16. Mahānipāto

Phẩm XVI – Đại Phẩm

16. Nhóm lớn

Tipitaka.org Việt dịch: HT. Thích Minh Châu Việt dịch: TK. Indacanda
1. Sumedhātherīgāthā (LXXIII) Sumedhà (Therì. 167) Kệ ngôn của trưởng lão ni Sumedhā.
  Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở thành Mantàvatì con gái vua Konca và được đặt tên là Sumedhà. Khi nàng đến tuổi trưởng thành, cha mẹ nàng bằng lòng để Anikaratta, vua Vàranavati xem mắt nàng. Nhưng từ lúc nhỏ, nàng quen cùng đi với các công chúa lứa tuổi nàng, và những người hầu hạ tại tinh xá Tỷ-kheo-ni để nghe các vị này thuyết pháp, và trong một thời gian dài, vì chí nguyện lúc còn nhỏ, nên nàng sợ hãi sự sanh tử luân hồi, tâm tư thiên về đời sống xuất gia, không ưa thích các dục lạc.  
  Khi nghe quyết định của cha mẹ và bà con, nàng nói: ‘Bổn phận của tôi không phải trong đời sống gia đình, tôi sẽ xin xuất gia’, cha mẹ và các bà con không thể khuyên nàng từ bỏ quyết định của nàng. Nàng suy nghĩ: ‘Như vậy, ta sẽ được phép xuất gia’, và cương quyết theo chí nguyện của mình nàng cắt tóc, và dùng tóc ấy, theo phương pháp cảc Tỷ-kheo-ni thường dùng, nàng chú tâm vào tánh bất tịnh của sắc đẹp thân xác và chứng được Sơ thiền, Khi nàng ở trong định Sơ thiền cha mẹ và bà con nàng đến phòng nàng để nói chuyện gả chồng cho nàng. Nhưng nàng khiến mọi người kể cả người hầu cận của vua đến để rước nàng về, cũng tin vào đạo pháp rồi nàng từ bỏ gia đình, đi đến tịnh xá Tỷ-kheo-ni để xuất gia.  
  Sau khi tu tập thiền quán, và giải thoát được chín muồi, nàng chứng quả A-la-hán với hiểu biết về nghĩa và về pháp. Rồi nghĩ đến sự thắng trận của nàng, nàng nói lên sự phấn khởi, sung sướng của nàng:  
450. Mantāvatiyā nagare, rañño koñcassa aggamahesiyā; Dhītā āsiṃ sumedhā, pasāditā sāsanakarehi. 448. Con gái vua Konca,. Với hoàng hậu chánh ngôi, Tại Matavatì, Được sanh Sumedha, Hân hoan gắng thực hành, Lời dạy bậc Đạo Sư. 447. Ở thành phố Mantāvatī, Sumedhā, người con gái của hoàng hậu chánh cung của đức vua Koñca, đã có được đức tin nhờ vào những vị đang thực hành Giáo Pháp.
451. Sīlavatī cittakathā, bahussutā buddhasāsane vinītā; Mātāpitaro upagamma, bhaṇati ‘‘ubhayo nisāmetha. 449. Giới hạnh thuyết giảng khéo,. Nghe nhiều khéo huấn luyện, Theo lời đức Phật dạy, Nàng đến cha mẹ nàng, Nói rằng: ‘Thưa mẹ cha, Cả hai, hãy nghe con!’. 448. Là người có giới hạnh, nói năng khôn khéo, có sự nghe nhiều, đã được dạy dỗ về lời dạy của đức Phật, Sumedhā đã đi đến gặp mẹ cha rồi nói với cả hai người rằng: ‘Xin mẹ cha hãy lắng nghe.
452. ‘‘Nibbānābhiratāhaṃ, asassataṃ bhavagataṃ yadipi dibbaṃ; Kimaṅgaṃ pana [kimaṅga pana (sī. syā.), kiṃ pana (?)] tucchā kāmā, appassādā bahuvighātā. 450. Con hân hoan Niết-bàn,. Dầu sanh hữu Chư Thiên, Sanh hữu ấy vô thường, Giá trị gì các dục, Trống không, vị ngọt ít, Còn tàn hại thời nhiều. 449. Con thích thú Niết Bàn. Việc đi đến các hữu là không trường tồn, dầu là thuộc về cõi Trời đi nữa; vậy thì có gì với các dục rỗng không, ít khoái lạc, nhiều tai họa?
453. ‘‘Kāmā kaṭukā āsīvisūpamā, yesu mucchitā bālā; Te dīgharattaṃ niraye, samappitā haññante dukkhitā [haññare dukhitā (?)]. 451. Các dục thật cay đắng,. Ví như nọc rắn độc, Kẻ ngu mới tham đắm, Trong các loại dục ấy. Những ai thọ hưởng dục, Trong một thời gian dài, Bị khổ đau địa ngục, Hành hạ và tàn hại. 450. Các dục là cay đắng, ví như nọc độc của rắn, khiến những kẻ ngu bị mê mẩn. Chúng bị đọa vào địa ngục thời gian dài, bị hành hạ, khổ đau.
454. ‘‘Socanti pāpakammā, vinipāte pāpavaddhino sadā; Kāyena ca vācāya ca, manasā ca asaṃvutā bālā. 452. Những kẻ làm nghiệp ác,. Những kẻ tâm trí ác, Bị đau đớn sầu khổ, Trong cảnh giới đọa xứ. Kẻ ngu thường không nhiếp, Chế ngự thân, khẩu, ý. 451. Có việc làm ác, có trí xấu xa, thường xuyên không thu thúc về thân, về khẩu, và về ý, (những kẻ ngu) sầu khổ ở đọa xứ.
455. ‘‘Bālā te duppaññā, acetanā dukkhasamudayoruddhā; Desante ajānantā, na bujjhare ariyasaccāni. 453. Kẻ ngu có liệt tuệ,. Không tư duy quyết định, Không ngăn chặn khổ tập, Khi có thời thuyết pháp, Không biết lo học hỏi, Không giác tri Thánh đế. 452. Những kẻ ngu ấy có ác tuệ, không có ý tứ, bị giam hãm bởi (tham ái) nguyên nhân của Khổ; trong khi (có người) đang thuyết giảng, chúng không hiểu, không giác ngộ các Chân Lý cao thượng.
456. ‘‘Saccāni amma buddhavaradesitāni, te bahutarā ajānantā ye; Abhinandanti bhavagataṃ, pihenti devesu upapattiṃ. 454. Những sự thật, thưa mẹ,. Phật thù thắng thuyết giảng, Phần lớn chúng quần sanh, Không hiểu sự thật ấy; Họ hoan hỷ tái sanh, Ước muốn sanh thiên giới. 453. Thưa mẹ, những kẻ thích thú việc đi đến các hữu, mong mỏi việc sanh về các cõi Trời, những kẻ ấy là nhiều hơn, chúng không biết các Chân Lý đã được thuyết giảng bởi đức Phật cao quý.
457. ‘‘Devesupi upapatti, asassatā bhavagate aniccamhi; Na ca santasanti bālā, punappunaṃ jāyitabbassa. 455. Sanh thiên không thường trú,. Sanh hữu là vô thường, Kẻ ngu không sợ hãi, Luôn luôn phải tái sanh. 454. Khi việc đi đến các hữu là vô thường, việc sanh về thậm chí ở các cõi Trời cũng là không trường tồn; những kẻ ngu không sợ hãi đối với việc bị sanh lần này lần khác.
458. ‘‘Cattāro vinipātā, duve [dve (sabbattha)] ca gatiyo kathañci labbhanti; Na ca vinipātagatānaṃ, pabbajjā atthi nirayesu. 456. Bị sanh bốn đọa xứ,. Được sanh Thiên, Nhân giới Được chúng khó khăn thay, Những ai rơi đọa xứ, Trong cảnh giới địa ngục, Không có sự xuất gia. 455. Bốn đọa xứ và hai cảnh giới tái sanh (người và Trời) được đạt đến bằng cách này hay cách khác; còn đối với những kẻ đã đi đến đọa xứ thì không có việc xuất gia ở các địa ngục.
459. ‘‘Anujānātha maṃ ubhayo, pabbajituṃ dasabalassa pāvacane; Appossukkā ghaṭissaṃ, jātimaraṇappahānāya. 457. Mong cả hai cha mẹ,. Cho con được xuất gia, Trong giáo pháp thuyết giảng, Của bậc chứng Mười lực, Sống thong dong nhàn hạ, Nỗ lực đoạn sanh tử. 456. Cả hai (mẹ và cha) hãy cho phép con xuất gia theo lời giáo huấn của đấng Thập Lực. Ít bị bận rộn, con sẽ cố gắng cho việc dứt bỏ sự sanh và sự chết.
460. ‘‘Kiṃ bhavagate [bhavagatena (syā.)] abhinanditena, kāyakalinā asārena; Bhavataṇhāya nirodhā, anujānātha pabbajissāmi. 458. Sao con ưa tái sanh,. Với thân tội lỗi này, Thân trống rỗng, không lõi, Vì mục đích đoạn diệt, Tham ái được tái sanh, Xin cho con xuất gia. 457. Có gì với việc đi đến các hữu, với việc được vui thú, với tội lỗi của thân xác không có thực chất? Vì sự diệt tận đối với tham ái ở các hữu, xin mẹ cha hãy cho phép, con sẽ xuất gia.
461. ‘‘Buddhānaṃ uppādo vivajjito, akkhaṇo khaṇo laddho; Sīlāni brahmacariyaṃ, yāvajīvaṃ na dūseyyaṃ’’. 459. Nay thời, Phật ra đời,. Phi thời đã từ bỏ, Thời cơ nay đã đến, Cho đến trọn đời con, Con không làm tổn thương, Giới luật và Phạm hạnh. 458. Sự hiện khởi của chư Phật, lúc không phải thời cơ đã được tránh khỏi, thời cơ đã đạt được, con sẽ không làm hư hỏng các giới và Phạm hạnh cho đến trọn đời.
462. Evaṃ bhaṇati sumedhā, mātāpitaro ‘‘na tāva āhāraṃ; Āharissaṃ [āhariyāmi (sī.), āhārisaṃ (?)] gahaṭṭhā, maraṇavasaṃ gatāva hessāmi’’. 460. Sumedha nói vậy,. Nàng lại thưa mẹ cha. Con nguyện không ăn uống, Khi còn là cư sĩ, Ở đây con sẵn sàng, Chờ chết đến với con. 459. Khi nào còn là người tại gia thì con sẽ không động đến thức ăn, con dứt khoát sẽ đi đến cái chết.’ Sumedhā nói với mẹ cha như vậy.
463. Mātā dukkhitā rodati pitā ca, assā sabbaso samabhihato; Ghaṭenti saññāpetuṃ, pāsādatale chamāpatitaṃ. 461. Mẹ sầu khổ, khóc than!. Cha hoàn toàn sửng sốt, Họ gắng thuyết phục ta, Nằm dưới đất lâu dài. 460. Bị khổ đau, mẹ khóc, và người cha của cô gái đã bị tác động toàn diện, (hai người) cố gắng thuyết phục đứa con đã nằm dài xuống nền nhà ở sân thượng của tòa lâu đài.
464. ‘‘Uṭṭhehi puttaka kiṃ socitena, dinnāsi vāraṇavatimhi; Rājā anīkaratto [aṇīkadatto (sī. syā.)], abhirūpo tassa tvaṃ dinnā. 462. Này con hãy đứng dậy!. Có gì là sầu khổ, Khi con được cả nước, Varanavati, Anikarata, Đẹp trai, xứng đôi con. 461. ‘Này con, hãy đứng dậy. Việc gì phải bị sầu muộn? Con đã được gả về thành phố Vāraṇavatī. Đức vua Aṇīkadatta đẹp trai. Con đã được gả cho ông ta.
465. ‘‘Aggamahesī bhavissasi, anikarattassa rājino bhariyā; Sīlāni brahmacariyaṃ, pabbajjā dukkarā puttaka. 463. Con sẽ là hoàng hậu,. Vợ chính Anika! Này con, thật khó thay! Đời sống vị xuất gia, Giữ gìn các giới luật, Sống đời sống Phạm hạnh. 462. Con sẽ là hoàng hậu chánh cung, là vợ của đức vua Aṇīkadatta. Này con, các giới cấm, sự thực hành Phạm hạnh, sự xuất gia là các việc khó làm.
466. ‘‘Rajje āṇādhanamissariyaṃ, bhogā sukhā daharikāsi; Bhuñjāhi kāmabhoge, vāreyyaṃ hotu te putta’’. 464. Uy lực của vị vua,. Tiền của và quyền thế, Sản nghiệp và hạnh phúc, Với tuổi trẻ thanh xuân! Hãy thọ hưởng dục lạc, Hãy nhận lời lấy chồng. 463. Ở vương quốc, có uy lực, tài sản, vương quyền, của cải, sung sướng. Con còn trẻ, con hãy thọ hưởng sự hưởng thụ các dục. Này con, hãy để cho cuộc hôn lễ của con được tiến hành.’
467. Atha ne bhaṇati sumedhā, ‘‘mā edisikāni bhavagatamasāraṃ; Pabbajjā vā hohiti, maraṇaṃ vā me na ceva vāreyyaṃ. 465. Sumedha thưa rằng:. Thôi đừng, sự việc ấy, Họ đi đến tái sanh, Họ trống không, không lõi, Hoặc xuất gia, hoặc chết, Con chỉ cưới như vậy. 464. Khi ấy, Sumedhā nói với mẹ cha rằng: ‘Đừng có những việc như thế. Việc đi đến các hữu là không có thực chất. Đối với con, hoặc là sẽ có sự xuất gia, hoặc là cái chết, và dứt khoát không có đám cưới.
468. ‘‘Kimiva pūtikāyamasuciṃ, savanagandhaṃ bhayānakaṃ kuṇapaṃ; Abhisaṃviseyyaṃ bhastaṃ, asakiṃ paggharitaṃ asucipuṇṇaṃ. 466. Sá gì thân hôi nhớp,. Phát mùi, gây sợ hãi, Bao da đựng xác chết, Rỉ chảy đồ bất tịnh. 465. Giống như loài dòi, con bám víu vào cái thân hôi thối, không trong sạch, có mùi mồ hôi, cái thây ma đáng kinh sợ, cái túi da có sự rò rỉ thường xuyên, chứa đầy các chất dơ.
469. ‘‘Kimiva tāhaṃ jānantī, vikulakaṃ maṃsasoṇitupalittaṃ; Kimikulālayaṃ sakuṇabhattaṃ, kaḷevaraṃ kissa diyyati. 467. Sá gì thân ta biết,. Ghê tởm, lấm máu thịt, Chỗ chứa đựng loài sâu, Mồi ăn cho chim chóc, Thân xác này là vậy, Nay đem đến cho ai? 466. Nó tựa như cái gì? Trong khi con biết rằng xác thân là ghê tởm, bị lấm lem những thịt và máu, chỗ trú của nhiều loại dòi, bữa ăn của những con chim, tại sao thân xác lại được đem cho?
470. ‘‘Nibbuyhati susānaṃ, aciraṃ kāyo apetaviññāṇo; Chuddho [chaḍḍito (syā.), chuṭṭho (ka.)] kaḷiṅgaraṃ viya, jigucchamānehi ñātīhi. 468. Thân thể bỏ nghĩa địa,. Không lâu, mất thức tri, Như khúc gỗ quăng bỏ, Bà con đều ghê tởm. 467. Không bao lâu, khi tâm thức đã lìa, thân xác được đem ra bãi tha ma. Các thân quyến, trong khi ghê tởm, quăng bỏ nó giống như khúc gỗ mục.
471. ‘‘Chuddhūna [chaḍḍūna (syā.), chuṭṭhūna (ka.)] naṃ susāne, parabhattaṃ nhāyanti [nhāyare (?)] jigucchantā; Niyakā mātāpitaro, kiṃ pana sādhāraṇā janatā. 469. Thân ấy quăng nghĩa địa,. Làm mồi ăn kẻ khác, Trước chúng tắm rửa sạch, Nay chúng sinh ghê tởm, Cha mẹ còn như vậy, Nói gì chung quần chúng. 468. Sau khi đã quăng bỏ thân xác ấy ở bãi tha ma làm bữa ăn cho những loài thú khác, mẹ và cha ruột, trong khi ghê tởm, tắm rửa; còn nhóm người công chúng thì sao?
472. ‘‘Ajjhositā asāre, kaḷevare aṭṭhinhārusaṅghāte; Kheḷassuccārassava, paripuṇṇe [kheḷassuccārapassavaparipuṇṇe (sī.)] pūtikāyamhi. 470. Họ mê thân không lõi,. Ràng buộc bởi gân xương, Đầy nước miếng, nước mắt, Đầy phân tiểu hôi hám. 469. Họ bị dính mắc ở cái thân xác, không có thực chất, sự tập hợp các xương và những sợi gân, cái thân hôi thối, chứa đầy nước miếng, nước mắt, phân, và nước tiểu.
473. ‘‘Yo naṃ vinibbhujitvā, abbhantaramassa bāhiraṃ kayirā; Gandhassa asahamānā, sakāpi mātā jiguccheyya. 471. Nếu thân được mổ xẻ,. Lội nội phần ra ngoài, Chính mẹ phải ghê tởm, Không chịu nổi mùi hôi. 470. Người nào, sau khi mổ xẻ thân ấy, có thể làm cho cái phần bên trong ra bên ngoài, ngay cả người mẹ ruột, trong khi không chịu nổi mùi của nó, cũng sẽ ghê tởm.
474. ‘‘Khandhadhātuāyatanaṃ, saṅkhataṃ jātimūlakaṃ dukkhaṃ; Yoniso anuvicinantī, vāreyyaṃ kissa iccheyyaṃ. 472. Chính do uẩn, xứ, giới,. Tác thành các thân này, Gốc tái sanh, đau khổ; Họ như lý nói lên, Hoàn toàn không vui thích. Vậy ai, tôi muốn cưới? 471. Trong khi suy xét đúng đường lối về (năm) uẩn, (mười tám) giới, (mười hai) xứ là pháp tạo tác, là nền tảng của sự sanh, là khổ đau, tại sao con còn mong muốn đám cưới?
475. ‘‘Divase divase tisatti, satāni navanavā pateyyuṃ kāyamhi; Vassasatampi ca ghāto, seyyo dukkhassa cevaṃ khayo. 473. Từng ngày trăm ngọn giáo,. Luôn luôn mới đâm thân, Dầu bị hại trăm năm, Như vậy còn tốt hơn, Vì khổ ấy cuối cùng, Rồi cũng được tiêu diệt. 472. Mỗi một ngày ba trăm cây giáo mới tinh rơi xuống ở thân thể, và dẫu cho sự hành hạ trong một trăm năm cũng vẫn là tốt hơn, nếu như vậy mà có được sự cạn kiệt của khổ đau.
476. ‘‘Ajjhupagacche ghātaṃ, yo viññāyevaṃ satthuno vacanaṃ; ‘Dīgho tesaṃ [vo (ka.)] saṃsāro, punappunaṃ haññamānānaṃ’. 474. Kẻ trí quyết bằng lòng. Sự giết hại như trên, Bậc Đạo Sư dạy rằng: Họ luân hồi dài dà, Với tâm tư giết hại, Liên tục nối tiếp nhau. 473. Người nào có thể chấp nhận sự hành hạ sau khi nhận thức lời nói như vầy của bậc Đạo Sư: ‘Trong khi những người ấy đang bị giết chết lần này lần khác, luân hồi là dài đối với họ.’
477. ‘‘Devesu manussesu ca, tiracchānayoniyā asurakāye; Petesu ca nirayesu ca, aparimitā dissare ghātā. 475. Trong cảnh giới Trời, Người,. Bàng sanh, a-tu-la, Ngạ quỷ và Địa ngục, Chịu giết hại vô lượng. 474. Các sự hành hạ vô số kể được nhìn thấy ở chư Thiên, ở nhân loại, ở chủng loại các loài thú, ở tập thể của A-tu-la, ở các loài ngạ quỷ, và ở các địa ngục.
478. ‘‘Ghātā nirayesu bahū, vinipātagatassa pīḷiyamānassa [kilissamānassa (syā. ka.)]; Devesupi attāṇaṃ, nibbānasukhā paraṃ natthi. 476. Trong địa ngục, rất nhiều,. Kẻ tâm uế, đọa lạc, Chỗ trú ẩn Thiên giới, Không có lạc Niết-bàn. 475. Có nhiều sự hành hạ ở các địa ngục dành cho người đã đi đến đọa xứ, dành cho người đang bị áp chế, thậm chí không có sự ẩn náu ở giữa chư Thiên, không có gì vượt trội sự an lạc của Niết Bàn.
479. ‘‘Pattā te nibbānaṃ, ye yuttā dasabalassa pāvacane; Appossukkā ghaṭenti, jātimaraṇappahānāya. 477. Những ai đạt Niết-bàn,. Họ liên hệ mật thiết, Với những lời thuyết dạy, Của bậc đủ Mười lực, Thong dong không rộn ràng, Nỗ lực đoạn sanh tử. 476. Những người nào gắn bó với lời giáo huấn của đấng Thập Lực, ít bị bận rộn, cố gắng cho việc dứt bỏ sự sanh và sự chết, những người ấy đạt được Niết Bàn.
480. ‘‘Ajjeva tātabhinikkhamissaṃ, bhogehi kiṃ asārehi; Nibbinnā me kāmā, vantasamā tālavatthukatā’’. 478. Thưa cha ngày hôm nay. Con quyết tâm ra đi, Những tài sản rỗng không, Không có giá trị gì, Con ghê tởm các dục, Con chán ngấy các dục, Họ đã được tách thành, Như thân cây Ta-la. 477. Thưa cha, ngay hôm nay con sẽ xuất ly. Việc gì với các của cải không có thực chất? Các dục đã bị con nhàm chán; chúng được xem là vật đã được mửa ra, đã được làm thành thân cây thốt nốt (bị cụt ngọn).’
481. Sā cevaṃ bhaṇati pitaramanīkaratto ca yassa sā dinnā; Upayāsi vāraṇavate, vāreyyamupaṭṭhite kāle. 479. Nàng trả lời phụ thân,. Với lời nói như vậy. Anikaratta Được hứa gả công chúa, Đi đến gần xin cưới, Theo như giờ hẹn định. 478. Nàng ấy đã nói như thế với cha. Và Aṇīkadatta, người mà nàng ấy được gả cho, đã đi đến theo nghi thức của việc cưới hỏi, vào thời điểm đã được xác định là lễ cưới.
482. Atha asitanicitamuduke, kese khaggena chindiya sumedhā; Pāsādaṃ pidahitvā [pidhetvā (sī. syā.), pidhitvā (ka.)], paṭhamajjhānaṃ samāpajji. 480. Mái tóc đen, dày mịn,. Với gươm, nàng cắt ngang, Cửa lầu được đóng lại, Nàng chứng được Sơ thiền. 479. Khi ấy, Sumedhā, sau khi cắt đứt đầu tóc đen nhánh, dầy, rậm, mềm mại bằng con dao, sau đó đã đóng lại (cánh cửa) tòa lâu đài, rồi đã thể nhập tầng thiền thứ nhất.
483. Sā ca tahiṃ samāpannā, anīkaratto ca āgato nagaraṃ; Pāsāde ca [pāsādeva (sī. syā.)] sumedhā, aniccasaññaṃ [aniccasaññā (sabbattha)] subhāveti. 481. Nàng sống trong cảnh thiền,. A-ni-ka đến thành, Sumedha trong cung, Tu tập tưởng vô thường. 480. Và nàng đã thể nhập thiền ấy. Rồi Aṇīkadatta đã đi đến thành phố. Ngay tại tòa lâu đài, Sumedhā (đã) khéo tu tập tưởng về vô thường.
484. Sā ca manasi karoti, anīkaratto ca āruhī turitaṃ; Maṇikanakabhūsitaṅgo, katañjalī yācati sumedhaṃ. 482. Trong khi nàng tác ý,. Vua bước lên tam cấp, Trang sức vàng châu báu, Chấp tay cầu xin nàng. 481. (Trong lúc) Sumedhā bận chú tâm, Aṇīkadatta đã vội vã bước lên, với thân hình được trang điểm với ngọc ma-ni và vàng, với tay chắp lại, thỉnh cầu Sumedhā rằng:
485. ‘‘Rajje āṇādhanamissariyaṃ, bhogā sukhā daharikāsi; Bhuñjāhi kāmabhoge, kāmasukhā dullabhā loke. 483. Hãy trị vì quốc độ,. Với tiền của uy quyền, Với tài sản, hạnh phúc, Với tuổi trẻ thanh xuân, Hãy thọ hưởng các dục, Thật khó kiếm ở đời. 482. ‘Ở vương quốc, có uy lực, tài sản, vương quyền, của cải, sung sướng. Nàng còn trẻ, nàng hãy thọ hưởng sự hưởng thụ các dục. Sự khoái lạc của các dục ở thế gian là rất khó đạt được.
486. ‘‘Nissaṭṭhaṃ te rajjaṃ, bhoge bhuñjassu dehi dānāni; Mā dummanā ahosi, mātāpitaro te dukkhitā’’ [mātāpitaro ca te dukhitā (?)]. 484. Ta giao nàng vương quốc,. Hưởng tài sản, bố thí, Nàng chớ có buồn nản, Khiến mẹ cha khổ đau.  483. Vương quốc đã được trao cho nàng. Nàng hãy thọ hưởng các của cải, hãy bố thí các vật thí. Nàng chớ có ủ dột, (khiến) mẹ cha của nàng khổ đau.’
487. Taṃ taṃ bhaṇati sumedhā, kāmehi anatthikā vigatamohā; ‘‘Mā kāme abhinandi, kāmesvādīnavaṃ passa. Sumedha trả lời, Với vua, từng vấn đề; Đối với nàng, các dục, Không cầu không si mê, Chớ hoan hỷ các dục, Hãy thấy dục nguy hiểm. 484. Sumedhā, không có mục đích với các dục, có sự si mê đã xa lìa, nói điều này với Aṇīkadatta: ‘Chớ thích thú ở các dục. Chàng hãy nhìn thấy điều bất lợi ở các dục.
488. ‘‘Cātuddīpo rājā mandhātā, āsi kāmabhogina maggo; Atitto kālaṅkato, na cassa paripūritā icchā. 485. Mandhatà là vua,. Chúa bốn châu hưởng dục, Dục lạc ấy tối thượng, Tưy vậy khi vua chết, Cũng chưa được thỏa mãn, Ước vọng chưa đầy đủ. 485. Đức vua Mandhātā của bốn châu lục đã đứng đầu trong số những người thọ hưởng dục lạc, (nhưng vẫn) không được thỏa mãn, đã chết đi, và các điều mong muốn của vị ấy đã không được đầy đủ.
489. ‘‘Satta ratanāni vasseyya, vuṭṭhimā dasadisā samantena; Na catthi titti kāmānaṃ, atittāva maranti narā. 486. Dầu có mười bảy báu,. Khắp mười phương đầy tràn, Không có dục thỏa mãn, Người chết, chưa thỏa mãn. 486. Thần mưa có thể làm cơn mưa bảy loại châu báu ở xung quanh khắp cả mười phương, nhưng không có sự thỏa mãn của các dục. Loài người chết đi, thật sự không được thỏa mãn.
490. ‘‘Asisūnūpamā kāmā, kāmā sappasiropamā; Ukkopamā anudahanti, aṭṭhikaṅkala [kaṅkhala (sī.)] sannibhā. 487. Các dục ví gươm giáo,. Các dục ví đầu rắn, Ví như bó đuốc cháy Giống xương gậm trơn tru. 487. Các dục ví như dao và thớt; các dục ví như đầu rắn độc; chúng thiêu đốt ví như các cây đuốc cỏ; chúng tương tự như bộ xương.
491. ‘‘Aniccā addhuvā kāmā, bahudukkhā mahāvisā; Ayoguḷova santatto, aghamūlā dukhapphalā. 488. Các dục không thường còn,. Cũng không có thường hằng, Khổ nhiều, thuốc độc lớn, Như hòn đạn cháy đỏ, Nguồn gốc của bất hạnh, Kết quả là đau khổ. 488. Các dục là không thường còn, không bền vững, nhiều khổ đau, là những chất độc lớn lao, tựa như cục sắt đã được nung nóng, là gốc rễ của tội lỗi, có kết quả khổ đau.
492. ‘‘Rukkhapphalūpamā kāmā, maṃsapesūpamā dukhā; Supinopamā vañcaniyā, kāmā yācitakūpamā. 489. Dục như trái của cây,. Như miếng thịt, khổ lụy, Giống như mộng như huyễn, Dục như của vay mượn. 489. Các dục ví như trái trên cây; ví như miếng thịt, khổ đau; ví như giấc chiêm bao, lừa bịp; các dục ví như vật vay mượn.
493. ‘‘Sattisūlūpamā kāmā, rogo gaṇḍo aghaṃ nighaṃ; Aṅgārakāsusadisā, aghamūlaṃ bhayaṃ vadho. 490. Dục như gươm, như cọc,. Bệnh tật và cục bướu, Bất hạnh và dao động, Ví như hố than hừng, Nguồn gốc của bất hạnh, Sợ hãi và tàn sát. 490. Các dục ví như gươm giáo, là bệnh tật, mụt nhọt, tội lỗi, khốn khổ, tương tự hố than cháy rực, là gốc rễ của tội lỗi, sợ hãi, giết chóc.
494. ‘‘Evaṃ bahudukkhā kāmā, akkhātā antarāyikā; Gacchatha na me bhagavate, vissāso atthi attano. 491. Như vậy, dục nhiều khổ,. Được gọi chứng ngại pháp, Hãy đi, từ bỏ tôi, Khi tôi còn tái sanh, Thời đối với tự ngã, Tôi không có lòng tin. 491. Các dục có nhiều khổ đau như vậy, đã được nói đến là các chướng ngại. Quý vị hãy đi đi, bản thân tôi không có sự tin tưởng ở việc đi đến các hữu.
495. ‘‘Kiṃ mama paro karissati, attano sīsamhi ḍayhamānamhi; Anubandhe jarāmaraṇe, tassa ghātāya ghaṭitabbaṃ’’. 492. Ai giúp gì tôi được,. Khi đầu tôi đang cháy, Khi già chết bám sát, Tôi cần phải nỗ lực, Đối với tàn hại ấy! 492. Người khác sẽ làm gì cho tôi khi cái đầu của bản thân tôi đang bị thiêu đốt? Khi sự sống và chết đuổi theo sau, thì nên cố gắng cho việc diệt trừ đối với điều ấy.’
496. Dvāraṃ apāpuritvānahaṃ [avāpuritvāhaṃ (sī.)], mātāpitaro anīkarattañca; Disvāna chamaṃ nisinne, rodante idamavocaṃ. 493. Không đi đến gần cửa,. Nàng thấy mẹ và cha, Và vua Anika, Ngồi dưới đất khóc than, Thấy vậy nàng tỏ lời, Thưa mọi người như sau: 493. Sau khi mở ra cánh cửa, nhìn thấy mẹ cha và Aṇīkadatta ngồi ở nền nhà đang khóc than, tôi đã nói điều này:
497. ‘‘Dīgho bālānaṃ saṃsāro, punappunañca rodataṃ; Anamatagge pitu maraṇe, bhātu vadhe attano ca vadhe. 494. Kẻ ngu, đã lâu rồi,. Khóc luân hồi nói tiếp, Từ vô thỉ đến nay, Khóc phải bị mệnh chung, Khóc anh em bị giết, Khóc tự mình bị giết. 494. ‘Luân hồi là dài lâu cho những kẻ ngu và những kẻ đang khóc lóc lần này lần khác về việc không có khởi đầu và chấm dứt, về cái chết của cha, về sự chết chóc của anh em trai, và về sự chết chóc của bản thân.
498. ‘‘Assu thaññaṃ rudhiraṃ, saṃsāraṃ anamataggato saratha; Sattānaṃ saṃsarataṃ, sarāhi aṭṭhīnañca sannicayaṃ. 495. Hãy nhớ từ vô thỉ,. Nước mắt, sữa và máu, Tuôn chảy theo luân hồi, Không bao giờ dừng nghỉ, Hãy nhớ các chúng sanh, Luân hồi xương chất đống. 495. Hãy nhớ rằng nước mắt, sữa, máu, sự luân hồi không có khởi đầu và chấm dứt. Hãy nhớ rằng sự chồng chất của những khúc xương của các chúng sanh đang luân hồi.
499. ‘‘Sara caturodadhī [sarassu caturo udadhī (?)], upanīte assuthaññarudhiramhi; Sara ekakappamaṭṭhīnaṃ, sañcayaṃ vipulena samaṃ. 496. Hãy nhớ tràn bốn biển,. Đầy nước mắt, sữa, máu, Hãy nhớ xương một kiếp, Cao bằng Vi-pu-la. 496. Hãy nhớ rằng nước mắt, sữa, máu đã được so sánh với bốn biển. Hãy nhớ rằng sự chồng chất của những khúc xương trong một đại kiếp là sánh bằng núi Vipula.
500. ‘‘Anamatagge saṃsarato, mahiṃ [mahāmahiṃ (?)] jambudīpamupanītaṃ; Kolaṭṭhimattaguḷikā, mātā mātusveva nappahonti. 497. Hãy nhớ từ vô thỉ,. Không đủ để làm thành, Cả đất nước Diêm Phù, Những nấm mồ hột táo, Của mẹ cha luân hồi. 497. Quả địa cầu, xứ Jambudīpa, được so sánh với kẻ đang luân hồi (ở sự luân hồi) không có khởi đầu và chấm dứt; (trái đất được làm thành) những viên bi nhỏ như hạt táo vẫn không sánh bằng những lần đã lần lượt làm mẹ.
501. ‘‘Tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṃ [sara tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṃ (sī.)], upanītaṃ anamataggato sara; Caturaṅgulikā ghaṭikā, pitupitusveva nappahonti. 498. Hãy nhớ từ vô thỉ,. Những cỏ cây cành lá, Không đủ để chứa đựng, Những ghè bốn ngón tay, Chứa người cha, luân hồi. 498. Hãy nhớ rằng cỏ, củi, cành, lá được so sánh với sự (luân hồi) không có khởi đầu và chấm dứt. (Cắt cỏ, củi, cành, lá thành) những mẩu bốn ngón tay vẫn không sánh bằng những lần đã lần lượt làm cha.
502. ‘‘Sara kāṇakacchapaṃ pubbasamudde, aparato ca yugachiddaṃ; Siraṃ [sara (sī.)] tassa ca paṭimukkaṃ, manussalābhamhi opammaṃ. 499. Hãy nhớ tới hình ảnh,. Con rùa mù biển đông, Cho đầu nó lọt vào, Lỗ hổng khúc cây trôi, Để nói lên ví dụ, Được làm người khó vậy. 499. Hãy nhớ rằng con rùa mù và lỗ hổng ở cái ách (trôi dạt) ở biển đông sang phía tây. Và hãy nhớ rằng sự gặp gỡ của nó là ví dụ về việc đạt được bản thể nhân loại.
503. ‘‘Sara rūpaṃ pheṇapiṇḍopamassa, kāyakalino asārassa; Khandhe passa anicce, sarāhi niraye bahuvighāte. 500. Hãy nhớ thân sắc người,. Được ví bong bóng nước, Đầy cả những bất hạnh, Trống không không có lõi, Hãy thấy uẩn vô thường! Nhớ địa ngục nhiều họa. 500. Hãy nhớ rằng hình thể của xác thân tồi tệ, không có thực chất, ví như cục bong bóng nước. Hãy nhìn thấy các uẩn là vô thường. Hãy nhớ rằng các địa ngục là có nhiều tai họa.
504. ‘‘Sara kaṭasiṃ vaḍḍhente, punappunaṃ tāsu tāsu jātīsu; Sara kumbhīlabhayāni ca, sarāhi cattāri saccāni. 501. Hãy nhớ nghĩa địa lớn,. Nhờ tái sanh tiếp tục, Nhờ sợ hãi thuồng luồng, Hãy nhớ Bốn sự thật. 501. Hãy nhớ về những kiếp sống kia kiếp sống nọ đang làm phát triển bãi tha ma lúc này lúc khác. Hãy nhớ đến những nỗi sợ hãi về cá sấu (sự tham ăn). Hãy nhớ về bốn Chân Lý.
505. ‘‘Amatamhi vijjamāne, kiṃ tava pañcakaṭukena pītena; Sabbā hi kāmaratiyo, kaṭukatarā pañcakaṭukena. 502. Nước bất tử có đây,. Sao người uống trăm đắng, Tất cả các dục lạc, Thật trăm cay ngàn đắng. 502. Trong khi Bất Tử đang được biết đến, chàng được cái gì với việc uống vào năm vật cay đắng? Bởi vì mọi sự thích thú ở các dục còn đắng cay hơn năm vật cay đắng nữa.
506. ‘‘Amatamhi vijjamāne, kiṃ tava kāmehi ye pariḷāhā [sapariḷāhā (sī. aṭṭha.)]; Sabbā hi kāmaratiyo, jalitā kuthitā kampitā santāpitā. 503. Nước bất tử có đây!. Sao người ưa dục não! Mọi dục lạc đốt cháy Sôi sùng sục nung nấu. 503. Trong khi sự Bất Tử đang được biết đến, chàng được cái gì với các dục, là những thứ có sự nóng nực? Bởi vì mọi sự thích thú ở các dục là bị cháy rực, bị sôi sục, bị rung chuyển, bị thiêu đốt.
507. ‘‘Asapattamhi samāne, kiṃ tava kāmehi ye bahusapattā; Rājaggicoraudakappiyehi, sādhāraṇā kāmā bahusapattā. 504. Đây không có kẻ thù!. Sao thích dục thù địch? Vua lửa, trộm, nước, oán, Thù chung thật là nhiều. 504. Trong khi là không có kẻ thù, chàng được cái gì với các dục, là những thứ có nhiều kẻ thù? Các dục là có nhiều kẻ thù, ví dụ như các vị vua, ngọn lửa, trộm cướp, nước (lũ), người không yêu thương, v.v…
508. ‘‘Mokkhamhi vijjamāne, kiṃ tava kāmehi yesu vadhabandho; Kāmesu hi asakāmā, vadhabandhadukhāni anubhonti. 505. Ở đây có giải thoát!. Sao để dục giết trói, Trong dục có giết trói! Mê dục nhiều khổ đau. 505. Trong khi sự Giải Thoát đang được biết đến, chàng được cái gì với các dục, ở những thứ ấy có sự giết hại và trói buộc. Bởi vì do dục không tốt đẹp trong số các dục, chúng sanh chịu đựng những khổ đau do sự giết hại và trói buộc.
509. ‘‘Ādīpitā tiṇukkā, gaṇhantaṃ dahanti neva muñcantaṃ; Ukkopamā hi kāmā, dahanti ye te na muñcanti. 506. Đuốc cỏ đang cháy rực,. Nắm, không thả, bị đốt, Dục ví như bó đuốc, Đốt cháy ai không thoát. 506. Những cây đuốc cỏ, đã được thắp sáng, đốt nóng những người đang nắm lấy và không bao giờ chịu buông ra. Các dục, quả giống như cây đuốc, đốt nóng những người không chịu buông ra.
510. ‘‘Mā appakassa hetu, kāmasukhassa vipulaṃ jahī sukhaṃ; Mā puthulomova baḷisaṃ, gilitvā pacchā vihaññasi. 507. Chớ nhận dục lạc nhỏ,. Bỏ lạc lớn rộng rãi, Chớ như cá nuốt câu, Sau phải chịu hoạn nạn. 507. Chớ từ bỏ sự an lạc lớn lao vì nguyên nhân khoái lạc ít ỏi của các dục. Chớ như con cá Puthuloma đã nuốt vào lưỡi câu về sau bị khốn khổ.
511. ‘‘Kāmaṃ kāmesu damassu, tāva sunakhova saṅkhalābaddho; Kāhinti khu taṃ kāmā, chātā sunakhaṃva caṇḍālā. 508. Hãy nhiếp dục trong dục,. Như chó bị dây cột, Chớ để dục ăn ngươi, Như dân đói ăn chó. 508. Chỉ còn cách hãy hết lòng kiềm chế đối với các dục, tựa như con chó bị trói buộc vào sợi xích. Quả vậy, các dục sẽ đối xử với ngươi, tựa như hạng người hạ liệt bị đói sẽ đối xử với con chó.
512. ‘‘Aparimitañca dukkhaṃ, bahūni ca cittadomanassāni; Anubhohisi kāmayutto, paṭinissaja [paṭinissara (sī.)] addhuve kāme. 509. Khổ thật là vô lượng,. Khiến tâm nhiều ưu tư, Ngươi hệ lụy với dục, Hãy bỏ dục vô thường. 509. Bị vướng vào ở các dục, chàng sẽ chịu đựng nhiều khổ đau vô hạn lượng và buồn bực ở tâm trí. Hãy buông bỏ các dục không được bền lâu.
513. ‘‘Ajaramhi vijjamāne, kiṃ tava kāmehi [yesu jarāya ca; maraṇabyādhihi gahitā (?)] yesu jarā; Maraṇabyādhigahitā [yesu jarāya ca; maraṇabyādhihi gahitā (?)], sabbā sabbattha jātiyo. 510. Ở đây, không có già!. Sao theo dục bị già? Mọi sanh ở khắp nơi, Bị bệnh chết chi phối, 510. Trong khi sự không già đang được biết đến, chàng được cái gì với các dục, ở những thứ ấy có sự già. Ở khắp mọi nơi, tất cả các sự sanh ra đều bị nắm giữ bởi sự chết và bệnh tật.
514. ‘‘Idamajaramidamamaraṃ [idaṃ ajaraṃ idaṃ amaraṃ (?)], idamajarāmaraṃ padamasokaṃ; Asapattamasambādhaṃ, akhalitamabhayaṃ nirupatāpaṃ. 511. Đây không già, không chết.. Đây con đường không già, Không chết, không sầu não, Không thù địch trói buộc, Không vấp ngã sợ hãi, Không nung nấu đọa đầy. 511. Cái này là không già, cái này là không chết, cái này là vị thế không già không chết, không sầu muộn, không kẻ thù, không chướng ngại, không lầm lỗi, không sợ hãi, khỏi bị nóng nảy.
515. ‘‘Adhigatamidaṃ bahūhi, amataṃ ajjāpi ca labhanīyamidaṃ; Yo yoniso payuñjati, na ca sakkā aghaṭamānena’’. 512. Đích này, nhiều người đạt,. Đích này là bất tử, Nay cần phải chứng được, Ai như lý chú tâm, Nếu không có nỗ lực, Không sao chứng đạt được. Sumedhà nói vậy, Không thích đi đến hành Nàng thuyết phục được vua, Với tóc quăng trên đất. 512. Sự Bất Tử này đã được chứng đắc bởi nhiều người. Ngay cả hôm nay, cái này vẫn còn được chứng ngộ (đối với) người nào áp dụng đúng đường lối, và không thể được với người không cố gắng.’
516. Evaṃ bhaṇati sumedhā, saṅkhāragate ratiṃ alabhamānā; Anunentī anikarattaṃ, kese ca chamaṃ khipi sumedhā. 513. Đứng dậy A-ni-ka. Chắp tay xin cha nàng, Hãy cho Su-me-dha, Được xuất gia tu học, Để nàng thấy cho được, Giải thoát và chân lý. 513. Trong khi không đạt được sự thích thú ở việc đi đến các sự tạo tác, Sumedhā nói như vậy. Trong khi thuyết phục Aṇīkadatta, Sumedhā đã ném nắm tóc xuống nền nhà.
517. Uṭṭhāya anikaratto, pañjaliko yācitassā pitaraṃ so; ‘‘Vissajjetha sumedhaṃ, pabbajituṃ vimokkhasaccadassā’’. 514. Mẹ cha cho xuất gia,. Thoát sầu, sợ, khiếp đảm, Sáu thắng trí chứng đạt. 514. Sau khi đứng lên, Aṇīkadatta ấy đã chắp tay thỉnh cầu mẹ cha của nàng rằng: ‘Quý vị hãy cho phép Sumedhā được xuất gia; nàng sẽ có sự nhìn thấy Giải Thoát và Chân Lý.’
518. Vissajjitā mātāpitūhi, pabbaji sokabhayabhītā; Cha abhiññā sacchikatā, aggaphalaṃ sikkhamānāya. 515. Chứng luôn quả tối thượng. Dầu còn là học nữ. 515. Được mẹ cha cho phép, bị sợ hãi vì sự sầu muộn và lo sợ (luân hồi), nàng đã xuất gia. Trong khi còn là vị ni tu tập sự, sáu Thắng Trí và quả vị cao cả đã được (nàng) chứng ngộ.
519. Acchariyamabbhutaṃ taṃ, nibbānaṃ āsi rājakaññāya; Pubbenivāsacaritaṃ, yathā byākari pacchime kāle. 516. Thật vi diệu hy hữu!. Một công chúa con vua, Lại đạt được Niết-bàn! Nàng nói lên như sau, Thời trước đời cuối cùng. 516. Niết Bàn kỳ diệu, phi thường ấy đã thuộc về người con gái của đức vua, như đã được nàng nói rõ về việc làm trong đời sống thuộc thời quá khứ ở vào thời điểm cuối cùng.
520. ‘‘Bhagavati koṇāgamane, saṅghārāmamhi navanivesamhi; Sakhiyo tisso janiyo, vihāradānaṃ adāsimha. 517. Trong thời đức Thế Tôn,. Konàgamana! Trong trú xứ mới làm, Tại cảnh Tăng già lam, Với bạn là ba người, Chúng tôi cúng tịnh xá. 517. Vào thời đức Thế Tôn Koṇāgamana, chúng tôi gồm ba người bạn gái[15] đã dâng cúng trú xá ở tại chỗ cư ngụ mới là tu viện của hội chúng.
521. ‘‘Dasakkhattuṃ satakkhattuṃ, dasasatakkhattuṃ satāni ca satakkhattuṃ; Devesu uppajjimha, ko pana vādo manussesu. 518. Mười lần, một trăm lần,. Mười trăm, trăm trăm lần, Chúng tôi sanh chư Thiên, Còn nói gì, làm người. 518. Chúng tôi đã tái sanh mười lần, trăm lần, ngàn lần, mười ngàn lần ở các cõi trời, thì ở cõi người có điều gì để nói.
522. ‘‘Devesu mahiddhikā ahumha, mānusakamhi ko pana vādo; Sattaratanassa mahesī, itthiratanaṃ ahaṃ āsiṃ. 519. Giữa chư Thiên chúng tôi,. Có được thân lực lớn, Còn nói gì chúng tôi, Khi được làm thân người, Ta hoàng hậu, bảy báu! Ta chính là nữ báu. 519. Chúng tôi đã có đại thần lực ở cõi trời, thì ở cõi người có điều gì để nói. Tôi đã là hoàng hậu, là báu vật nữ nhân trong số bảy loại báu vật.
523. ‘‘So hetu so pabhavo, taṃ mūlaṃ sāva sāsane khantī; Taṃ paṭhamasamodhānaṃ, taṃ dhammaratāya nibbānaṃ’’. 520. Đây là nhân, là nguồn. Đây chính là căn gốc, Kham nhẫn lời Đạo Sư! Đây dây chuyền thứ nhất Đấy chính là Niết-bàn, Nếu chúng ta mến pháp. 520. Nhân ấy, nguồn sanh khởi ấy, căn nguyên ấy, sự chăm chỉ ấy trong Giáo Pháp, sự liên kết đầu tiên ấy, việc Niết Bàn ấy là do sự thỏa thích trong Giáo Pháp.[16]
524. Evaṃ karonti ye saddahanti, vacanaṃ anomapaññassa; Nibbindanti bhavagate, nibbinditvā virajjantīti. 521. Như vậy với lòng tin,. Họ thuyết rõ nên lời Lời nói đầy trí tuệ, Thù thắng và tối thượng Họ chán ghét tái sanh, Do chán ghét, tham diệt. 521. Những người nào tin tưởng vào lời nói của bậc Trí Tuệ Cao Thượng thì thực hành như vậy, họ nhàm chán việc đi đến các hữu, sau khi nhàm chán họ lìa khỏi ái luyến.”
Itthaṃ sudaṃ sumedhā therī gāthāyo abhāsitthāti.   Trưởng lão ni Sumedhā đã nói những lời kệ như thế.
Mahānipāto niṭṭhito. Hết Tập III, Tiểu Bộ Nhóm Lớn được chấm dứt.
Samattā therīgāthāyo.   “Tất cả các câu kệ ấy là năm trăm hai mươi mốt. Các trưởng lão ni là một trăm lẻ một,[17] tất cả các vị ni ấy có sự cạn kiệt của các lậu hoặc.”
Gāthāsatāni cattāri, asīti puna cuddasa [gāthāsaṅkhyā idha anukkamaṇikagaṇanāvasena pākaṭā];   TRƯỞNG LÃO NI KỆ ĐƯỢC ĐẦY ĐỦ.
Theriyekuttarasatā [therīyekuttarachasatā (?) tiṃsamattāpi pañcasatamattāpi theriyo ekato āgatā manasikātabbā], sabbā tā āsavakkhayāti.    
Therīgāthāpāḷi niṭṭhitā.    
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa    
Khuddakanikāye