11. Dutiyabhikkhādāyikāvimānavatthu
11. (28) Chuyện thứ mười một –  Lâu Đài Cuả Nữ Thí Chủ Thứ Hai
Thiên Cung của Người Nữ Bố Thí Vật Thực thứ nhì
Tipitaka.org Việt dịch: GS. Trần Phương Lan Việt dịch: TK. Indacanda
  Chuyện này cũng giống chuyện Lâu đài trước, trừ điểm ở đây đức Thế Tôn trú tại Ràjagaha, và nữ nhân cúng dường cho một Tỷ-kheo vô lậu hoặc, an nhiên tâm trí, chẳng còn si mê.  
278. ‘‘Abhikkantena vaṇṇena, yā tvaṃ tiṭṭhasi devate; Obhāsentī disā sabbā, osadhī viya tārakā. 1. Nàng Thiên nữ sắc đẹp siêu phàm. Đang chiếu mười phương với ánh quang, Nàng đứng, toàn thân đều tỏa sáng  Như vì sao cứu hộ trần gian. 276. “Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.
279. ‘‘Kena tetādiso vaṇṇo…pe… vaṇṇo ca te sabbadisā pabhāsatī’’ti.  2. Vì sao nàng được sắc như vầy,. Vì cớ gì nàng vinh hiển đây, Những lạc thú nào nàng mến chuộng Trong tâm, đều xuất hiện ra ngay? 277. Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?
281. Sā devatā attamanā…pe… yassa kammassidaṃ phalaṃ.  3. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần,. Nàng tạo đức gì giữa thế nhân, Thần lực nàng vì sao rực rỡ, Dung quang chiếu sáng khắp mười phương? 278. Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”
282. ‘‘Ahaṃ manussesu manussabhūtā, purimāya jātiyā manussaloke.  4. Nàng Thiên nữ ấy hỷ tâm tràn,. Được Mục-liên Tôn giả hỏi han, Nàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp, Và đây là kết quả cho nàng: 279. Nàng tiên ấy hoan hỷ khi được ngài Moggallāna hỏi đến. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích quả báo này là của nghiệp nào:
283. ‘‘Addasaṃ virajaṃ bhikkhuṃ, vippasannamanāvilaṃ; Tassa adāsahaṃ bhikkhaṃ, pasannā sehi pāṇibhi. 5. 6. Kiếp xưa sinh ở chốn phàm trần,. Con được làm người giữa thế nhân, Con gặp Phật-đà vô lậu hoặc, An nhiên tâm trí, chẳng mê lầm, Với Ngài, con có lòng thành tín, Dâng cúng tận tay các món ăn. 280. “Tôi, khi là con người ở cõi nhân loại, trong kiếp sống trước đây ở thế giới loài người, tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu, bậc vô nhiễm, thanh tịnh, không bị xao động. Được tịnh tín, tôi đã tự tay dâng vật thực đến vị ấy. 
284. ‘‘Tena metādiso vaṇṇo…pe. … vaṇṇo ca me sabbadisā pabhāsatī’’ti.  7. Vì thế sắc con đẹp thế này,. Và con vinh hiển ở nơi đây, Bất kỳ lạc thú nào trong da Yêu chuộng, tức thì xuất hiện ngay. 281. Do điều ấy, tôi có được màu da như thế ấy. Do điều ấy mà (sự việc) được thành tựu cho tôi ở nơi đây. Và (do điều ấy) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho tôi. 
  8. Xin trình Tôn giả đại oai thần. Công đức con làm giữa thế nhân, Vì thế oai nghi con rực rỡ, Dung quang chiếu sáng khắp mười phương. 282. Thưa vị tỳ khưu có đại oai lực, tôi trình bày cho ngài về việc phước thiện tôi đã làm khi là con người. Do điều ấy mà tôi có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của tôi chiếu sáng khắp các phương.”
Dutiyabhikkhādāyikāvimānaṃ ekādasamaṃ.    
Cittalatāvaggo dutiyo niṭṭhito. Tổng Kết Phẩm Cittalatā là thứ nhì. 
Tassuddānaṃ – Lâu đài Nữ tỳ và Lakhuma, Người cho cơm cháy, Candàli, Phu nhân Khả ái, và Sonadinnà, Uposathà, Niddà, và Suniddà, cùng hai Nữ thí chủ. TÓM LƯỢC PHẨM NÀY 
Dāsī ceva lakhumā ca, atha ācāmadāyikā; Phẩm này được biết qua các chuyện trên. (Chuyện) người nữ tỳ, và luôn cả Lakhumā, rồi người nữ bố thí bọt nước cơm, người nữ dòng hạ tiện, Bhadditthī, và luôn cả Soṇadinnā, Uposathā, Nandā, luôn cả Sunandā, và hai người nữ bố thí vật thực; bởi vậy phẩm được gọi tên thế ấy. 
Caṇḍālī bhadditthī ceva [bhadditthikā ca (syā.)], soṇadinnā uposathā; Lâu Đài Nữ Giới : Phẩm Hai  
Niddā ceva suniddā ca [nandā ceva sunandā ca (sī.)], dve ca bhikkhāya dāyikā; Phẩm Đầu để Phúng Tụng  
Vaggo tena pavuccatīti.    
Bhāṇavāraṃ paṭhamaṃ niṭṭhitaṃ.   TỤNG PHẨM THỨ NHẤT.