8. Aṭṭhakanipāto

Chương VIII – Phẩm Tám Kệ

8. Nhóm tám

Tipitaka.org Việt dịch: HT. Thích Minh Châu Việt dịch: TK. Indacanda
1. Mahākaccāyanattheragāthā (CCXXLX) Mahà-Kaccàyana (Thera. 52) Kệ ngôn của trưởng lão Mahākaccāyana.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh tại Ujienì trong gia đình của vị cố vấn nghi lễ cho vua Candapajjota. Ngài học ba tập Vệ-đà, khi ngài lớn và khi phụ thân mất ngài kế tiếp chức vụ của cha. Ngài được biết với tên là Kaccàna theo dòng họ. Nhà vua được nghe tin đức Phật xuất hiện, ngài đi mời đức Phật, ngài đi với bảy người, được bậc Đạo Sư thuyết pháp, sau buổi thuyết giảng, cả ngài với bảy người đều chứng quả A-la-hán, với hiểu biết về nghĩa và về pháp. Rồi Thế Tôn đưa tay nói: ‘Hãy đến các Tỷ-kheo!’, cả tám vị được cắt tóc, đầy đủ với bát và y.  
  Khi ngài đã được giải thoát, ngài mời đức Phật đến Ujjenì để thuyết pháp cho vua. Đức Phật nói Kaccàna tự mình đi về, thực hiện sứ mệnh ấy. Kaccàna theo lời khuyên, đi với cả bảy vị, thuyết pháp cho vua, khiến vua khởi lòng tin rồi trở lại với bậc Đạo Sư.  
  Một hôm, nhiều Tỷ-kheo sau khi bỏ một bên các bổn phận của mình, tìm thú vui trong các vui thế tục và xã hội, đang sống một đời sống phóng dật. Vị Trưởng lão trong hai câu kệ, khuyên răn các vị ấy, và với sáu bài kệ tiếp, giảng dạy cho vua:  
494. ‘‘Kammaṃ bahukaṃ na kāraye, parivajjeyya janaṃ na uyyame; So ussukko rasānugiddho, atthaṃ riñcati yo sukhādhivāho. 494. Chớ làm quá nhiều việc,. Tránh quần chúng đua tranh, Người siêng tham đắm vị, Bỏ đích đem an lạc. 494. “Không nên làm việc nhiều, nên tránh xa mọi người, không nên gắng sức. Là người năng nổ, bị tham đắm ở vị nếm, vị ấy bỏ bê mục đích, nguồn đem lại sự an lạc.
495. ‘‘Paṅkoti hi naṃ avedayuṃ, yāyaṃ vandanapūjanā kulesu; Sukhumaṃ sallaṃ durubbahaṃ, sakkāro kāpurisena dujjaho. 495. Ta cảm là ‘đống bùn’,. Cung kính các gia đình, Là mũi tên nhỏ nhiệm, Thật khó được rút ra, Tôn trọng khó từ bỏ, Đối với kẻ không tốt. Lời cho vua: 495. Họ đã biết việc đảnh lễ và cúng dường ở các gia đình chỉ là ‘bùn lầy.’ Mũi tên mảnh mai thì khó rút ra, sự tôn vinh là khó từ bỏ đối với kẻ ti tiện.[14]
496. ‘‘Na parassupanidhāya, kammaṃ maccassa pāpakaṃ; Attanā taṃ na seveyya, kammabandhūhi mātiyā. 496. Hành động của con người,. Không phải là độc ác, Tùy thuộc vào người khác, Người khác nói hay làm, Tự mình chớ có làm, Vì người, bà con nghiệp. 496. Việc làm xấu xa của một người là không liên quan đến người khác, không nên tự mình thực hiện việc ấy, bởi vì loài người là thân quyến của nghiệp.
497. ‘‘Na pare vacanā coro, na pare vacanā muni; Attā ca naṃ yathāvedi [yathā vetti (sī.)], devāpi naṃ tathā vidū. 497. Không vì người khác nói,. Con người thành ăn trộm, Không vì người khác nói, Con người thành bậc Thánh. Như mình tự biết mình, Chư Thiên biết mình vậy. 497. Không do lời nói của người khác mà trở thành kẻ trộm, không do lời nói của người khác mà trở thành bậc hiền trí, bản thân nhận biết con người thế nào, chư Thiên cũng đã biết con người thế ấy.
498. ‘‘Pare ca na vijānanti, mayamettha yamāmase; Ye ca tattha vijānanti, tato sammanti medhagā. 498. Người khác không biết được,. Đây ta sống một thời, Những ai biết được vậy, Bậc trí sống lắng dịu. 498. Và những người khác không nhận thức được là chúng ta đang đến gần cái chết ở đời sống này. Còn những người nào nhận thức được điều ấy, nhờ thế các sự tranh chấp được chấm dứt.[15]
499. ‘‘Jīvate vāpi sappañño, api vittaparikkhayo; Paññāya ca alābhena [abhāvena (sī. aṭṭha.)], vittavāpi na jīvati. 499. Chỉ bậc trí sống mạnh,. Dầu tài sản đoạn tận, Nếu không được trí tuệ, Có tiền như không sống, Với vua hỏi về cơn mộng: 499. Người có trí tuệ cũng vẫn sống mặc dầu có sự cạn kiệt của tài sản, nhưng do sự không đạt được trí tuệ, mặc dầu là người có của cải cũng không phải đang sống.
500. ‘‘Sabbaṃ suṇāti sotena, sabbaṃ passati cakkhunā; Na ca diṭṭhaṃ sutaṃ dhīro, sabbaṃ ujjhitumarahati. 500. Với tai nghe tất cả,. Với mắt thấy tất cả, Kẻ trí bỏ tất cả, Như không thấy không nghe, 500. Nghe được tất cả nhờ vào tai, nhìn được tất cả nhờ vào mắt, người thông minh không nên bỏ qua điều đã được thấy, được nghe.
501. ‘‘Cakkhumāssa yathā andho, sotavā badhiro yathā; Paññavāssa yathā mūgo, balavā dubbaloriva; Atha atthe samuppanne, sayetha [passetha (ka.)] matasāyika’’nti. 501. Có mắt, như kẻ mù,. Có tai như kẻ điếc, Có trí, như kẻ ngu, Có sức, như kẻ yếu, Để việc lành khởi lên, Nằm như kẻ chết nằm. 501. Người có mắt nên là như kẻ mù, người có tai nên là như kẻ điếc, người có trí tuệ nên là như kẻ câm, người có sức mạnh tựa như kẻ yếu đuối, và khi có sự việc đã được sanh khởi, hãy nằm xuống ngủ như kẻ chết.”
… Mahākaccāyano thero….   Đại đức trưởng lão Mahākaccāyana đã nói những lời kệ như thế.
2. Sirimittattheragāthā (CCXXX) Sirimitta (Thera. 52) Kệ ngôn của trưởng lão Sirimitta.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con của một điền chủ giàu có, được đặt tên là Sirimitta; mẹ ngài là chị của Sirigutta. Nay Sirimitta, cháu của Sirigutta tìm được lòng tin đối với bậc Đạo Sư nhiếp phục con voi Dhanapàla. Rồi ngài xuất gia và sau một thời gian chứng quả A-la-hán.  
  Một hôm, từ chỗ ngồi đứng dậy để tụng học giới bổn Pàtimokkha, ngài cầm một cái quạt có sơn màu, rồi ngồi xuống, ngài thuyết pháp cho các Tỷ-kheo, và làm như vậy, ngài làm nổi bật những đức tánh khác như sau:  
502. ‘‘Akkodhanonupanāhī, amāyo rittapesuṇo; Sa ve tādisako bhikkhu, evaṃ pecca na socati. 502. Không phẫn nộ, không hận,. Không gian, không hai lưỡi, Vị Tỷ-kheo như vậy, Đời sau, không ưu sầu. 502. “Không nổi giận, không thù hằn, không xảo trá, sự nói đâm thọc là không có, hẳn nhiên vị tỳ khưu có đức tính thế ấy, sau khi qua đời như vậy không bị sầu muộn.
503. ‘‘Akkodhanonupanāhī, amāyo rittapesuṇo; Guttadvāro sadā bhikkhu, evaṃ pecca na socati. 503. Không phẫn nộ, không hận,. Không gian, không hai lưỡi, Tỷ-kheo thường hộ căn, Đời sau không ưu sầu. 503. Không nổi giận, không thù hằn, không xảo trá, sự nói đâm thọc là không có, vị tỳ khưu luôn có các giác quan được bảo vệ, sau khi qua đời như vậy không bị sầu muộn.
504. ‘‘Akkodhanonupanāhī, amāyo rittapesuṇo; Kalyāṇasīlo so [yo (syā.)] bhikkhu, evaṃ pecca na socati. 504. Không phẫn nộ, không hận,. Không gian, không hai lưỡi, Tỷ-kheo giữ thiện giới, Đời sau, không ưu sầu. 504. Không nổi giận, không thù hằn, không xảo trá, sự nói đâm thọc là không có, vị tỳ khưu ấy có giới tốt đẹp, sau khi qua đời như vậy không bị sầu muộn.
505. ‘‘Akkodhanonupanāhī, amāyo rittapesuṇo; Kalyāṇamitto so bhikkhu, evaṃ pecca na socati. 505. Không phẫn nộ, không hận,. Không gian, không hai lưỡi, Tỷ-kheo thiện bằng hữu, Đời sau không ưu sầu 505. Không nổi giận, không thù hằn, không xảo trá, sự nói đâm thọc là không có, vị tỳ khưu ấy có bạn bè tốt đẹp, sau khi qua đời như vậy không bị sầu muộn.
506. ‘‘Akkodhanonupanāhī, amāyo rittapesuṇo; Kalyāṇapañño so bhikkhu, evaṃ pecca na socati. 506. Không phẫn nộ, không hận,. Không gian, không hai lưỡi, Tỷ-kheo thiện trí tuệ, Đời sau, không ưu sầu. 506. Không nổi giận, không thù hằn, không xảo trá, sự nói đâm thọc là không có, vị tỳ khưu ấy có trí tuệ tốt đẹp, sau khi qua đời như vậy không bị sầu muộn.
  Sau khi thuyết giảng về phẫn nộ, hận… ngài nói đến con đường siêu thoát, diễn tả thái độ chơn chánh của từng cá nhân, như vậy chứng nhận chánh trí của mình:  
507. ‘‘Yassa saddhā tathāgate, acalā suppatiṭṭhitā; Sīlañca yassa kalyāṇaṃ, ariyakantaṃ pasaṃsitaṃ. 507. Với ai tin Như Lai,. Không dao động, thiện trú, Với ai, nếp giới hạnh, Được thiện nhân tán thán, Được bậc Thánh tùy hỷ. 507. Đối với vị nào niềm tin ở đức Như Lai là không bị dao động, đã khéo được thiết lập, và đối với vị nào có giới tốt đẹp, được ưa thích bởi các bậc Thánh, được ca ngợi, …
508. ‘‘Saṅghe pasādo yassatthi, ujubhūtañca dassanaṃ; ‘Adaliddo’ti taṃ āhu, amoghaṃ tassa jīvitaṃ. 508. Với ai, có tín thành,. Đối với chúng Tăng già, Có tri kiến chánh trực, Họ nói về người ấy: Vị ấy không nghèo đói, Đời sống không trống rỗng. 508. … đối với vị nào có sự tịnh tín ở Hội Chúng, và sự nhận thức có trạng thái ngay thẳng, họ đã nói về vị ấy rằng: ‘Không bị nghèo khó,’ mạng sống của vị ấy không phải là trống rỗng.
509. ‘‘Tasmā saddhañca sīlañca, pasādaṃ dhammadassanaṃ; Anuyuñjetha medhāvī, saraṃ buddhāna sāsana’’nti. 509. Vậy nên bậc Hiền trí,. Hãy chú tâm tín, giới, Tịnh, tín, thấy đúng pháp; Vào cốt tủy lời Phật. 509. Do đó, người thông minh, trong lúc ghi nhớ lời giáo huấn của chư Phật, nên gắn bó với đức tin, giới, sự tịnh tín, và sự nhận thức về Giáo Pháp.”
…  Sirimitto thero….   Đại đức trưởng lão Sirimitta đã nói những lời kệ như thế.
3. Mahāpanthakattheragāthā (CCXXXI) Mahà-Panthaka (Thera. 53) Kệ ngôn của trưởng lão Mahāpanthaka.
  Khi bậc Đạo Sư đi đến Ràjagaha, chuyển bánh xe pháp, Panthaka, con đầu lòng của con gái một nhân viên giàu có trong Ủy ban thành phố, và một trong những người nô tỳ của phụ thân của người con gái, cả hai thường đi đến ông ngoại để nghe bậc Đạo Sư thuyết pháp, khởi lòng tin với thiền quán. Sau khi xuất gia, ngài trở thành thiện xảo trong lời dạy của bậc Đạo Sư và trong bốn thiền, và sau một thời gian, chứng quả A-la-hán. An trú trong an lạc thiền quán và quả chứng, ngài hồi tưởng lại sự thành công của mình, và sung sướng rống tiếng rống con sư tử như sau:  
510. ‘‘Yadā paṭhamamaddakkhiṃ, satthāramakutobhayaṃ; Tato me ahu saṃvego, passitvā purisuttamaṃ. 510. Khi đầu tiên ta thấy,. Bậc Đạo Sư vô úy, Xúc động khởi nơi ta, Thấy được người Tối thượng. 510. “Vào lúc tôi đã nhìn thấy đấng Đạo Sư, bậc không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu lần đầu tiên, do đó đã có sự chấn động ở tôi sau khi nhìn thấy đấng Tối Thượng Nhân.
511. ‘‘Siriṃ hatthehi pādehi, yo paṇāmeyya āgataṃ; Etādisaṃ so satthāraṃ, ārādhetvā virādhaye. 511. Ai cả tay cả chân,. Cầu khẩn thần may đến, Với cử chỉ như vậy, Khiến Đạo Sư hoan hỷ, Vị ấy không thể đạt, Như sở nguyện của mình. 511. Người nào cúi lạy vận may đã đi đến với các bàn tay và các bàn chân, sau khi làm hoan hỷ bậc Đạo Sư như thế này, người ấy sao có thể bỏ qua cơ hội?
512. ‘‘Tadāhaṃ puttadārañca, dhanadhaññañca chaḍḍayiṃ; Kesamassūni chedetvā, pabbajiṃ anagāriyaṃ. 512. Còn ta đã từ bỏ,. Vợ con, tiền, lúa, gạo, Sau khi cạo râu tóc, Ta xuất gia không nhà. 512. Khi ấy, tôi đã lìa bỏ con trai và người vợ, tài sản và lúa gạo. Sau khi nhờ người cắt tóc râu, tôi đã xuất gia sống đời không nhà.
513. ‘‘Sikkhāsājīvasampanno, indriyesu susaṃvuto; Namassamāno sambuddhaṃ, vihāsiṃ aparājito. 513. Học, sinh hoạt đầy đủ,. Các căn khéo chế ngự, Đảnh lễ bậc Chánh giác, Ta trú, không khuất phục. 513. Được đầy đủ về việc học tập và sự nuôi mạng, đã khéo được thu thúc ở các giác quan, trong khi kính lễ đấng Toàn Giác, tôi đã sống, không bị đánh bại.
514. ‘‘Tato me paṇidhī āsi, cetaso abhipatthito; Na nisīde muhuttampi, taṇhāsalle anūhate. 514. Rồi ta khởi ước nguyện,. Tâm an trú tha thiết, Ta quyết không ngồi nữa, Dầu chỉ là một phút, Cho đến khi rút được, Rút mũi tên tham ác. 514. Sau đó, tôi đã có ước nguyện, tôi đã mong mỏi ở trong tâm rằng: ‘Khi mũi tên tham ái chưa được lấy ra, ta không nên ngồi xuống cho dầu chỉ phút chốc.’
515. ‘‘Tassa mevaṃ viharato, passa vīriyaparakkamaṃ; Tisso vijjā anuppattā, kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 515. Ta an trú như vậy,. Hãy xem nhờ nỗ lực, Ba minh ta đạt được, Lời Phật dạy làm xong. 515. Trong lúc tôi đây đang sống như vậy, hãy nhìn xem sự tinh tấn và ra sức của tôi. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.
516. ‘‘Pubbenivāsaṃ jānāmi, dibbacakkhu visodhitaṃ; Arahā dakkhiṇeyyomhi, vippamutto nirūpadhi. 516. Ta biết được đời trước,. Thiên nhãn được thanh tịnh, Ta xứng được cúng dường, Giải thoát khỏi sanh y. 516. Có Thiên nhãn được trong sạch, tôi biết được đời sống trong thời quá khứ. Tôi là vị A-la-hán, bậc xứng đáng cúng dường, đã được giải thoát, không còn mầm mống tái sanh.
517. ‘‘Tato ratyā vivasāne [vivasane (sī. syā.)], sūriyassuggamanaṃ pati; Sabbaṃ taṇhaṃ visosetvā, pallaṅkena upāvisi’’nti. 517. Như đêm trở thành sáng,. Khi mặt trời mới mọc, Mọi khát ái khô kiệt, Ta vào, ngồi kiết-già. 517. Sau đó, vào lúc tàn đêm cho đến khi mọc lên của mặt trời, sau khi làm khô héo tất cả tham ái, tôi đã ngồi xuống với thế ngồi kiết già.”
…Mahāpanthako thero…. Aṭṭhakanipāto niṭṭhito.   Đại đức trưởng lão Mahāpanthaka đã nói những lời kệ như thế.
Tatruddānaṃ –   TÓM LƯỢC NHÓM NÀY
Mahākaccāyano thero, sirimitto mahāpanthako;   “Trưởng lão Mahākaccāyana, vị Sirimitta, vị Mahāpanthaka. Ở nhóm tám này, có hai mươi bốn câu kệ.”
Ete aṭṭhanipātamhi, gāthāyo catuvīsatīti.   Nhóm Tám được chấm dứt.