Tipitaka.org | Việt dịch: GS. Trần Phương Lan | Việt dịch: TK. Indacanda |
Bấy giờ, đức Thế Tôn, trú tại Sàvatthi, trong Kỳ Viên. Một đệ tử tại gia đầy tín thành cúng dường thực phẩm lên đức Thế Tôn tại nhà riêng vô cùng trọng thể. | ||
Ngay lúc ấy một nữ nhân lượm củi trong Hắc lâm thấy một cây Vô ưu (Asoka) đang nở hoa. Bà đi nhặt các cành hoa đến rải quanh đức Thế Tôn, cung kính đảnh lễ Ngài rồi ra về. | ||
Sau đó bà từ trần, được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba, hưởng lạc thú tại Hỷ lạc Viên Nandana, cùng với đoàn tiên nữ ca múa tham dự lễ hội dưới cây Thiên hoa San hô. Tôn giả Mahà-Moggallàna cũng thấy nàng và hỏi nàng như vầy: | ||
680. ‘‘Pāricchattake koviḷāre, ramaṇīye manorame; Dibbamālaṃ ganthamānā, gāyantī sampamodasi. | 1. Cùng với San hô, các loại hoa,. Vườn tiên tuyệt mỹ đẹp lòng ta, Kết thành từng chuỗi hoa thiên giới, Nàng thích thú và cất tiếng ca. | 681. “Nàng khởi tâm hân hoan trong khi vừa kết buộc tràng hoa thuộc cõi Trời với các bông hoa pāricchattaka và koviḷāra xinh xắn, làm thích ý, trong khi vừa ca hát. |
681. ‘‘Tassā te naccamānāya, aṅgamaṅgehi sabbaso; Dibbā saddā niccharanti, savanīyā manoramā. | 2. Trong khi nàng múa với toàn thân,. Xoay tít tứ chi khắp mọi phương, Âm nhạc thiên đình vang vọng đến Bên tai nghe quả thật du dương. | 682. Trong khi nàng đây đang nhảy múa, các âm thanh thuộc cõi Trời, làm êm tai, làm thích ý, phát ra từ toàn bộ các bộ phận của cơ thể. |
682. ‘‘Tassā te naccamānāya, aṅgamaṅgehi sabbaso; Dibbā gandhā pavāyanti, sucigandhā manoramā. | 3. Trong khi nàng múa với toàn thân,. Xoay tít tứ chi khắp mọi phương, Nhè nhẹ hương trời lan tỏa rộng, Làn hương dịu ngọt tạo hân hoan. | 683. Trong khi nàng đây đang nhảy múa, các hương thơm thuộc cõi Trời, là các hương thơm tinh khiết, làm thích ý, tỏa ra từ toàn bộ các bộ phận của cơ thể. |
683. ‘‘Vivattamānā kāyena, yā veṇīsu piḷandhanā. Tesaṃ suyyati nigghoso, tūriye pañcaṅgike yathā. | 4. Đang lúc nàng di chuyển dáng hình,. Trâm cài tóc bím kết bên mình, Âm vang như tiếng tơ hòa tấu Năm thứ đàn huyền diệu hợp thành. | 684. Trong khi nàng đang xoay tròn cơ thể, tiếng ngân vang của các vật trang sức ở các bím tóc được nghe giống như từ năm loại nhạc cụ. |
684. ‘‘Vaṭaṃsakā vātadhutā [vātadhūtā (sī. syā.)], vātena sampakampitā; Tesaṃ suyyati nigghoso, tūriye pañcaṅgike yathā. | 5. Vòng tai được gió thổi ngang qua,. Lay động theo làn gió nhẹ đưa, Âm hưởng các vòng vàng ngọc ấy Khác nào năm tiếng nhạc đồng hòa. | 685. Các vòng hoa đeo tai bị gió thổi, bị lay động bởi làn gió, tiếng ngân vang của chúng được nghe giống như từ năm loại nhạc cụ. |
685. ‘‘Yāpi te sirasmiṃ mālā, sucigandhā manoramā; Vāti gandho disā sabbā, rukkho mañjūsako yathā. | 6. Và hương của các chuỗi phương hoa. Khả ái trên đầu nhẹ tỏa ra, Thoang thoảng bay đi khắp mọi hướng Giống như cây mạn-thù-sa-ka, | 686. Luôn cả những tràng hoa ở trên đầu của nàng là có hương thơm tinh khiết, làm thích ý; giống như cây mañjūsaka, hương thơm (của tràng hoa) thổi đi khắp các phương. |
686. ‘‘Ghāyase taṃ sucigandhaṃ [suciṃ gandhaṃ (sī.)], rūpaṃ passasi amānusaṃ [mānusaṃ (pī.)]; Devate pucchitācikkha, kissa kammassidaṃ phala’’nti. | 7. Nàng thở làn hương thật ngọt ngào,. Nàng nhìn vẻ đẹp cõi trời cao, Hỡi nàng Thiên nữ khi nghe hỏi, Hãy nói quả đây của nghiệp nào. | 687. Nàng ngửi hương thơm tinh khiết ấy, nàng nhìn thấy hình ảnh không thuộc nhân gian. Hỡi nàng tiên, đã được hỏi, mong nàng thuật lại quả báo này là của nghiệp nào?” |
Sau đó Thiên nữ đáp lời: | ||
687. ‘‘Pabhassaraṃ accimantaṃ, vaṇṇagandhena saṃyutaṃ; Asokapupphamālāhaṃ, buddhassa upanāmayiṃ. | 8. Thuở trước con dâng cúng Phật-đà. Những vòng hoa đẹp A-so-ka, Đỏ hồng, rực sáng như màu lửa, Ngào ngạt hương thơm thoang thoảng đưa. | 688. “Tôi đã hiến dâng đến đức Phật tràng hoa làm bằng hoa vô ưu, rực rỡ, lấp lánh, được kết hợp với màu sắc và hương thơm. |
688. ‘‘Tāhaṃ kammaṃ karitvāna, kusalaṃ buddhavaṇṇitaṃ; Apetasokā sukhitā, sampamodāmanāmayā’’ti. | 9. Khi đã thực hành thiện nghiệp xong,. Nghiệp lành được đức Phật tuyên dương, Nay con thọ hưởng nhiều ân phước, Vô bệnh, vô sầu, mãi lạc an. | 689. Sau khi đã thực hiện việc làm ấy, là việc tốt lành đã được đức Phật khen ngợi, với nỗi sầu muộn đã được xa lìa, được an vui, tôi khởi tâm hoan hỷ, không có tật bệnh.” |
Pāricchattakavimānaṃ dasamaṃ. | Tổng Kết | Phẩm Pāricchattaka là thứ ba. |
Pāricchattakavaggo tatiyo niṭṭhito. | – Lâu đài Huy Hoàng, Lâu đài người cúng khúc mía, Lâu đài Trường kỷ, Lâu đài Lata. | TÓM LƯỢC PHẨM NÀY |
Tassuddānaṃ – | – Lâu đài Guttila, Lâu đài Sáng chói, Lâu đài Sesavati, Lâu đài Mallikà, Lâu đài Vìsalakkhi, | (Thiên cung) cao sang, (bố thí) mía, ghế dài, (chuyện) Latā, với Guttila, (Thiên cung) tỏa sáng rực rỡ, Sesavatī, Mallikā, Visālakkhī, (Thiên cung) Pāricchattaka; bởi vậy phẩm được gọi tên thế ấy. |
Uḷāro ucchu pallaṅko, latā ca guttilena ca; | – Lâu đài Cây San hô. | |
Daddallapesamallikā, visālakkhi pāricchattako; | Phẩm này được biết qua các chuyện trên. | |
Vaggo tena pavuccatīti. | Phẩm Ba : Cây San Hô |