chân ấy với cơm ăn, với nước uống, và với y phục, với vật nhai, với thức ăn, và với cao lương mỹ vị, tôi đây vui sướng ở thành phố của chư Thiên theo tuần tự của các cõi Trời. |
1045. ‘‘Etenupāyena imaṃ niraggaḷaṃ, yaññaṃ yajitvā tividhaṃ visuddhaṃ. Pahāyahaṃ mānusakaṃ samussayaṃ, indūpamo [indassamo (syā. ka.)] devapure ramāmahaṃ. | 31. Khi đã dâng lên lễ cúng Ngài. Dồi dào phẩm vật cách như vầy, Ba lần thanh tịnh, con từ bỏ Thể xác phàm trần tại chỗ đây, Con hưởng an vui thiên lạc phố Khác nào Thiên chủ In-da này. | 1046. Bằng cách thức này, sau khi dâng hiến việc hiến dâng này không có sự ngần ngại, được trong sạch theo ba cách, sau khi lìa bỏ xác thân nhân loại, tôi vui sướng ở thành phố của chư Thiên tương tự như vị Thần Inda. |
1046. ‘‘Āyuñca vaṇṇañca sukhaṃ balañca, paṇītarūpaṃ abhikaṅkhatā muni; Annañca pānañca bahuṃ susaṅkhataṃ, patiṭṭhapetabbamasaṅgamānase. | 32. Thọ mạng, dung nhan, lạc, tráng cường,. Kẻ nào mong muốn tối cao sang, Hãy đem thực phẩm đầy thanh tịnh Dâng cúng lên người trí tịnh an. | 1047. Thưa bậc hiền trí, người đang mong mỏi tuổi thọ, sắc đẹp, hạnh phúc, và sức mạnh có hình thức hảo hạng, nên cống hiến nhiều cơm ăn nước uống đã khéo được chuẩn bị ở bậc có tâm ý không có sự ràng buộc. |
1047. [kathā. 799]‘‘Nayimasmiṃ loke parasmiṃ [nayimasmiṃ vā loke parasmiṃ (kathāvatthu 799), nayimasmi loke va parasmi (?)] vā pana, buddhena seṭṭho va samo va vijjati; Āhuneyyānaṃ [yamāhuneyyānaṃ (ka.)] paramāhutiṃ gato, puññatthikānaṃ vipulapphalesina’’nti. | 33. Chẳng phải đời này hoặc kiếp sau,. Có ai bằng Phật hoặc hơn đâu, Với người mong quả nhờ công đức, Ngài trở thành hình tượng tối cao Giữa những bậc hiền nhân xứng đáng Với lời nguyện ước đạt mong cầu. | 1048. Ở thế gian này hay là ở đời kế tiếp đi nữa, người đã đi đến trạng thái nên được hiến cúng, xứng đáng với sự hiến cúng tối thượng, (đã đi đến) sự tồn tại ở quả báo to lớn đối với những người mong mỏi phước báu, người là bậc tốt hơn hay tương đương với đức Phật không được biết đến.” |
Trong khi chàng nói như vậy, Trưởng lão biết tâm trí chàng đã sẵn sàng không có gì trở ngại, liền thuyết giảng các Thánh Đế và vào lúc kết thúc, Tôn giả an trú chàng vào quả Dự Lưu. | ||
Sau đó, khi trở về cõi người, Trưởng lão trình đức Thế Tôn câu chuyện giữa Tôn giả và Thiên tử kia. Bậc Đạo Sư lấy đề tài ấy làm cơ hội thuyết pháp cho hội chúng đang có mặt lúc bấy giờ. | ||
Mahārathavimānaṃ cuddasamaṃ. | Tổng Kết | Phẩm Cỗ Xe Lớn là thứ năm. |
Mahārathavaggo pañcamo niṭṭhito. | Lâu đài Con nhái, Revatì, Con cua, | TÓM LƯỢC PHẨM NÀY |
Tassuddānaṃ – | Người giữ cửa, Hai Công đức thù thắng, | (Chuyện Thiên tử) Ếch, Revatī, Chatta, (xúp) cua, người giữ cửa, hai việc nên làm, hai (chuyện) cây kim, ba (chuyện) long tượng, và hai (chuyện) cỗ xe; được gọi là phẩm thứ nhất của những người nam.” |
Maṇḍūko revatī chatto, kakkaṭo dvārapālako; | Hai cây kim, Ba con voi, và Hai cỗ xe, | TỤNG PHẨM THỨ BA. |
Dve karaṇīyā dve sūci, tayo nāgā ca dve rathā; | Phẩm Lâu đài Nam giới được biết qua các chuyện này. | |
Purisānaṃ paṭhamo vaggo pavuccatīti. | Phẩm Thứ Ba Để Phúng Tụng | |
Bhāṇavāraṃ tatiyaṃ niṭṭhitaṃ. |