Tipitaka.org |
Việt dịch: GS. Trần Phương Lan |
Việt dịch: TK. Indacanda |
|
Bấy giờ đức Thế Tôn trú tại Ba-la-nại trong vườn Nai ở Trú xứ chư Tiên (Isipatàna). Buổi sáng các Tỷ-kheo đắp y, cầm y bát và đi vào Ba-la-nại. Chư vị đến gần cửa nhà một Bà-la-môn. |
|
|
Trong nhà ấy, có con gái vị Bà-la-môn, tên Kesakàri đang bắt chấy trên đầu mẹ nàng gần cửa, thấy các Tỷ-kheo đi ngang qua, bèn hỏi mẹ: |
|
|
– Mẹ ơi, các vị này từ giã đời thế tục hình như còn ở độ tuổi xuân xanh, thanh lịch, đẹp trai, dáng ưa nhìn, không gặp tai họa khổ đau nào cả. Thế tại sao chư vị xuất gia ở tuổi này? |
|
|
Mẹ nàng đáp: |
|
|
– Này con, có vị Thích tử xuất gia từ dòng họ Thích-ca đã hiện ra ở đời làm bậc Ðạo Sư được gọi là đức Phật. Ngài thuyết pháp, hoàn thiện ở phần đầu, phần giữa, và phần cuối cả về ý nghĩa lẫn ngôn từ. Ngài tuyên bố đời Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ và thanh tịnh. Chư vị này đã xuất gia vì nghe pháp ấy. |
|
|
Bấy giờ có một cư sĩ tại gia đã đắc Sơ quả và hiểu pháp, nghe được câu chuyện khi đi ngang qua đường ấy và đến gần hai mẹ con. Vị nữ nhân Bà-la-môn hỏi vị ấy: |
|
|
– Này cư sĩ, nhiều thiện nam tử từ bỏ tài sản quý giá và đại gia tộc thân quyến để xuất gia trong dòng họ Thích-ca. Vì cớ gì họ xuất gia như vậy? |
|
|
Vị cư sĩ nghe bà nói, liền đáp: |
|
|
– Vì thấy sự nguy hiểm trong dục lạc và lợi ích của xuất gia. |
|
|
Vị ấy giải thích đầy đủ chi tiết về động lực ấy theo khả năng hiểu biết cao nhất của mình, vừa nêu rõ các đức tính của Tam Bảo vừa thuyết giảng sự hữu ích tiện lợi của Ngũ giới liên hệ đến đời nay và đời sau. |
|
|
Sau đó, thiếu nữ Bà-la-môn hỏi vị ấy: |
|
|
– Thế chúng tôi có thể hưởng phần hữu ích tiện lợi mà Tôn giả vừa nói, qua sự quy y Tam Bảo và giữ Ngũ giới chăng? |
|
|
Vị ấy đáp: |
|
|
– Tại sao lại không? Những điều được đức Thế Tôn thuyết giảng cần được mọi loài hưởng phần đều nhau. |
|
|
Rồi vị ấy cho nàng thọ Tam quy và Ngũ giới. Khi nàng đã chấp nhận Tam quy và hành trì Ngũ giới, nàng hỏi: |
|
|
– Thế còn phải làm gì nữa ngoài việc này? |
|
|
Thấy nàng có trí thông tuệ, người ấy nghĩ thầm: ‘Chắc hẳn nàng là một trong số người hội đủ khả năng điều kiện’. Và khi giảng giải bản chất của thân thể, vị ấy nói đến đối tượng của thiền quán là ba mươi hai phần của thân, vị ấy gợi lên cho nàng sự nhàm chán sắc thân và ngoài ra, sau khi làm cho nàng xúc động với một bài pháp thoại liên hệ đến Vô thường, Khổ, Vô ngã, vị ấy chỉ con đường đưa đến tuệ quán và từ giã nàng. |
|
|
Nàng ghi nhớ mọi sự vị ấy nói và với niềm suy tư do nhận thức sự bất tịnh của thân, nàng phát triển tuệ quán và chẳng bao lâu chứng đắc Sơ quả Dự Lưu vì nàng thành tựu đủ mọi điều kiện. |
|
|
Về sau nàng từ trần và được tái sanh làm Thiên nữ hầu cận Sakka Thiên chủ. Ðoàn tùy tùng của nàng gồm một trăm ngàn tiên nữ. Khi Sakka Thiên chủ thấy nàng, ngài kinh ngạc và ái mộ nàng, bèn hỏi các công đức nàng đã làm trước kia: |
|
150. ‘‘Idaṃ vimānaṃ ruciraṃ pabhassaraṃ, veḷuriyathambhaṃ satataṃ sunimmitaṃ; Suvaṇṇarukkhehi samantamotthataṃ, ṭhānaṃ mamaṃ kammavipākasambhavaṃ. |
1. Cung điện này, nơi ta trú an,. Trụ bằng ngọc bích, sáng huy hoàng, Khéo xây dựng để trường tồn mãi, Mọi phía cây vàng tỏa bóng râm, Ðã được tạo nên do kết quả Của công đức thiện nghiệp ta làm. |
149. “Thiên cung này đáng yêu, rực rỡ, có cây cột bằng ngọc bích, được trường tồn, khéo được hóa hiện ra, được che xung quanh với những cây cối bằng vàng, là trú xứ của ta, có nguồn gốc là quả thành tựu của nghiệp. |
151. ‘‘Tatrūpapannā purimaccharā imā, sataṃ sahassāni sakena kammunā; Tuvaṃsi ajjhupagatā yasassinī, obhāsayaṃ tiṭṭhasi pubbadevatā. |
2. Ai đã từng sanh trưởng ở đây,. Ðều là ngọc nữ cõi trời này, Một trăm ngàn chẵn đoàn tiên nữ; Vì thiện nghiệp nàng đã đến đây, Nàng thật vinh quang đầy ánh sáng, Ðứng kia Thiên nữ vẻ vang thay. |
150. Những tiên nữ đến trước này, những Thiên nhân tiền bối, đã được sanh lên ở đây có hàng trăm ngàn. Nhờ vào nghiệp của mình, nàng đã đạt đến. Có được danh tiếng, nàng đứng, trong khi đang chói sáng. |
152. ‘‘Sasī adhiggayha yathā virocati, nakkhattarājāriva tārakāgaṇaṃ; Tatheva tvaṃ accharāsaṅgaṇaṃ [accharāsaṅgamaṃ (sī.)] imaṃ, daddallamānā yasasā virocasi. |
3. Như vầng trăng, chúa tể muôn sao, Chiếu sáng hơn tinh tú biết bao, Cũng vậy, nàng sáng ngời rực rỡ, Giữa đoàn tiên nữ đẹp dường nào. |
151. Giống như mặt trăng chói sáng, vượt trội quần thể các tinh tú, tựa như vị vua của các vì sao, tương tự y như thế trong lúc tỏa sáng rực rỡ tập thể tiên nữ này, nàng chói sáng nhờ vào danh tiếng. |
153. ‘‘Kuto nu āgamma anomadassane, upapannā tvaṃ bhavanaṃ mamaṃ idaṃ; Brahmaṃva devā tidasā sahindakā, sabbe na tappāmase dassanena ta’’nti. |
4. Nàng đã từ đâu xuất hiện đây, Hỡi nàng tuyệt sắc đến trời này? Ind-ra Thiên chủ cùng Thiên chúng Tam thập tam Thiên giới hiện nay Ngưỡng mộ Phạm Thiên và bởi thế Chẳng ai nhàm chán ngắm nàng vầy. |
152. Hỡi cô nàng có dáng vóc tuyệt vời, từ nơi đâu nàng đã đi đến, rồi được sanh lên ở cung điện này của ta? Như thể ngắm nhìn đấng Tạo Hóa, tất cả Chư Thiên cõi Trời Ba Mươi (Ba) có cả Thần Inda không mệt nhọc với việc ngắm nhìn nàng.” |
|
Khi được Sakka Thiên chủ hỏi thế, vị Thiên nữ đáp hai vần kệ sau: |
|
154. ‘‘Yametaṃ sakka anupucchase mamaṃ, ‘kuto cutā tvaṃ idha āgatā’ti [kuto cutā idha āgatā tuvaṃ (syā.), kuto cutāya āgati tava (pī.)]; Bārāṇasī nāma puratthi kāsinaṃ, tattha ahosiṃ pure kesakārikā. |
5. Ðế Thích ân cần đã hỏi han:. ‘Nàng từ đâu đến, chốn từ trần?’ Xưa kia thành phố Kà-si ấy Tên gọi Ba-la-nại lẫy lừng, Tại đó, ngay trong thành phố nọ, Ke-sa-kà ấy chính tiền thân. |
153. “Thưa (Thiên Chủ) Sakka, ngài ân cần hỏi tôi điều này: ‘Từ nơi đâu nàng đã chết đi, rồi đã đi đến nơi đây?’ – Có thành phố của xứ Kāsī tên là Bārāṇasī, tại nơi ấy, trước đây tôi đã là Kesakārikā. |
155. ‘‘Buddhe ca dhamme ca pasannamānasā, saṅghe ca ekantagatā asaṃsayā; Akhaṇḍasikkhāpadā āgatapphalā, sambodhidhamme niyatā anāmayā’’ti. |
6. Con có lòng thành tín Phật-đà, Chuyên tâm quy ngưỡng Pháp, Tăng-già, Ðoạn nghi, trọn vẹn con trì giới, Ðạt thành các quả vị vừa qua, Giáo pháp vững tin, đường Giác ngộ, Thân thường không tật bệnh chi mà. |
154. Có tâm tịnh tín đối với Đức Phật, Giáo Pháp, và Hội Chúng, tôi đã đi đến sự dứt khoát, không còn hoài nghi, có các điều học không sứt mẻ, đã đạt đến Quả vị, đã được vững chắc ở trong Giáo Pháp của đấng Toàn Giác, và không bệnh tật.” |
|
Sau đó, Sakka Thiên chủ hoan hỷ vì thành tựu công đức của nàng và cảnh vinh hiển trên thiên giới của nàng, bèn ngâm kệ đáp lại: |
|
156. ‘‘Tantyābhinandāmase svāgatañca [sāgatañca (sī.)] te, dhammena ca tvaṃ yasasā virocasi; Buddhe ca dhamme ca pasannamānase, saṅghe ca ekantagate asaṃsaye; Akhaṇḍasikkhāpade āgatapphale, sambodhidhamme niyate anāmaye’’ti. |
7. Chúng ta hoan hỷ đón mừng nàng, Nhờ Giáo pháp, nàng chiếu ánh quang, Tịnh tín, nàng hoàn toàn kính ngưỡng Phật-đà, Giáo pháp, với chư Tăng, Ðoạn nghi, trọn vẹn tu trì giới, Ðạt đến các thành quả vẻ vang, Giáo pháp vững tin, đường Giác ngộ, Thân thường vô bệnh, được khang an. |
155. “Hỡi nàng tiên có tâm tịnh tín đối với Đức Phật, Giáo Pháp, và Hội Chúng, đã đi đến sự dứt khoát, không còn hoài nghi, có các điều học không sứt mẻ, đã đạt đến Quả vị, đã được vững chắc ở trong Giáo Pháp của đấng Toàn Giác, và không bệnh tật, chúng tôi vui mừng về việc đi đến tốt đẹp ấy của nàng. Và thông qua Giáo Pháp, nàng chói sáng nhờ vào danh tiếng.” |
|
Sau đó Sakka Thiên chủ kể cho Tôn giả Trưởng lão Mahà-Moggallàna về sự kiện này, Tôn giả lại trình với đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn lấy đề tài ấy làm dịp thuyết pháp thoại cho hội chúng. Bài pháp ấy có ích lợi cho thế giới bao gồm cả Thiên giới nữa. |
|
Kesakārīvimānaṃ sattarasamaṃ. |
Tổng Kết |
Phẩm Chiếc Ghế là thứ nhất. |
Pīṭhavaggo paṭhamo niṭṭhito. |
– Năm tọa sàng (bốn tọa sàng và một con voi), ba chiếc thuyền, một ngọn đèn, một nắm mè. |
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY |
Tassuddānaṃ – |
– Hai bà vợ, hai nàng dâu, Uttarà, Sirimà Kesakarikà. |
Năm (chuyện) chiếc ghế, ba (chuyện) chiếc thuyền, hai (chuyện) cây đèn và vật cúng dường hạt mè, hai người vợ, hai con dâu, (chuyện) Uttarā, Sirimā, và Kesakārikā; bởi vậy phẩm được gọi tên thế ấy. |
Pañca pīṭhā tayo nāvā, dīpatiladakkhiṇā dve; |
Phẩm này được biết qua các chuyện trên. |
|
Pati dve suṇisā uttarā, sirimā kesakārikā; |
Lâu Ðài Nữ Nhân : Phẩm Thứ Nhất |
|
Vaggo tena pavuccatīti. |
|
|