Tipitaka.org |
Việt dịch: HT. Thích Minh Châu |
Việt dịch: TK. Indacanda |
1. Sundarasamuddattheragāthā |
(CCXXIV) Sundara-Samudda (Thera. 49) |
Kệ ngôn của trưởng lão Sundarasamudda. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một người trong hội đồng thành phố giàu có, ở Ràjagaha (Vương Xá) và được đặt tên là Samudda. Vì ngài rất đẹp trai nên được gọi là Sundara-Samudda, khi ngài còn trẻ, ngài thấy được uy nghi đức Phật, khi có cuộc lễ đón rước đức Phật đến Ràjagaha, với lòng tin và với thiên tánh tự nhiên, ngài xuất gia. Được giao cho một đề tài thiền quán, ngài đi từ Ràjagaha đến Sàvatthi, ở với một người bạn và tu tập thiền quán. Mẹ ngài ở Vương Xá, thấy các người con của các đại biểu hội đồng thành phố khác với những người vợ trang sức thật lộng lẫy vui chơi trong những ngày lễ, bà mẹ buồn, nhớ con và khóc; một kỹ nữ thấy vậy liền dỗ bà và tự nguyện đi đến Sàvatthi để đem con bà về. Bà mẹ hứa rằng, nếu con bà chịu cưới nàng, bà sẽ cho nàng làm chủ gia đình và tặng nhiều tặng phẩm. Với một số tùy tùng, nàng đi đến Sàvatthi và dừng lại ngôi nhà ngài thường hay đến hằng ngày để khất thực; nàng hết sức săn sóc cho ngài. Nàng ăn mặc lộng lẫy và mang dép vàng; một hôm nàng để đôi dép nàng tại ngưỡng cửa, đảnh lễ ngài với hai tay chấp lại, khi ngài đi qua với cử chỉ muốn cám dỗ ngài. Và ngài một tư tưởng thế tục thoáng qua, ngài cương quyết nỗ lực cuối cùng đứng tại đấy thiền định, thiền quán và chứng được sáu thắng trí. Ngài diễn đạt quả chứng của ngài như sau: |
|
459. ‘‘Alaṅkatā suvasanā, māladhārī [mālābhārī (sī.), mālabhārī (syā.)] vibhūsitā; Alattakakatāpādā, pādukāruyha vesikā. |
459. Trang sức mặc áo đẹp,. Đeo vòng hoa trang điểm, Chân bôi sơn màu đỏ, Một kỹ nữ đi dép. |
459. “Đã được trang sức, có y phục đẹp, có mang vòng hoa, đã được tô điểm, có hai bàn chân đã được làm đỏ, cô kỹ nữ mang đôi dép vào. |
460. ‘‘Pādukā oruhitvāna, purato pañjalīkatā; Sā maṃ saṇhena mudunā, mhitapubbaṃ [mihitapubbaṃ (sī.)] abhāsatha’’. |
460. Chân rút ra khỏi dép,. Chấp tay, hướng phía trước, Nàng với giọng nhẹ dịu, Mở đầu nói với ta; |
460. Sau khi tháo đôi dép ra, (đứng) ở phía trước, chắp hai tay lại, nàng ấy đã nở nụ cười rồi nói với tôi một cách mềm mỏng, êm dịu rằng: |
461. ‘‘Yuvāsi tvaṃ pabbajito, tiṭṭhāhi mama sāsane; Bhuñja mānusake kāme, ahaṃ vittaṃ dadāmi te; Saccaṃ te paṭijānāmi, aggiṃ vā te harāmahaṃ. |
461. Chàng trẻ tuổi xuất gia,. Hãy dừng, lãnh vực em, Thọ hưởng năm dục vọng, Em cho chàng phương tiện, Em hứa chàng sự thật, Em đem chàng lửa thề. |
461. ‘Chàng còn trẻ mà đã xuất gia. Chàng hãy tồn tại theo sự chỉ dẫn của thiếp, hãy thọ hưởng các dục của con người. Thiếp trao cho chàng của cải. |
462. ‘‘Yadā jiṇṇā bhavissāma, ubho daṇḍaparāyanā; Ubhopi pabbajissāma, ubhayattha kaṭaggaho’’. |
462. Khi chàng em đều già,. Cả hai đều chống gậy, Cả hai cùng xuất gia, Hai phần được vận may. |
462. Thiếp hứa với chàng sự chân thật, hay là thiếp mang lại cho chàng ngọn lửa (thề). Khi nào cả hai chúng ta sẽ trở nên già cả, có sự nương tựa vào cây gậy, cả hai cũng sẽ xuất gia, trong cả hai trường hợp đều có vận may.’ |
463. ‘‘Tañca disvāna yācantiṃ, vesikaṃ pañjalīkataṃ; Alaṅkataṃ suvasanaṃ, maccupāsaṃva oḍḍitaṃ. |
463. Thấy người kỹ nữ ấy,. Chấp tay lời van xin, Trang sức, mặc áo đẹp, Như thần chết gieo mồi. |
463. Và sau khi nhìn thấy nàng kỹ nữ ấy, đã được trang sức, có y phục đẹp, chắp hai tay lại, đang nài nỉ, tựa như cái bẫy sập của Thần Chết đã được giăng lên. |
464. ‘‘Tato me manasīkāro …pe… nibbidā samatiṭṭhatha. |
464. Rồi ta tự tác ý,. Như lý khởi tư duy, Các hiểm nguy hiển lộ, Nhàm chán ta an trú. |
464. Do đó, sự tác ý theo đúng đường lối đã khởi lên ở tôi, điều bất lợi đã hiện rõ, sự nhàm chán đã được thiết lập. |
465. ‘‘Tato cittaṃ vimucci me …pe… kataṃ buddhassa sāsana’’nti. |
465. Và tâm ta giải thoát,. Thấy Pháp nhĩ là vậy, Ba minh chứng đạt được, Lời Phật dạy làm xong. |
465. Do đó, tâm của tôi đã được giải thoát; hãy nhìn xem bản chất tốt đẹp của Giáo Pháp. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.”[13] |
… Sundarasamuddo thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Sundarasamudda đã nói những lời kệ như thế. |
2. Lakuṇḍakabhaddiyattheragāthā |
(CCXXV) Lakuntaka-Bhaddiya (Thera. 49) |
Kệ ngôn của trưởng lão Lakuṇṭakabhaddiya. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình giàu có, được đặt tên là Bhaddiya, nhưng vì ngài rất thấp, nên được biết với tên là Lakuntaka Bhaddhiya (Bhaddiya người lùn). Nghe bậc Đạo Sư giảng, ngài xuất gia, trở thành một nhà học giả và biện tài, ngài dạy cho các người khác với một giọng nói rất dịu ngọt. Một hôm, nhân ngài đang lễ, một phụ nữ đi xe với một Bà-la-môn, thấy ngài và cười lên, để lộ hàm răng của nàng. Vị Trưởng lão, lấy hàm răng ấy như một đề tài để thiền quán, khởi lên thiền định và trên căn cứ ấy, phát triển thiền quán và trở thành một vị Bất Lai. Về sau nhờ Tôn giả Sàriputta dạy tu thân hành niệm, ngài chứng quả A-la-hán, ngài nói lên chánh trí của ngài: |
|
466. Pare ambāṭakārāme, vanasaṇḍamhi bhaddiyo; Samūlaṃ taṇhamabbuyha, tattha bhaddova jhāyati [bhaddo’dhijhāyāyati (sī.), bhaddo jhiyāyati (syā. sī. aṭṭha.)]. |
466. Ra ngoài các khu vườn,. Tên Ambàtaka, Trong rừng với lùm cây, Ái, ái căn từ bỏ, Bhaddiya ngồi thiền, Bậc may mắn hạnh phúc. |
466. “Ở cụm rừng thuộc phần khác của khu vườn Ambāṭaka, vị Bhaddiya hiền thiện, sau khi trừ diệt tham ái luôn cả gốc rễ, tham thiền tại nơi ấy. |
467. ‘‘Ramanteke mudiṅgehi [mutiṅgehi (sī. aṭṭha.)], vīṇāhi paṇavehi ca; Ahañca rukkhamūlasmiṃ, rato buddhassa sāsane. |
467. Một số người ưa thích,. Trống, sáo và trống nhỏ, Còn ta, dưới gốc cây, Ta thích lời Phật dạy. |
467. Nhiều người thích thú với các trống con, các đàn vīṇā, và các chập chõa, còn tôi, ở nơi gốc cây, được thích thú trong Giáo Pháp của đức Phật. |
468. ‘‘Buddho ce [buddho ca (sabbattha)] me varaṃ dajjā, so ca labbhetha me varo; Gaṇhehaṃ sabbalokassa, niccaṃ kāyagataṃ satiṃ. |
468. Nếu Phật ban ân huệ,. Ta được ân huệ ấy, Ta trì thân hành niệm, Thường hằng ở mọi giới. |
468. Nếu đức Phật có thể ban cho tôi ân huệ, và ân huệ ấy có thể được nhận lãnh bởi tôi, thì tôi sẽ chọn lấy cho tất cả thế gian (pháp môn) niệm thường xuyên được đặt ở thân. |
469. ‘‘Ye maṃ rūpena pāmiṃsu, ye ca ghosena anvagū; Chandarāgavasūpetā, na maṃ jānanti te janā. |
469. Cười chê, ta vì thân,. Ai theo ta vì tiếng, Chúng không biết được ta, Vì dục tham chi phối. |
469. Những ai đã xét đoán tôi theo hình dáng, và những ai đã đi theo tôi vì giọng nói, những người ấy, nhận chịu sự tác động bởi mong muốn và luyến ái, không nhận biết được tôi. |
470. ‘‘Ajjhattañca na jānāti, bahiddhā ca na passati;. Samantāvaraṇo bālo, sa ve ghosena vuyhati. |
470. Không biết được phần trong,. Không thấy được phía ngoài, Chận bốn phía, người ngu, Bị tiếng nói lôi cuốn. |
470. Không nhận biết bên trong, và không nhìn thấy bên ngoài, kẻ ngu với sự che lấp ở xung quanh, chính kẻ ấy bị lôi cuốn theo giọng nói. |
471. ‘‘Ajjhattañca na jānāti, bahiddhā ca vipassati; Bahiddhā phaladassāvī, sopi ghosena vuyhati. |
471. Không biết được phần trong,. Quán thấy được phía ngoài, Chỉ thấy quả phía ngoài, Cũng bị tiếng lôi cuốn. |
471. Không nhận biết bên trong, và nhìn thấy rõ bên ngoài, với sự nhìn thấy kết quả ở bên ngoài, kẻ ấy cũng bị lôi cuốn theo giọng nói. |
472. ‘‘Ajjhattañca pajānāti, bahiddhā ca vipassati;. Anāvaraṇadassāvī, na so ghosena vuyhatī’’ti. |
472. Quán trí được phần trong,. Quán thấy được phía ngoài, Thấy không bị chướng ngại, Không bị tiếng lôi cuốn. |
472. Nhận biết được bên trong, và nhìn thấy rõ bên ngoài, với sự nhìn thấy không bị che lấp, người ấy không bị lôi cuốn theo giọng nói.” |
… Lakuṇḍakabhaddiyo thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Lakuṇṭakabhaddiya đã nói những lời kệ như thế. |
3. Bhaddattheragāthā |
(CCXXVI) Bhadda (Thera. 50) |
Kệ ngôn của trưởng lão Bhadda. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong gia đình một vị lớn trong hội đồng thành phố, làm con một gia đình cha mẹ trước đây không có con, dầu đã có cầu khẩn thần linh nhiều lần vẫn chưa có con. Họ đi đến bậc Đạo Sư và nói: ‘Nếu chúng con có được đứa con, chúng con sẽ dâng lên cho ngài để làm thị giả!’. Khi được sinh Bhadda, chúng mặc áo đẹp nhất cho ngài, đưa ngài đến bậc Đạo Sư và nói: ‘Bạch Thế Tôn, đây là đứa con chúng con sanh ra, sau khi yết kiến Thế Tôn, chúng con xin dâng hiến cho Thế Tôn’. Thế Tôn bảo Ananda cho Bhadda xuất gia và đi vào hương phòng. Ananda giảng dạy cho ngài và căn cơ ngài quá thuần thục đến nỗi trong khi đang học, vừa lúc mặt trời mọc, ngài phát triển thiền quán và chứng được sáu thắng trí. |
|
|
Thế Tôn biết được những gì xảy ra và gọi: ‘Hãy đến này Bhadda!’ Ngài đến, chấp tay đảnh lễ bậc Đạo Sư. Đó là lễ xuất gia của ngài, đó là lễ xuất gia do đức Phật chủ trì. Và bậc Trưởng lão nói lên chánh trí của ngài: |
|
473. ‘‘Ekaputto ahaṃ āsiṃ, piyo mātu piyo pitu; Bahūhi vatacariyāhi, laddho āyācanāhi ca. |
473. Ta là con độc nhất. Được cha thương mẹ thương, Do nhiều hạnh giới cấm, Van vái mới được ta. |
473. “Tôi đã là con trai độc nhất, được mẹ yêu, được cha yêu. Do nhiều sự thực hành về phận sự và nhiều lần cầu khấn mà tôi được sanh ra. |
474. ‘‘Te ca maṃ anukampāya, atthakāmā hitesino; Ubho pitā ca mātā ca, buddhassa upanāmayuṃ’’. |
474. Vì lòng thương xót ta,. Muốn ta được hạnh phúc, Cả cha và mẹ ta, Dẫn ta đến đức Phật |
474. Và họ, vì lòng thương tưởng đến tôi, có ước muốn về sự tốt đẹp, có sự tầm cầu về lợi ích, cả hai, người cha và người mẹ, đã đưa tôi đến đức Phật. |
475. ‘‘Kicchā laddho ayaṃ putto, sukhumālo sukhedhito; Imaṃ dadāma te nātha, jinassa paricārakaṃ’’. |
475. Được đứa con trai này,. Thật trải nhiều khó khăn, Nuôi dưỡng rất tế nhị, Được nuông chiều săn sóc, Chúng con kính dâng Ngài, Kính thưa bậc cứu độ, Để làm người thị giả, Hầu hạ bậc chiến thắng. |
475. ‘Người con trai này được sanh ra một cách khó nhọc, mảnh mai, khéo được nuôi dưỡng. Thưa đấng Bảo Hộ, chúng tôi xin dâng đến ngài đứa bé này để làm người phục vụ cho đấng Chiến Thắng.’ |
476. ‘‘Satthā ca maṃ paṭiggayha, ānandaṃ etadabravi; ‘Pabbājehi imaṃ khippaṃ, hessatyājāniyo ayaṃ. |
476. Bậc Đạo Sư nhận ta,. Nói A-nan như sau: Hãy cho nó xuất gia, Nó sẽ thành thuần lương. |
476. Và bậc Đạo Sư, sau khi tiếp nhận tôi, đã nói với vị Ānanda điều này: ‘Hãy mau chóng xuất gia cho đứa bé này. Trẻ này sẽ là thuần chủng.’ |
477. ‘‘Pabbājetvāna maṃ satthā, vihāraṃ pāvisī jino; Anoggatasmiṃ sūriyasmiṃ, tato cittaṃ vimucci me. |
477. Sau khi bậc Đạo Sư,. Bảo xuất gia cho ta, Xong rồi bậc chiến thắng, Bước vào trong tinh xá, Khi mặt trời chưa mọc, Tâm ta được giải thoát. |
477. Sau khi đã cho tôi xuất gia, bậc Đạo Sư, đấng Chiến Thắng, đã đi vào trú xá. Sau đó, khi mặt trời còn chưa lặn xuống, tâm của tôi đã được giải thoát. |
478. ‘‘Tato satthā nirākatvā, paṭisallānavuṭṭhito; ‘Ehi bhaddā’ti maṃ āha, sā me āsūpasampadā. |
478. Rồi bậc Đạo Sư ta,. Để chấm dứt công việc, Từ yên lặng thiền tịnh, Ngài đứng dậy gọi ta: Này Bhadda hãy đến, Ta thọ Đại giới vậy. |
478. Kế đó, đức Thế Tôn, sau khi hoàn tất (việc thể nhập), đã xuất khỏi thiền tịnh. Ngài đã nói với tôi rằng: ‘Này Bhadda, hãy đến;’ việc ấy đã là sự tu lên bậc trên của tôi. |
479. ‘‘Jātiyā sattavassena, laddhā me upasampadā; Tisso vijjā anuppattā, aho dhammasudhammatā’’ti. |
479. Từ sanh, đến bảy năm,. Ta được thọ Đại giới, Ba minh ta đạt được, Ôi pháp, thiện pháp tánh! |
479. Việc tu lên bậc trên đã đạt được bởi tôi vào năm bảy tuổi kể từ lúc sanh, ba Minh đã được thành tựu, ôi bản chất tốt đẹp của Giáo Pháp!” |
… Bhaddo thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Bhadda đã nói những lời kệ như thế. |
4. Sopākattheragāthā |
(CCXXVII) Sopàka (Thera. 50) |
Kệ ngôn của trưởng lão Sopāka. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh từ vợ một người cùng đinh, và do thọ sanh, ngài được gọi là Sopàka (người cùng đinh). Có người nói ngài là con một thương gia. Sự kiện này không được tập Apadàna chấp nhận: |
|
|
Khi ta chứng được, |
|
|
Tái sanh cuối cùng, |
|
|
Ta vào bào thai, |
|
|
Của Sopàka. |
|
|
Bốn tháng sau khi sanh, cha ngài mệnh chung, và được người cậu nuôi dưỡng. Người cậu, do người con hay nóng giận của mình xúi giục, muốn giết ngài. Nó đem ngài đến bãi tha ma, trói hai tay ngài cột vào cổ một thây ma, nghĩ rằng các con chó rừng sẽ ăn thịt ngài. Nó không thể giết ngài vì ngài tái sanh lần cuối cùng. Ban đêm các con chó rừng và các con thú khác đến, và đứa con nít kêu khóc: |
|
|
Thế nào là định mệnh, |
|
|
Được để dành cho ta. |
|
|
Ai là người bà con, |
|
|
Của đứa trẻ mồ côi! |
|
|
Giữa nghĩa địa kinh hoàng, |
|
|
Ta bị cột, trói chặt! |
|
|
Ta sẽ tìm được ai, |
|
|
Là người bạn của ta! |
|
|
Bậc Đạo Sư trong lúc ấy đang nhìn xem ai là người đáng cứu độ, thấy trong đứa trẻ, những nhân duyên chứng quả A-la-hán được chói sáng trong tâm của đứa trẻ, liền chiếu sáng hào quang và nói: |
|
|
Hãy đến, Sopaka, |
|
|
Người đừng có sợ hãi, |
|
|
Hãy nhìn đến Như Lai, |
|
|
Chính Ta sẽ cứu con! |
|
|
Như mặt trăng thoát khỏi, |
|
|
Hàm răng của Ràhu. |
|
|
Với sức mạnh của đức Phật, đứa trẻ bứt đứt dây trói, và cuối bài kệ đứng dậy, trở thành một bậc Dự lưu và đứng trước hương phòng của đức Phật! Mẹ ngài tìm ngài hỏi người cậu, nhưng người cậu im lặng không nói gì. Mẹ ngài đi đến đức Phật, nghĩ rằng đức Phật biết tất cả, quá khứ, hiện tại, vị lai. Bậc Đạo Sư, dùng thần thông giấu đứa con. Bà thưa với Thế Tôn: ‘Bạch Thế Tôn, con không thể tìm thấy đứa con. Nhưng Thế Tôn biết được con tôi đang làm gì?’. Thế Tôn trả lời: |
|
|
Các người con không phải, |
|
|
Là chỗ y, nương tựa, |
|
|
Cả cha cũng là vậy, |
|
|
Kể cả các bà con. |
|
|
Với kẻ bị mệnh chung, |
|
|
Dầu bà con huyết thống, |
|
|
Cũng không thể nương tựa! |
|
|
Và như vậy, Thế Tôn thuyết pháp cho bà, bà nghe xong chứng quả Dự lưu, nhưng đứa trẻ chứng quả A-la-hán. Rồi Thế Tôn rút lại thần thông và bà mẹ sung sướng thấy được người con. Được biết con mình đã chứng quả A-la-hán, bà bằng lòng để con xuất gia và bà ra về. |
|
|
Rồi ngài đến đảnh lễ bậc Đạo Sư, khi bậc Đạo Sư đang đi dưới bóng mát của hương phòng và đi theo Thế Tôn. Thế Tôn muốn thế độ cho ngài liền hỏi ngài mười câu hỏi, bắt đầu bằng câu: ‘Thế nào là một pháp?’. Ngài hiểu được ý Thế Tôn liền trả lời: ‘Các chúng sanh được nuôi dưỡng bằng thức ăn…’, với trí sáng suốt của mình. Bậc Đạo Sư thỏa mãn với những câu trả lời của đứa trẻ, thọ giới cho ngài. Do vậy ngài có được tên là: ‘Đặt trẻ với những câu hỏi’. Ngài nói lên chánh trí của mình, thuật lại những sự việc đã xảy ra, với bài kệ như sau: |
|
480. ‘‘Disvā pāsādachāyāyaṃ, caṅkamantaṃ naruttamaṃ; Tattha naṃ upasaṅkamma, vandissaṃ [vandisaṃ (sī. pī.)] purisuttamaṃ. |
480. Thấy bậc Tối thượng nhân,. Kinh hành dưới bóng lầu, Tại đấy, ta đi tới, Đảnh lễ bậc Tối thượng. |
480. “Sau khi nhìn thấy bậc Tối Thượng Nhân đang đi kinh hành ở bóng râm của tòa lâu đài, sau khi đi đến gặp Ngài ở tại nơi ấy, tôi đã đảnh lễ bậc Tối Thượng Nhân. |
481. ‘‘Ekaṃsaṃ cīvaraṃ katvā, saṃharitvāna pāṇayo; Anucaṅkamissaṃ virajaṃ, sabbasattānamuttamaṃ. |
481. Đắp y một bên vai,. Chấp hai tay đưa lên, Đi theo bậc Vô cấu, Tối thượng trên mọi loài. |
481. Sau khi đắp y một bên vai, sau khi chắp hai tay lại với nhau, tôi đã đi kinh hành theo sau bậc Vô Nhiễm, đấng Tối Thượng của tất cả chúng sanh. |
482. ‘‘Tato pañhe apucchi maṃ, pañhānaṃ kovido vidū; Acchambhī ca abhīto ca, byākāsiṃ satthuno ahaṃ. |
482. Ngài hỏi ta câu hỏi,. Khéo biết đặt câu hỏi, Ta trả lời Đạo Sư, Không run, không sợ hãi. |
482. Sau đó, đấng Hiểu Biết, bậc rành rẽ về các câu hỏi, đã hỏi tôi những câu hỏi. Không khiếp đảm, và không sợ hãi, tôi đã trả lời bậc Đạo Sư. |
483. ‘‘Vissajjitesu pañhesu, anumodi tathāgato; Bhikkhusaṅghaṃ viloketvā, imamatthaṃ abhāsatha’’. |
483. Đức Như Lai tùy hỷ,. Câu trả lời câu hỏi, Nhìn chúng Tỷ-kheo Tăng, Ngài nói ý nghĩa này: |
483. Đức Như Lai đã tùy hỷ với những câu hỏi đã được đáp lại. Sau khi nhìn xem hội chúng tỳ khưu, Ngài đã nói lên ý nghĩa này: |
484. ‘‘Lābhā aṅgānaṃ magadhānaṃ, yesāyaṃ paribhuñjati; Cīvaraṃ piṇḍapātañca, paccayaṃ sayanāsanaṃ; Paccuṭṭhānañca sāmīciṃ, tesaṃ lābhā’’ti cābravi. |
484. Lợi ích thay, dân chúng,. Ăng-ga, Magadha, Cúng dường cho vị ấy, Y dược thuốc sàng tọa, Biết cung kính thích nghi, Thật lợi ích cho chúng, Bậc Đạo Sư nói vậy, |
484. ‘Thật là lợi ích cho những người xứ Aṅga và Magadha nào có được y phục, vật thực, thuốc chữa bệnh, chỗ nằm ngồi, việc đứng dậy, và (hành động) thích hợp mà vị này thọ dụng, thật là lợi ích cho những người ấy,’ và Ngài đã nói rằng: |
485. ‘‘Ajjatagge maṃ sopāka, dassanāyopasaṅkama; Esā ceva te sopāka, bhavatu upasampadā’’. |
485. Bắt đầu từ hôm nay,. Hỡi này Sopaka, Hãy đến yết kiến Ta, Như vậy, Sopaka, Ông thành tựu Đại giới, Được an lành tốt đẹp. |
485. ‘Này Sopāka, kể từ hôm nay trở đi, ngươi hãy đi đến gặp Ta. Và này Sopāka, chính việc này hãy là sự tu lên bậc trên của ngươi.’ |
486. ‘‘Jātiyā sattavassohaṃ, laddhāna upasampadaṃ; Dhāremi antimaṃ dehaṃ, aho dhammasudhammatā’’ti. |
486. Bảy năm từ khi sanh,. Ta được thọ Đại giới, Ta mang thân cuối cùng! Ôi pháp, thiện pháp tánh. |
486. Được bảy tuổi kể từ lúc sanh, sau khi đạt được việc tu lên bậc trên, tôi duy trì thân mạng cuối cùng, ôi bản chất tốt đẹp của Giáo Pháp!” |
… Sopāko thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Sopāka đã nói những lời kệ như thế. |
5. Sarabhaṅgattheragāthā |
(CCXXVIII) Sarabhanga (Thera. 50) |
Kệ ngôn của trưởng lão Sarabhaṅga. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh tại Ràjagaha (Vương Xá), con của một Bà-la-môn, ngài có thể được đặt tên, độc lập hay không độc lập với truyền thống gia đình, ngài không có đặc điểm gì để đặt tên. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài trở thành một ẩn sĩ, tự dựng một thảo am, làm bằng cọng cây lau mà tự ngài bẻ gãy, và từ đấy ngài được biết với tên là Sara-Bhanga, (người bẻ gãy cọng cây lau). Thế Tôn với Phật nhãn nhìn quanh thế giới, thấy được nơi ngài những điều kiện để thành vị A-la-hán. Thế Tôn đi đến thuyết pháp cho ngài. Và ngài khởi lòng tin, trở thành một vị xuất gia, sau một thời gian trở thành vị A-la-hán, ngài vẫn tiếp tục ở thảo am. Thảo am dần dần hư nát và sụp đổ xuống, dân chúng hỏi ngài sao không dựng thảo am lại, ngài trả lời, khi thảo am được dựng lên, ngài còn ẩn sĩ. Nhưng nay ngài không thể làm được như vậy nữa. Rồi ngài nói lên toàn bộ vấn đề như sau: |
|
487. ‘‘Sare hatthehi bhañjitvā, katvāna kuṭimacchisaṃ; Tena me sarabhaṅgoti, nāmaṃ sammutiyā ahu. |
487. Tay bẻ những cây lau,. Ta làm am ta ở, Do vậy, được tên tục: ‘Người bẻ gãy cây lau’. |
487. “Sau khi bẻ gãy những cây sậy bằng hai bàn tay, sau khi làm cốc liêu, tôi đã cư ngụ. Do việc ấy, tên của tôi đã được thừa nhận là ‘Sarabhaṅga’ (Người bẻ sậy). |
488. ‘‘Na mayhaṃ kappate ajja, sare hatthehi bhañjituṃ; Sikkhāpadā no paññattā, gotamena yasassinā. |
488. Nay không còn thích hợp,. Tự tay bẻ cây lau, Theo học giới giảng dạy, Gotama danh xưng. |
488. Giờ đây, đối với tôi không được phép bẻ gãy các cây sậy bằng hai bàn tay. Các điều học đã được quy định cho chúng tôi bởi đức Gotama có danh tiếng. |
489. ‘‘Sakalaṃ samattaṃ rogaṃ, sarabhaṅgo nāddasaṃ pubbe; Soyaṃ rogo diṭṭho, vacanakarenātidevassa. |
489. Chính Sara-bhanga,. Từ trước chưa từng thấy, Thấy chứng bệnh toàn diện, Một cách thật đầy đủ. Bệnh ấy nay được thấy, Do lời bậc siêu thiên. |
489. Sarabhaṅga tôi đã không nhìn thấy đầy đủ toàn bộ căn bệnh trước đây, căn bệnh này đây đã được nhìn thấy nhờ vào lời nói của bậc Thượng Thiên. |
490. ‘‘Yeneva maggena gato vipassī, yeneva maggena sikhī ca vessabhū; Kakusandhakoṇāgamano ca kassapo, tenañjasena agamāsi gotamo. |
490. Chính đường ấy đã đi,. Vibassì, Sikhi, Kể cả Vessabhu, Với Kakusandha, Konàgamana. Chính với con đường ấy, Gotama đã đến. |
490. Bằng chính đạo lộ nào (đức Phật) Vipassī đã đi, bằng chính đạo lộ nào (đức Phật) Sikhī, Vessabhū, Kakusandha, Koṇāgamana, Kassapa (đã đi), đức Gotama đã đi bằng đạo lộ ấy. |
491. ‘‘Vītataṇhā anādānā, satta buddhā khayogadhā; Yehāyaṃ desito dhammo, dhammabhūtehi tādibhi. |
491. Ly ái, không chấp thủ,. Bảy Phật chứng Niết-bàn, Pháp này được thuyết giảng, Bởi các vị chứng Pháp. |
491. Bảy vị Phật có tham ái đã lìa, không còn chấp thủ, đã đi sâu vào sự cạn kiệt, Giáo Pháp này đã được thuyết giảng bởi các vị là hiện thân của Giáo Pháp như thế ấy. |
492. ‘‘Cattāri ariyasaccāni, anukampāya pāṇinaṃ; Dukkhaṃ samudayo maggo, nirodho dukkhasaṅkhayo. |
492. Vì từ mẫn chúng sanh,. Bốn sự thật được giảng, Khổ, khổ tập, con đường, Diệt, chấm dứt khổ đau. |
492. Vì lòng thương tưởng đối với các sanh mạng, bốn Chân Lý cao thượng là Khổ, Tập, Đạo, Diệt là sự hoàn toàn cạn kiệt của khổ. |
493. ‘‘Yasmiṃ nivattate [yasmiṃ na nibbattate (ka.)] dukkhaṃ, saṃsārasmiṃ anantakaṃ; Bhedā imassa kāyassa, jīvitassa ca saṅkhayā; Añño punabbhavo natthi, suvimuttomhi sabbadhī’’ti. |
493. Trong đời sống liên tục,. Khổ luân chuyển không dứt, Khi thân này bị hoại, Khi mạng sống cáo chung, Tái sanh khác không còn,; Ta thật, khéo giải thoát, Giải thoát mọi sanh y. |
493. Là nơi mà nỗi khổ đau vô cùng tận ở sự luân hồi ngừng xoay chuyển. Do sự tan rã của thân này, và do sự hoàn toàn cạn kiệt của mạng sống, không có sự tái sanh khác nữa, tôi đã khéo được giải thoát về mọi mặt.” |
… Sarabhaṅgo thero…. Sattakanipāto niṭṭhito. |
|
Đại đức trưởng lão Sarabhaṅga đã nói những lời kệ như thế. |
Tatruddānaṃ – |
|
TÓM LƯỢC NHÓM NÀY |
Sundarasamuddo thero, thero lakuṇḍabhaddiyo; |
|
“Vị trưởng lão Sundarasamudda, vị trưởng lão Lakuṇṭabhaddiya, vị trưởng lão Bhadda, và vị Sopāka, vị đại ẩn sĩ Sarabhaṅga, ở nhóm bảy có năm vị trưởng lão và ba mươi lăm câu kệ.” |
Bhaddo thero ca sopāko, sarabhaṅgo mahāisi; |
|
Nhóm Bảy được chấm dứt. |
Sattake pañcakā therā, gāthāyo pañcatiṃsatīti. |
|
|