Tipitaka.org |
Việt dịch: HT. Thích Minh Châu |
Việt dịch: TK. Indacanda |
1. Bhūtattheragāthā |
(CCXXXII) Bhùta (Thera. 54) |
Kệ ngôn của trưởng lão Bhūta. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh tại ngoại thành Sàketa, con một hội viên giàu có trong Hội đồng thành phố, ngài là con út và người con độc nhất được sống sót, các người con khác bị một con Dạ-xoa thù nghịch ăn thịt. Ngài được canh gác cẩn mật, và con Dạ-xoa bận lên hầu Vessavana nên không về nữa. Khi đến tuổi đặt tên, ngài được đặt tên là Bhùta, vì do nguyện cầu được sanh ngài: ‘Mong rằng các hàng phi nhân có lòng từ hộ trì cho đứa trẻ’. Nhờ công đức của mình, ngài lớn lên không bị tai nạn gì, được nuôi dưỡng trong ba lâu đài như Yasa. Khi bậc Đạo Sư đến Sàketa, ngài cùng với các cư sĩ khác đến tịnh xá nghe thuyết pháp. Sau khi xuất gia, ngài sống trong một hang động, trên bờ sông Ajakaranì. Tại đấy, ngài chứng quả A-la-hán. Sau đó ngài về thăm các bà con vì lòng từ mẫn và ở trong rừng Anjana. Khi các bà con yêu cầu ngài ở lại, vì lợi ích chung cho các bà con và cho ngài, ngài nói ngài ưa thích đời sống xuất gia và nói lên những bài kệ như sau, trước khi từ biệt các bà con: |
|
518. ‘‘Yadā dukkhaṃ jarāmaraṇanti paṇḍito, aviddasū yattha sitā puthujjanā; Dukkhaṃ pariññāya satova jhāyati, tato ratiṃ paramataraṃ na vindati. |
518. Khi bậc trí thấy được,. Già chết là đau khổ, Tại đấy, kẻ phàm phu, Không thấy, chấp thủ khổ. Sau khi liễu tri khổ, Chánh niệm, tu thiền định, Không tìm thấy lạc nào, Ưu việt hơn lạc này. |
518. “Khi nào bậc sáng trí (nhận thức rằng) ‘già và chết là khổ,’ là điều mà những kẻ phàm nhân ngu si bị vướng mắc, sau khi biết toàn diện về khổ, rồi tham thiền, thật sự có niệm, thì không còn tìm thấy sự thích thú nào tối thắng hơn điều ấy. |
519. ‘‘Yadā dukkhassāvahaniṃ visattikaṃ, papañcasaṅghātadukhādhivāhiniṃ; Taṇhaṃ pahantvāna satova jhāyati, tato ratiṃ paramataraṃ na vindati. |
519. Khi đoạn tận được ái,. Ái đem khổ, độc hại, Tạo hý luận trói buộc, Đẩy mạnh đến đau khổ, Sau khi đoạn tận ái, Chánh niệm, tu thiền định, Không tìm thấy lạc nào, Ưu việt hơn lạc này. |
519. Khi nào (vị ấy) đã trừ tuyệt sự đem lại khổ đau, sự quyến luyến, sự đem lại khổ đau do sự tích lũy các điều chướng ngại, tham ái, rồi tham thiền, thật sự có niệm, thì không còn tìm thấy sự thích thú nào tối thắng hơn điều ấy. |
520. ‘‘Yadā sivaṃ dvecaturaṅgagāminaṃ, magguttamaṃ sabbakilesasodhanaṃ; Paññāya passitva satova jhāyati, tato ratiṃ paramataraṃ na vindati. |
520. Khi với tuệ, thấy được,. Con đường lành vô thượng, Gồm hai lần bốn phần, Tịnh trừ mọi phiền não, Sau khi thấy với tuệ; Chánh niệm tu thiền định, Không tìm thấy lạc nào, Ưu việt hơn lạc này. |
520. Khi nào nhìn thấy bằng tuệ lối đi gồm tám chi phần, tốt đẹp, Đạo Lộ tối thượng, có sự rửa sạch tất cả phiền não, rồi tham thiền, thật sự có niệm, thì không còn tìm thấy sự thích thú nào tối thắng hơn điều ấy. |
521. ‘‘Yadā asokaṃ virajaṃ asaṅkhataṃ, santaṃ padaṃ sabbakilesasodhanaṃ; Bhāveti saññojanabandhanacchidaṃ, tato ratiṃ paramataraṃ na vindati. |
521. Khi tu tập con đường,. Không sầu, không cấu uế, Vô vi, an tịnh đạo, Tịnh trừ mọi phiền não, Chặt trói buộc kiết sử, Chánh niệm, tu thiền định, Không tìm thấy lạc nào, Ưu việt hơn lạc này. |
521. Khi nào (vị ấy) phát triển vị thế không sầu muộn, xa lìa luyến ái, không bị tạo tác, an tịnh, có sự rửa sạch tất cả phiền não, có sự cắt đứt việc trói buộc của những điều ràng buộc, thì không còn tìm thấy sự thích thú nào tối thắng hơn điều ấy. |
522. ‘‘Yadā nabhe gajjati meghadundubhi, dhārākulā vihagapathe samantato; Bhikkhū ca pabbhāragatova jhāyati, tato ratiṃ paramataraṃ na vindati. |
522. Khi trên trời vang rền,. Tiếng trống mây giông tố, Khắp con đường chim bay, Dòng mưa dày đặc đổ, Tỷ-kheo đi đến hang, Tu tập, ngồi thiền định, Không tìm thấy lạc nào, Ư u việt hơn lạc này. |
522. Khi nào tiếng sấm của đám mây đen gào thét ở bầu trời, những dòng nước dầy đặc khắp mọi nơi ở đường bay của những con chim, và vị tỳ khưu đi đến hang núi, rồi tham thiền, thì không còn tìm thấy sự thích thú nào tối thắng hơn điều ấy. |
523. ‘‘Yadā nadīnaṃ kusumākulānaṃ, vicitta-vāneyya-vaṭaṃsakānaṃ; Tīre nisinno sumanova jhāyati, tato ratiṃ paramataraṃ na vindati. |
523. Khi trên những bờ sông,. Những vòng hoa rừng núi, Nở lên và chói sáng, Với nhiều màu nhiều sắc, Với tâm tư thoải mái, Ngồi thiền trên bờ sông, Không tìm thấy lạc nào, Ưu việt hơn lạc này. |
523. Khi nào chính vị Sa-môn ngồi xuống ở bãi đất dọc những dòng sông, được chen chúc bông hoa, với những chùm hoa rừng nhiều màu sắc, rồi tham thiền, thì không còn tìm thấy sự thích thú nào tối thắng hơn điều ấy. |
524. ‘‘Yadā nisīthe rahitamhi kānane, deve gaḷantamhi nadanti dāṭhino; Bhikkhū ca pabbhāragatova jhāyati, tato ratiṃ paramataraṃ na vindati. |
524. Khi nửa đêm, rừng vắng,. Trời đổ trận mưa rào, Loài có ngà có nanh, Đang sống đang gầm thét, Tỷ-kheo đến triền núi, Ngồi yên lặng tọa thiền, Không tìm thấy lạc nào, Ưu việt hơn lạc này. |
524. Khi nào vào lúc nửa đêm, ở cánh rừng thanh vắng, khi trời đang đổ mưa, những con thú có răng nanh gầm rống, và vị tỳ khưu vẫn đi đến hang núi, rồi tham thiền, thì không còn tìm thấy sự thích thú nào tối thắng hơn điều ấy. |
525. ‘‘Yadā vitakke uparundhiyattano, nagantare nagavivaraṃ samassito; Vītaddaro vītakhilova jhāyati, tato ratiṃ paramataraṃ na vindati. |
525. Khi tầm tứ chế ngự. Giữa núi, trong hang động Thoải mái tự ngồi thiền, Không sợ không chướng ngại Không tìm thấy lạc nào, Ưu việt hơn lạc này. |
525. Khi nào (vị ấy) đã chặn đứng các sự suy nghĩ của bản thân, đã nương tựa vào khe núi, bên trong ngọn núi, có sự buồn bực đã được xa lìa, có sự cứng cỏi của tâm đã ra đi, rồi tham thiền, thì không còn tìm thấy sự thích thú nào tối thắng hơn điều ấy. |
526. ‘‘Yadā sukhī malakhilasokanāsano, niraggaḷo nibbanatho visallo; Sabbāsave byantikatova jhāyati, tato ratiṃ paramataraṃ na vindatī’’ti. |
526. Khi ngồi được hỷ lạc,. Không uế chướng, không sầu, Không tù túng, thoát ái, Không bị mũi tên đâm, Mọi lậu hoặc chấm dứt, Vị ấy ngồi tọa thiền, Không tìm thấy lạc nào, Ưu việt hơn lạc này. |
526. Khi nào có sự an lạc, có sự tiêu tan của sự nhiễm ô cứng cỏi và sầu muộn, không còn bị cản trở, không còn tham ái, hết bị mũi tên, đã thật sự thủ tiêu tất cả các lậu hoặc, rồi tham thiền, thì không còn tìm thấy sự thích thú nào tối thắng hơn điều ấy.” |
… Bhūto thero…. Navakanipāto niṭṭhito. |
|
Đại đức trưởng lão Bhūta đã nói những lời kệ như thế. |
Tatruddānaṃ – |
|
TÓM LƯỢC NHÓM NÀY |
Bhūto tathaddaso thero, eko khaggavisāṇavā; |
|
“Vị trưởng lão Bhūta đã được thấy như vậy, một mình, như sừng của loài tê giác; ở nhóm chín cũng chỉ có chín câu kệ này.” |
Navakamhi nipātamhi, gāthāyopi imā navāti. |
|
Nhóm Chín được chấm dứt. |