12. Rajjumālāvimānavatthu
12. (50) Chuyện thứ mười hai – Lâu Đài Của Rajjumàlà
Thiên Cung của Rajjumālā
Tipitaka.org Việt dịch: GS. Trần Phương Lan Việt dịch: TK. Indacanda
  Thời ấy, đức Thế Tôn trú tại Sàvatthi, trong Kỳ Viên tinh xá. Bấy giờ ở một ngôi làng nhỏ vùng Gayà có một Bà-la-môn gả con gái cho con trai một Bà-la-môn khác. Nàng dâu về nắm quyền hành trong nhà ấy, ngay từ đầu đã sinh lòng ác cảm với con gái của một nữ tỳ, nên thường đánh mắng nhục mạ cô bé.  
  Khi cô bé lớn dần, nàng dâu lại đối xử tàn tệ hơn nữa (tục truyền rằng vào thời đức Phật Kassapa, hai nàng này đã có mối liên hệ ngược với hiện tại).  
  Để đề phòng việc cô chủ kéo tóc mình mỗi khi đánh đập, cô bé nữ tỳ đến tiệm cắt tóc nhờ cạo trọc đầu. Sau đó cô chủ đang cơn giận dữ bảo rằng cô bé kia chẳng có thể thoát khỏi tay mình bằng cách cạo đầu, liền buộc một sợi dây quanh cổ cô bé và kéo cô ngã xuống, rồi lại không chịu để cô bé tháo dây ra, từ đó cô bé có tên Rajjumàlà: Vòng dây đeo cổ.  
  Bấy giờ một ngày kia, bậc Đạo Sư vừa xuất định Đại bi, thấy Rajjumàlà có đầy đủ khả năng đạt quả Dự Lưu, bèn đến ngồi dưới một gốc cây tỏa hào quang rực rỡ.  
  Lúc ấy cô bé Rajjumàlà khốn khổ kia chỉ muốn chết, cầm chiếc ghè đi ra đường giả vờ lấy nước và tìm một cây để treo cổ. Khi thấy đức Phật, với tâm hướng về Ngài, cô suy nghĩ: ‘Ví thử đức Thế Tôn thuyết pháp cho những người như ta thì sao? Ta có thể được giải thoát khỏi cuộc đời khốn cùng này’.  
  Đức Phật xem xét kỹ, liền gọi cô:  
  – Rajjumàlà!  
  Cô bé như được tắm nước cam lồ, vội đến gần đảnh lễ Ngài. Ngài dạy cô Tứ Đế và cô đắc quả Dự Lưu. Kế đó Ngài đi vào làng và ngồi dưới gốc cây khác.  
  Bấy giờ cô bé không thể tự hủy hoại mình nữa, bèn suy nghĩ với lòng nhẫn nhục, thân thiện và từ ái: ‘Thôi cứ để mặc cho bà chủ Bà-la-môn này đánh đập, làm tổn thương ta thế nào tùy ý’. Rồi cô trở về lấy nước vào ghè.  
  Ông chủ nhà đứng ở cửa bảo:  
  – Cô đã đi lấy nước thật lâu và mặt lại rạng rỡ thế kia. Ta thấy cô có vẻ hoàn toàn khác hẳn, có việc gì vậy?  
  Cô bé kể chuyện cho chủ, ông hài lòng và bước vào bảo cô dâu:  
  – Thôi con đừng làm gì Rajjumàlà nữa.  
  Rồi ông vội vàng đi đến yết kiến bậc Đạo Sư và cung kính mời Ngài thọ thực. Sau đó, cả ông cùng dâu con trong nhà đi vào ngồi cạnh bậc Đạo Sư. Ngài kể cho họ việc xảy ra kiếp trước giữa cô dâu và Rajjumàlà, cùng với một bài thuyết pháp thích hợp. Sau đó Ngài trở về Sàvatthi, còn vị Bà-la-môn nhận Rajjumàlà làm con nuôi và từ đó nàng dâu ông đối xử với cô rất tốt đẹp.  
  Khi nàng từ trần, Rajjumàlà được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba và cũng được Tôn giả Mahà-Moggallàna hỏi:  
826. ‘‘Abhikkantena vaṇṇena, yā tvaṃ tiṭṭhasi devate; Hatthapāde ca viggayha, naccasi suppavādite. 1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm. Đang múa theo âm nhạc nhịp nhàng, Toàn thể tứ chi nàng uyển chuyển Thiên hình vạn trạng giữa không gian. 827. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật. Nàng duỗi ra các bàn tay và các bàn chân, nàng nhảy múa ở phần trình tấu khéo léo.
827. ‘‘Tassā te naccamānāya, aṅgamaṅgehi sabbaso; Dibbā saddā niccharanti, savanīyā manoramā. 2. Trong khi nàng múa với toàn thân,. Xoay tít tứ chi khắp mọi phương, Âm nhạc Thiên đình vang vọng đến Bên tai nghe quả thật du dương. 828. Trong khi nàng đây đang nhảy múa, các âm thanh thuộc cõi Trời, làm êm tai, làm thích ý, phát ra từ toàn bộ các bộ phận của cơ thể.
828. ‘‘Tassā te naccamānāya, aṅgamaṅgehi sabbaso; Dibbā gandhā pavāyanti, sucigandhā manoramā. 3. Trong khi nàng múa với toàn thân,. Xoay tít tứ chi khắp mọi phương, Nhè nhẹ hương trời lan tỏa rộng, Làn hương dịu ngọt tạo hân hoan. 829. Trong khi nàng đây đang nhảy múa, các hương thơm thuộc cõi Trời, là các hương thơm tinh khiết, làm thích ý, tỏa ra từ toàn bộ các bộ phận của cơ thể.
829. ‘‘Vivattamānā kāyena, yā veṇīsu piḷandhanā; Tesaṃ suyyati nigghoso, turiye pañcaṅgike yathā. 4. Đang lúc nàng di chuyển dáng hình,. Trâm cài bím tóc kết bên mình, Âm vang như tiếng tơ hòa tấu Năm thứ đàn huyền diệu hợp thành. 830. Trong khi nàng đang xoay tròn cơ thể, tiếng ngân vang của các vật trang sức ở các bím tóc được nghe giống như từ năm loại nhạc cụ.
830. ‘‘Vaṭaṃsakā vātadhutā, vātena sampakampitā; Tesaṃ suyyati nigghoso, turiye pañcaṅgike yathā. 5. Vòng tai được gió thổi ngang qua,. Lay động theo làn gió nhẹ đưa, Âm hưởng các vòng vàng ngọc ấy Khác nào năm tiéng nhạc đồng hòa. 831. Các vòng hoa đeo tai bị gió thổi, bị lay động bởi làn gió, tiếng ngân vang của chúng được nghe giống như từ năm loại nhạc cụ.
831. ‘‘Yāpi te sirasmiṃ mālā, sucigandhā manoramā; Vāti gandho disā sabbā, rukkho mañjūsako yathā. 6. Và hương thơm của các tràng hoa. Khả ái, dịu dàng cứ tỏa ra Từ đỉnh đầu nàng bay mọi hướng Giống như cây Mạn-thù-sa-ka. 832. Luôn cả những tràng hoa ở trên đầu của nàng là có hương thơm tinh khiết, làm thích ý; giống như cây mañjūsaka, hương thơm (của tràng hoa) thổi đi khắp các phương.
832. ‘‘Ghāyase taṃ sucigandhaṃ, rūpaṃ passasi amānusaṃ; Devate pucchitācikkha, kissa kammassidaṃ phala’’nti. 7. Nàng thở làn hương dịu ngọt sao,. Nàng nhìn vẻ đẹp thật thanh cao, Hỡi nàng Thiên nữ khi nghe hỏi, Hãy nói quả đây của nghiệp nào? 833. Nàng ngửi hương thơm tinh khiết ấy, nàng nhìn thấy hình ảnh không thuộc nhân gian. Hỡi nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?”
  Khi được vị Trưởng lão hỏi như vậy, nàng ngâm các vần kệ giải thích, bắt đầu bằng câu chuyện tiền thân của nàng:  
833. ‘‘Dāsī ahaṃ pure āsiṃ, gayāyaṃ brāhmaṇassahaṃ; Appapuññā alakkhikā, rajjumālāti maṃ viduṃ [vidū (syā. pī. ka.)]. 8. Kiếp trước làm nô lệ một nhà. Bà-la-môn ở tại Gàya, Raj-ju-mà chính tên con đó, Đức mỏng, phận hèn mọn xấu xa. 834. “Trước đây, tôi đã là tỳ nữ của người Bà-la-môn ở Gayā. Tôi có phước báu ít ỏi, không được may mắn; mọi người đã biết tôi là ‘Rajjumālā’ (cô gái có tràng hoa là sợi dây thừng).
834. ‘‘Akkosānaṃ vadhānañca, tajjanāya ca uggatā [ukkatā (sī. syā.)]; Kuṭaṃ gahetvā nikkhamma, agañchiṃ [āgacchiṃ (syā. ka.), agacchiṃ (pī.), gacchiṃ (sī.)] udahāriyā [udakahāriyā (sī.)]. 9. Bị mắng nhiếc đau khổ ngập tràn,. Cùng đe dọa, đánh đập hung tàn, Con cầm ghè lớn đi tìm nước, Và định đi luôn để thoát nàn. 835. Bị đày đọa bởi sự dọa nạt và những sự mắng nhiếc, đánh đập, tôi đã cầm lấy bình nước, lìa khỏi, và đã đi vì việc mang nước.
835. ‘‘Vipathe kuṭaṃ nikkhipitvā, vanasaṇḍaṃ upāgamiṃ; Idhevāhaṃ marissāmi, ko attho [kvatthosi (ka.), kīvatthopi (syā.)] jīvitena me. 10. Vứt chiếc ghè ra khỏi mặt đường,. Con đi vào tận chốn rừng hoang, Nghĩ rằng đây chính nơi con chết, Ích lợi gì đời sống của con? 836. Sau khi để xuống cái bình nước ở con đường rẽ, tôi đã tiến vào khu rừng rậm (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ chết ở ngay tại đây. Có ích gì với mạng sống của ta?’
836. ‘‘Daḷhaṃ pāsaṃ karitvāna, āsumbhitvāna pādape; Tato disā vilokesiṃ,ko nu kho vanamassito. 11. Khi đã làm thòng lọng vững vàng,. Buộc dây vào cổ thụ bên đường, Con nhìn quanh quẩn và suy nghĩ: Ai đó đang cư trú giữa rừng? 837. Sau khi làm cái thòng lọng chắc chắn rồi máng vào thân cây, sau đó tôi đã xem xét các hướng (nghĩ rằng): ‘Người nào hiện đang sống ở rừng?’
837. ‘‘Tatthaddasāsiṃ sambuddhaṃ, sabbalokahitaṃ muniṃ; Nisinnaṃ rukkhamūlasmiṃ, jhāyantaṃ akutobhayaṃ. 12. Con thấy Phật-đà, bậc trí nhân,. Từ bi đối với cõi trần gian, Đang ngồi tĩnh tọa, tâm thiền định, Vô úy, Ngài không sợ tứ phương. 838. Tại nơi ấy, tôi đã nhìn thấy đấng Toàn Giác, đấng Phúc Lợi của tất cả thế gian, bậc Hiền Trí, ngồi ở gốc cây, đang tham thiền, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu.
838. ‘‘Tassā me ahu saṃvego, abbhuto lomahaṃsano; Ko nu kho vanamassito, manusso udāhu devatā. 13. Bỗng nhiên con rúng động tâm can,. Kinh ngạc, lòng con thấy lạ thường, Ai ở trong rừng này đấy nhỉ, Thiên thần hay chỉ một người phàm? 839. Tôi đây đã có sự chấn động, có sự nổi da gà kỳ lạ (nghĩ rằng): ‘Người nào hiện đang sống ở rừng, loài người hay là Thiên nhân?’
839. ‘‘Pāsādikaṃ pasādanīyaṃ, vanā nibbanamāgataṃ; Disvā mano me pasīdi, nāyaṃ yādisakīdiso. 14. Thanh thản, và làm khởi tín tâm,. Ngài từ rừng ái đạt ly tham, Cảnh con thấy khiến tâm an tịnh, Đây chẳng ai ngoài Tối Thượng nhân. 840. Sau khi nhìn thấy vị tạo được niềm tin, đáng được tin tưởng, đã lìa khỏi khu rừng (phiền não) đến nơi không còn rừng (phiền não), tâm của tôi đã được tịnh tín (nghĩ rằng): ‘Người này không giống người bình thường.
840. ‘‘Guttindriyo jhānarato, abahiggatamānaso; Hito sabbassa lokassa, buddho ayaṃ [soyaṃ (sī.)] bhavissati. 15. Tất cả các căn khéo hộ phòng,. Hân hoan thiền định, trí tinh thông, Ngồi đây ắt hẳn Ngài Viên Giác Từ ái hướng tâm đến cõi trần. 841. Có các giác quan đã được canh phòng, được thích thú với việc tham thiền, có tâm ý không hướng ngoại, vị này đây sẽ là đức Phật, đấng Phúc Lợi của tất cả thế gian, …
841. ‘‘Bhayabheravo durāsado, sīhova guhamassito; Dullabhāyaṃ dassanāya, pupphaṃ odumbaraṃ yathā. 16. Như sư tử trú ẩn hang rừng,. Khơi dậy niềm lo sợ hãi hùng, Vô địch, không loài nào đánh phá, Cơ may thật hiếm thấy hoa sung. 842. … tựa như con sư tử nương náu ở hang động, gây ra nỗi sợ hãi và khiếp đảm, khó mà tiếp cận, khó được gặp, giống như bông hoa odumbara.’ 
842. ‘‘So maṃ mudūhi vācāhi, ālapitvā tathāgato; Rajjumāleti maṃvoca, saraṇaṃ gaccha tathāgataṃ. 17. Với những lời thân ái dịu dàng,. Đức Như Lai dạy bảo cùng con: ‘Raj-ju, hãy đến nơi an trú Quy ngưỡng Như Lai, đức Thế Tôn’. 843. Sau khi chuyện trò với tôi bằng những lời nói dịu dàng, đức Như Lai ấy đã nói với tôi rằng: ‘Này Rajjumālā, hãy đi đến nương nhờ đức Như Lai.’
843. ‘‘Tāhaṃ giraṃ suṇitvāna, nelaṃ atthavatiṃ suciṃ; Saṇhaṃ muduñca vagguñca, sabbasokāpanūdanaṃ. 18. Khi được nghe âm điệu của Ngài. Nhẹ nhàng, đầy ý nghĩa, êm tai, Ngọt ngào, hiền dịu và thân ái Xua hết bao sầu não ở đời. 844. Tôi đã lắng nghe lời nói không sai sót, có lợi ích, thanh tịnh, bặt thiệp, mềm mỏng, ngọt ngào, và có sự xua đi tất cả sầu muộn.
844. ‘‘Kallacittañca maṃ ñatvā, pasannaṃ suddhamānasaṃ; Hito sabbassa lokassa, anusāsi tathāgato. 19. Như Lai từ mẫn khắp trần gian,. Biết rõ tâm con đã sẵn sàng, Đầy đủ tín thành và sáng suốt, Ngài liền cất tiếng dạy con rằng: 845. Sau khi biết được tôi có tâm đã sẵn sàng, được tịnh tín, có tâm ý trong sạch, đấng Phúc Lợi của tất cả thế gian, đức Như Lai đã chỉ dạy rằng:
845. ‘‘Idaṃ dukkhanti maṃvoca, ayaṃ dukkhassa sambhavo; Dukkha [ayaṃ (sī. syā. pī.)] nirodho maggo ca [dukkhanirodho ca (syā.)], añjaso amatogadho. 20. Đây là Khổ Thánh đế, Ngài khuyên,. Khổ Tập là nguồn gốc khởi lên, Khổ Diệt là đây, Tam Thánh đế, Đường vào Bất tử, Đạo bình yên. 846. ‘Đây là Khổ,’ Ngài đã nói với tôi như thế. ‘Đây là Nguồn Gốc của Khổ, đây là sự Tịch Diệt, và Đạo Lộ trực chỉ thâm nhập vào sự Bất Tử.’
846. ‘‘Anukampakassa kusalassa, ovādamhi ahaṃ ṭhitā; Ajjhagā amataṃ santiṃ, nibbānaṃ padamaccutaṃ. 21. Cương quyết theo lời khuyến dụ kia. Của Ngài thuần thiện, đấng Từ bi, Con liền đạt đến tâm an tịnh, Bất tử, Niết-bàn, không thoái suy. 847. Tôi đã trụ lại trong lời giáo huấn của bậc thiện xảo có lòng thương tưởng; tôi đã chứng đắc sự Bất Tử, an tịnh, Niết Bàn, vị thế vĩnh cửu.
847. ‘‘Sāhaṃ avaṭṭhitāpemā, dassane avikampinī; Mūlajātāya saddhāya, dhītā buddhassa orasā. 22. Tâm con kiên định ngập tình thương,. Tin tưởng vào Tam Bảo vững vàng, Bất động trong con niềm chánh kiến, Con là đích nữ bậc Y Vương. 848. Tôi đây đã đứng vững, có lòng yêu mến, không có sự dao động về quan điểm, với đức tin đã được sanh ra từ cội rễ, là người con gái chánh thống của đức Phật.
848. ‘‘Sāhaṃ ramāmi kīḷāmi, modāmi akutobhayā; Dibbamālaṃ dhārayāmi, pivāmi madhumaddavaṃ. 23. Nay con hưởng lạc thú, vui chơi,. Hoan hỷ, vô ưu, khắp cõi trời, Con đội tràng hoa Thiên nữ đẹp, Cam lồ con uống tạo niềm vui. 849. Tôi đây thích thú, đùa giỡn, vui sướng, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu, tôi mang tràng hoa của cõi Trời, tôi uống sự dịu ngọt của mật ong.
849. ‘‘Saṭṭhituriyasahassāni, paṭibodhaṃ karonti me; Āḷambo gaggaro bhīmo, sādhuvādī ca saṃsayo. 24. Sáu mươi ngàn nhạc cụ đàn tơ. Thức tỉnh con từ giấc ngủ mơ: Alamba, Gaggara, Bhìma, Sàdhuvadin và Samsaya. 850. Có sáu mươi ngàn nhạc cụ làm công việc tiêu khiển cho tôi. (Các nhạc công nam) Āḷamba, Gaggara, Bhīma, Sādhuvādī, và Saṃsaya, …
850. ‘‘Pokkharo ca suphasso ca, vīṇāmokkhā ca nāriyo; Nandā ceva sunandā ca, soṇadinnā sucimhitā. 25. Pokkhara và Suphassa,. Vìnàmokkhà cùng các nàng kia, Nandà cũng như Sunandà, Sonadinà và Sucimhità. 851. … Pokkhara, Suphassa, còn các tiên nữ là Vīṇā, Mokkhā, Nandā, luôn cả Sunandā, Soṇadinnā, và Sucimhitā, …
851. ‘‘Alambusā missakesī ca, puṇḍarīkātidāruṇī [… ticāruṇī (sī.)]; Eṇīphassā suphassā [supassā (syā. pī. ka.)] ca, subhaddā [saṃbhaddā (ka.)] muduvādinī. 26. Alambusà, Missakesi,. Cùng nàng tiên ác Pundarikà, Eniphassà, Suphassà, Subhaddà và Muduvàdinì. 852. … Aḷambusā, Missakesī và Puṇḍarīkā, Aticāruṇī, Eṇiphassā, Suphassā và Subhaddā, Muduvādinī.
852. ‘‘Etā caññā ca seyyāse, accharānaṃ pabodhikā; Tā maṃ kālenupāgantvā, abhibhāsanti devatā. 27. Các nàng Thiên nữ diễm kiều này. Đánh thức thần tiên lúc ngủ say, Buổi sáng các nàng thường đến bảo: ‘Chúng em múa hát giúp vui đây’. 853. Các cô này và các cô khác là những người làm công việc tiêu khiển giỏi hơn hết trong số các Thiên nhân. Vào thời điểm thích hợp, các Thiên nhân tự nguyện đi đến thưa rằng:
853. ‘‘Handa naccāma gāyāma, handa taṃ ramayāmase; Nayidaṃ akatapuññānaṃ, katapuññānamevidaṃ. 28. Nan-da-na, Hỷ lạc Viên này,. Không phải để dành cho những ai Chẳng tạo tác nên nhiều phước nghiệp, Mà dành riêng biệt để cho người, Đã hoàn thành được nhiều công đức,. Là Đại Lâm viên của cõi trời Tam thập tam thiên đầy lạc thú, Không gì phiền não, mãi vui chơi. 854. ‘Nào, hãy để chúng tôi múa, hãy để chúng tôi ca. Nào, hãy để chúng tôi làm cho nàng thích thú.’ (Khu vườn) Nandana không sầu muộn đáng yêu này, khu vườn lớn ở cõi Ba Mươi (Ba), là không dành cho những người không làm phước thiện, nơi này chỉ dành cho những người đã làm phước thiện.
854. ‘‘Asokaṃ nandanaṃ rammaṃ, tidasānaṃ mahāvanaṃ; Sukhaṃ akatapuññānaṃ, idha natthi parattha ca. 29. Chẳng đời này hoặc ở đời sau,. Cựu lạc dành cho những kẻ nào Không tạo tác nên nhiều phước nghiệp, Song đời này lẫn cõi đời sau Để dành cực lạc cho bao kẻ. Làm các thiện hành, phước nghiệp cao.  855. Không có sự an lạc cho những người không làm phước thiện ở nơi này và nơi khác, nhưng có sự an lạc cho những người đã làm phước thiện ngay ở nơi này và nơi khác nữa.
855. ‘‘Sukhañca katapuññānaṃ, idha ceva parattha ca; Tesaṃ sahabyakāmānaṃ, kattabbaṃ kusalaṃ bahuṃ; Katapuññā hi modanti, sagge bhogasamaṅgino. 30. Với những ai mong chúng bạn hiền, Phải làm thiện nghiệp thật tinh chuyên, Vì người tạo được nhiều công đức,. Hưởng lạc thú nhiều ở cõi thiên.  856. Đối với những người mong mỏi sự cộng trú ấy thì nên làm nhiều việc tốt lành, bởi vì những người đã làm phước thiện là những người thành tựu tài sản, được vui sướng ở cõi Trời.
856. ‘‘Bahūnaṃ vata atthāya, uppajjanti tathāgatā; Dakkhiṇeyyā manussānaṃ, puññakhettānamākarā; Yattha kāraṃ karitvāna, sagge modanti dāyakā’’ti. 31. Như Lai xuất hiện ở trên đời Là chính vì an lạc mọi loài, Xứng đáng cho người dâng lễ vật,. Phước điền vô thượng của bao người, Sau khi dâng lễ, tâm thành kính, Các thí chủ vui hưởng cõi trời. 857. Thật vậy, các đức Như Lai hiện khởi vì lợi ích của số đông, các Ngài xứng đáng được cúng dường, là những nơi sản xuất các ruộng phước cho loài người; sau khi thể hiện sự phục vụ ở những nơi ấy, các thí chủ đi đến cõi Trời.”
Rajjumālāvimānaṃ dvādasamaṃ. Tổng Kết Phẩm Mañjeṭṭhaka là thứ tư.
Mañjiṭṭhakavaggo catuttho niṭṭhito. Lâu đài đỏ sẩm, Lâu đài sáng chói, Lâu đài trên con voi, Lâu đài Alomà, Lâu đài của người cúng cháo gạo, Lâu đài tinh xá, Lâu đài Bốn nữ nhân, Lâu đài vườn xoài, Lâu đài hoàng kim, Lâu đài do cúng mía, Lâu đài do sự đảnh lễ, Lâu đài Rajjumàlà. TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Tassuddānaṃ – Phẩm này được biết qua các chuyện trên. (Thiên cung) màu đỏ tía, rực rỡ, long tượng, Alomā, người nữ bố thí cháo chua, trú xá, bốn phụ nữ, vườn xoài, (Thiên cung) màu vàng, (chuyện) khúc mía, do sự đảnh lễ, (chuyện) Rajjumālā; bởi vậy phẩm được gọi tên thế ấy.
Mañjiṭṭhā pabhassarā nāgā, alomākañjikadāyikā;   Thiên Cung Nữ Giới được đầy đủ.
Vihāracaturitthambā, pītā ucchuvandanarajjumālā ca;    
Vaggo tena pavuccatīti.    
Itthivimānaṃ samattaṃ.