Tipitaka.org |
Việt dịch: HT. Thích Minh Châu |
Việt dịch: TK. Indacanda |
1. Uruveḷakassapattheragāthā |
(CCK) Uruvelà Kassapa (Thera. 42) |
Kệ ngôn của trưởng lão Uruvelakassapa. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm anh cả trong ba anh em một gia đình Bà-la-môn tên Kassapa, và cả ba đều học thông ba tập Vệ-đà. Ba anh em có đến năm trăm, ba trăm và hai trăm thanh niên đệ tử vì không tìm được chân lý trong kinh điển của họ, chỉ tìm thấy những vấn đề thế tục, nên họ từ bỏ gia đình và trở thành những ẩn sĩ. Cả ba được đặt tên tùy theo chỗ ở của mỗi vị, và ngài được gọi là Uruvelà Kassapa vì ngài ở Uruvelà. Một số sự kiện đã xảy ra, vị Bồ-tát xuất gia, chuyển Pháp luân, năm vị Trưởng lão chứng quả A-la-hán, năm mươi bạn đứng đầu là Yasa được hóa độ, sự xuất phát của vị A-la-hán để thuyết pháp độ sanh, sự hóa độ ba mươi người bạn giàu có, bậc Đạo sư đi đến Uruvelà. Khi Thế Tôn hiện ra nhiều thần thông bắt đầu với sự nhiếp phục con rắn, Kassapa khởi lòng tin và xuất gia, hai người em cũng bắt chước người anh cả. Thế Tôn giảng kinh AAdittapariyàya cho ba anh em Kassapa với một ngàn đệ tử và khiến mọi người chứng quả A-la-hán. |
|
|
Uruvelà Kassapa ôn lại sự thành quả của mình, nói lên chánh trí với những bài kệ như sau: |
|
375. ‘‘Disvāna pāṭihīrāni, gotamassa yasassino; Na tāvāhaṃ paṇipatiṃ, issāmānena vañcito. |
375. Thấy được các thần thông. Gotama danh tiếng, Nhưng ta chưa thần phục, Bị ganh, mạn lừa dối. |
375. “Sau khi nhìn thấy các điều kỳ diệu của vị có danh vọng Gotama, bị đánh lừa bởi sự ganh tỵ và ngã mạn, tôi đã không quỳ mọp xuống liền khi ấy. |
376. ‘‘Mama saṅkappamaññāya, codesi narasārathi;Tato me āsi saṃvego, abbhuto lomahaṃsano. |
376. Bậc Điều Ngự loài Người,. Biết được tâm tư ta, Chất vấn ta hốt hoảng, Kỳ diệu lông dựng ngược. |
376. Biết được sự suy tư của tôi, đấng Điều Ngự Trượng Phu đã quở trách. Do đó, tôi đã có sự chấn động, có sự nổi da gà kỳ lạ. |
377. ‘‘Pubbe jaṭilabhūtassa, yā me siddhi parittikā; Tāhaṃ tadā nirākatvā [niraṃkatvā (syā. ka.)], pabbajiṃ jinasāsane. |
377. Xưa ta thuộc bện tóc,. Thần thông ta nhỏ mọn, Ta xem chúng vô dụng, Ta xuất gia đầu Phật, |
377. Sự thành tựu của tôi trước đây khi ở trạng thái đạo sĩ tóc bện là nhỏ nhoi, vào khi ấy, tôi đã buông bỏ nó và tôi đã xuất gia trong Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng. |
378. ‘‘Pubbe yaññena santuṭṭho, kāmadhātupurakkhato; Pacchā rāgañca dosañca, mohañcāpi samūhaniṃ. |
378. Xưa bằng lòng tế tự,. Xem dục giới hàng đầu, Sau ta nhổ tận sạch Cả tham, sân và si. |
378. Trước đây, được hài lòng với sự hy sinh, bị vọng tưởng về dục giới, sau này, tôi đã xóa sạch sự luyến ái, sân hận, và luôn cả si mê. |
379. ‘‘Pubbenivāsaṃ jānāmi, dibbacakkhu visodhitaṃ; Iddhimā paracittaññū, dibbasotañca pāpuṇiṃ. |
379. Ta biết các đời truóc,. Thiên nhãn ta trong sạch, Thần thông biết tâm nguòi, Thiên nhĩ, ta đạt được. |
379. Có Thiên nhãn đã được trong sạch, tôi biết được đời sống trong thời quá khứ. Có thần thông, biết được tâm của người khác, và tôi đã đạt được Thiên nhĩ. |
380. ‘‘Yassa catthāya pabbajito, agārasmānagāriyaṃ; So me attho anuppatto, sabbasaṃyojanakkhayo’’ti. |
380. Do đích gì xuất gia,. Bỏ nhà, sống không nhà, Đích ấy ta đạt được, Mọi kiết sử tận diệt. |
380. Vì mục đích nào mà tôi đã xuất gia, rời nhà sống không nhà, mục đích ấy của tôi, sự cạn kiệt tất cả các điều ràng buộc, đã được thành tựu.” |
… Uruveḷakassapo thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Uruvelakassapa đã nói những lời kệ như thế. |
2. Tekicchakārittheragāthā |
(CCXI) Tekicchakàrì (Thera. 42) |
Kệ ngôn của trưởng lão Tekicchakāni. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một Bà-la-môn tên Subuddha. Ngài được các nhà giải phẫu cứu sống khi ngài mới sanh, vì vậy ngài được đặt tên là Tekicchakàrì (người được các bác sĩ cứu sống). Ngài lớn lên học các nghệ thuật và học thuật của giai cấp mình. Phụ thân ngài vì trí tuệ và chánh sách của mình, nên bị vua Candagotta, vua Bà-la-nại ganh ghét và bỏ tù. Tekicchakàrì nghe vậy, sợ hãi bỏ trốn, lánh mình tại tinh xá của một vị Trưởng lão, và tường thuật cho vị ấy biết nỗi khó khăn của mình. Vị Trưởng lão cho ngài xuất gia, chọn cho ngài một đề tài tu tập và ngài trở thành một Tỷ-kheo sống ngoài trời không kể gì lạnh nóng, hoàn toàn chú tâm vào tu tập cho được thành quả. Ác ma sợ ngài thoát khỏi sự chi phối của mình nên muốn phá rối vị Trưởng lão, đến gần dưới hình thức một người mục đồng, khi gặt hái đã xong, muốn cám dỗ ngài nên nói như sau: |
|
381. ‘‘Atihitā vīhi, khalagatā sālī;. Na ca labhe piṇḍaṃ, kathamahaṃ kassaṃ. |
381. Lúa đã gặt thâu xong. Gạo đã được đập, giã, Nhưng một miếng, không có, Ta sẽ làm gì đây? |
381. “Lúa đã được đem về, thóc đã đến sân đập giũ. Và tôi không nhận được đồ ăn khất thực, làm thế nào tôi có thể tồn tại? |
|
Vị Trưởng lão nghĩ rằng: ‘Người này nói đến tình cảnh của nó. Nhưng ta cần phải giáo huấn ta! Không phải phần việc để ta thuyết giảng’. Như vậy, vị Trưởng lão khuyên mình nên thiền quán trên ba quy y: |
|
382. ‘‘Buddhamappameyyaṃ anussara pasanno; Pītiyā phuṭasarīro hohisi satatamudaggo. |
382. Hãy niệm Phật vô lượng!. Tâm hân hoan thoải mái, Thân thấm nhuần hỷ thọ, Luôn luôn cảm phấn chấn. |
382. Hãy niệm tưởng đến đức Phật vô lượng, được tịnh tín, với cơ thể được thấm nhuần bởi hỷ, ngươi sẽ được phấn chấn thường xuyên. |
383. ‘‘Dhammamappameyyaṃ anussara pasanno;. Pītiyā phuṭasarīro hohisi satatamudaggo. |
383. Hãy niệm Pháp vô lượng!. Tâm hân hoan thoải mái, Thân thấm nhuần hỷ thọ, Luôn luôn cảm phấn chấn. |
383. Hãy niệm tưởng đến Giáo Pháp vô lượng, được tịnh tín, với cơ thể được thấm nhuần bởi hỷ, ngươi sẽ được phấn chấn thường xuyên. |
384. ‘‘Saṅghamappameyyaṃ anussara pasanno; Pītiyā phuṭasarīro hohisi satatamudaggo. |
384. Hãy niệm Tăng vô lượng!. Tâm hân hoan thoải mái, Thân thấm nhuần hỷ thọ, Luôn luôn cảm phấn chấn. |
384. Hãy niệm tưởng đến Hội Chúng vô lượng, được tịnh tín, với cơ thể được thấm nhuần bởi hỷ, ngươi sẽ được phấn chấn thường xuyên. |
|
Rồi Ác ma, muốn ngài không sống hạnh viễn ly, làm như muốn lo cho ngài được hạnh phúc, nói rằng: |
|
385. ‘‘Abbhokāse viharasi, sītā hemantikā imā ratyo;. Mā sītena pareto vihaññittho, pavisa tvaṃ vihāraṃ phusitaggaḷaṃ. |
385. Ngài sống giữa ngoài trời,. Những đêm này giá lạnh Chớ để lạnh hại ngài! Hãy vào trong tịnh xá, Có cửa đóng then gài. |
385. ‘Ngài sống ở ngoài trời, những đêm mùa đông này lạnh lẽo. Chớ để cơn lạnh chế ngự, gây khổ nhọc. Ngài hãy đi vào trú xá, có chốt cửa đã được gài.’ |
|
Vị Trưởng lão, nêu rõ ở trong nhà là một trói buộc và ở ngoài trời là giải thoát, nên trả lời: |
|
386. ‘‘Phusissaṃ catasso appamaññāyo, tāhi ca sukhito viharissaṃ; Nāhaṃ sītena vihaññissaṃ, aniñjito viharanto’’ti. |
386. Ta sẽ cảm thọ được,. Với bốn tâm vô lượng, Ta sẽ sống an lạc Với những tâm tư ấy, Giá lạnh không hại ta, Ta sống không dao động. |
386. ‘Tôi sẽ chạm đến bốn vô lượng tâm, và nhờ vào chúng, được an lạc, tôi sẽ sống. Tôi sẽ không bị khổ nhọc bởi cơn lạnh, trong khi sống không bị khuấy động.’” |
|
Nói vậy, vị Trưởng lão phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. |
|
|
Vì rằng vị Trưởng lão sống trong thời vua Bindusàra, các bài kệ này cần được hiểu là được tụng đọc vào kỳ kiết tập thứ ba như là thuộc Kinh tạng. |
|
… Tekicchakārī [tekicchakāni (sī. syā. pī.)] thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Tekicchakāni đã nói những lời kệ như thế. |
3. Mahānāgattheragāthā |
(CCXII ) Mahà-Nàga (Thera. 43) |
Kệ ngôn của trưởng lão Mahānāga. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh tại Sàketa, con trai một Bà-la-môn tên Madhu Vàsettha và được đặt tên là Mahà-Nàga. Ngài thấy thần thông do Trưởng lão Gavampati thực hiện trong khi Thế Tôn sống trong rừng Anjana, và khởi lòng tin, ngài xuất gia dưới sự hướng dẫn của vị Trưởng lão, và chứng quả A-la-hán nhờ vị này giáo huấn. |
|
|
Ngay khi ngài an trú trong an lạc giải thoát, Trưởng lão Mahà-Nàga thấy sáu Tỷ-kheo thường hay không cung kính các vị đồng Phạm hạnh, và ngài giáo huấn họ với những bài kệ như sau, những bài kệ này trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài: |
|
387. ‘‘Yassa sabrahmacārīsu, gāravo nūpalabbhati; Parihāyati saddhammā, maccho appodake yathā. |
387. Ai đối đồng Phạm hạnh,. Không có sự cung kính, Chúng thối giảm diệu pháp Như cá mắc nước cạn. |
387. “Kẻ nào không có sự kính trọng đối với các vị đồng Phạm hạnh, (kẻ ấy) bị suy giảm về Chánh Pháp, giống như con cá ở nơi ít nước. |
388. ‘‘Yassa sabrahmacārīsu, gāravo nūpalabbhati; Na virūhati saddhamme, khette bījaṃva pūtikaṃ. |
388. Ai đối đồng Phạm hạnh,. Không có sự cung kính, Không lớn trong diệu pháp, Như giống thối trong ruộng. |
388. Kẻ nào không có sự kính trọng đối với các vị đồng Phạm hạnh, (kẻ ấy) không tiến triển trong Chánh Pháp, tựa như hạt giống bị thối ở cánh đồng. |
389. ‘‘Yassa sabrahmacārīsu, gāravo nūpalabbhati;. Ārakā hoti nibbānā [nibbāṇā (sī.)], dhammarājassa sāsane. |
389. Ai đối đồng Phạm hạnh,. Không có sự cung kính, Chúng xa rời Niết-bàn, Trong lời dạy Pháp vương. |
389. Kẻ nào không có sự kính trọng đối với các vị đồng Phạm hạnh, (kẻ ấy) bị cách xa Niết Bàn trong Giáo Pháp của đấng Pháp Vương. |
390. ‘‘Yassa sabrahmacārīsu, gāravo upalabbhati; Na vihāyati saddhammā, maccho bavhodake [bahvodake (sī.), bahodake (syā.)] yathā. |
390. Ai đối đồng Phạm hạnh,. Thật có sự cung kính, Không thối giảm diệu pháp, Như cá được nước nhiều. |
390. Vị nào có sự kính trọng đối với các vị đồng Phạm hạnh, (vị ấy) không bị suy giảm về Chánh Pháp, giống như con cá ở nơi nhiều nước. |
391. ‘‘Yassa sabrahmacārīsu, gāravo upalabbhati;. So virūhati saddhamme, khette bījaṃva bhaddakaṃ. |
391. Ai đối đồng Phạm hạnh,. Thật có sự cung kính, Lớn mạnh trong diệu pháp, Như giống tốt trong ruộng. |
391. Vị nào có sự kính trọng đối với các vị đồng Phạm hạnh, (vị ấy) tiến triển trong Chánh Pháp, tựa như hạt giống tốt lành ở cánh đồng. |
392. ‘‘Yassa sabrahmacārīsu, gāravo upalabbhati; Santike hoti nibbānaṃ [nibbāṇaṃ (sī.)], dhammarājassa sāsane’’ti. |
392. Ai đối đồng Phạm hạnh,. Thật có sự cung kính, Họ đến gần Niết-bàn, Trong lời dạy Pháp vương. |
392. Vị nào có sự kính trọng đối với các vị đồng Phạm hạnh, (vị ấy) là gần Niết Bàn trong Giáo Pháp của đấng Pháp Vương.” |
… Mahānāgo thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Mahānāga đã nói những lời kệ như thế. |
4. Kullattheragāthā |
(CCXIII) Kulla (Thera. 43) |
Kệ ngôn của trưởng lão Kulla. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ) trong gia đình một điền chủ tên là Kulla, ngài được cảm hóa với lòng tin và được bậc Đạo Sư độ cho xuất gia. Nhưng ngài thường bị tham dục chi phối. Bậc Đạo Sư biết yếu điểm này của ngài, cho ngài một đề tài bất tịnh và khuyên ngài thiền quán trong một nghĩa địa. Khi tu tập này chưa được kết quả bậc Đạo Sư đi với ngài và yêu cầu ngài theo dõi tiến trình thối nát và tiêu diệt của vật bất tịnh. Khi Kulla đã được tự tại thoát ly, Thế Tôn phóng hào quang, khiến ngài nhớ lại bài học, chứng Sơ thiền và từ đấy phát triển thiền quán, chứng được quả A-la-hán. |
|
|
Ôn lại kinh nghiệm, ngài thốt ra những câu kệ sau đây, trước nói về ngài, rồi nhắc lại lời dạy của bậc Đạo Sư, cuối cùng lại nói về ngài: |
|
393. ‘‘Kullo sivathikaṃ gantvā, addasa itthimujjhitaṃ; Apaviddhaṃ susānasmiṃ, khajjantiṃ kimihī phuṭaṃ. |
393. Kulla đến nghĩa địa,. Thấy bỏ một đàn bà, Vất ném trong nghĩa địa, Làm mồi cho sâu ăn. |
393. “Sau khi đi đến bãi tha ma, Kulla tôi đã nhìn thấy (thây) người phụ nữ bị liệng bỏ, bị quăng ở nghĩa địa, đang bị gặm nhấm, lúc nhúc những dòi. |
394. ‘‘Āturaṃ asuciṃ pūtiṃ, passa kulla samussayaṃ; Uggharantaṃ paggharantaṃ, bālānaṃ abhinanditaṃ. |
394. Kulla, hãy nhìn thân,. Bệnh hoạn nhớp hôi thối, Nước ứ chảy, rỉ chảy, Được kẻ ngu thích thú. |
394. Này Kulla, ngươi hãy nhìn thấy xác thân là bệnh hoạn, không trong sạch, hôi thối, đang tiết ra, đang rò rỉ, được những kẻ ngu thích thú. |
395. ‘‘Dhammādāsaṃ gahetvāna, ñāṇadassanapattiyā; Paccavekkhiṃ imaṃ kāyaṃ, tucchaṃ santarabāhiraṃ. |
395. Sau khi nắm gương pháp,. Đạt được chánh tri kiến, Ta quán sát thân này, Trống rỗng cả trong ngoài. |
395. Sau khi cầm lấy cái gương soi Giáo Pháp, nhằm đạt được trí tuệ và sự hiểu biết, tôi đã quán xét thân này là rỗng không bên trong lẫn bên ngoài. |
396. ‘‘Yathā idaṃ tathā etaṃ, yathā etaṃ tathā idaṃ; Yathā adho tathā uddhaṃ, yathā uddhaṃ tathā adho. |
396. Đây thế nào, kia vậy,. Kia thế nào, đây vậy, Dưới thế nào, trên vậy, Trên thế nào, dưới vậy. |
396. Thân này thế nào, thân kia thế ấy; thân kia thế nào, thân này thế ấy. Phần dưới thế nào, phần trên thế ấy; phần trên thế nào, phần dưới thế ấy. |
397. ‘‘Yathā divā tathā rattiṃ, yathā rattiṃ tathā divā; Yathā pure tathā pacchā, yathā pacchā tathā pure. |
397. Ngày thế nào, đêm vậy,. Đêm thế nào, ngày vậy, Trước thế nào, sau vậy, Sau thế nào, trước vậy. |
397. Ban ngày thế nào, ban đêm thế ấy; ban đêm thế nào, ban ngày thế ấy. Trước đây thế nào, sau này thế ấy; sau này thế nào, trước đây thế ấy. |
398. ‘‘Pañcaṅgikena turiyena, na ratī hoti tādisī; Yathā ekaggacittassa, sammā dhammaṃ vipassato’’ti. |
398. Người vậy không ưa thích,. Cả năm loại nhạc khí, Khi đã được nhất tâm, Chơn chánh thiền quán pháp. |
398. Sự thích thú đối với nhạc cụ gồm năm loại là không được giống như (sự thích thú) của vị có tâm chuyên nhất đang nhìn thấy rõ Giáo Pháp một cách đúng đắn.” |
|
Những kệ này là lời tuyên bố chánh trí của ngài. |
Đại đức trưởng lão Kulla đã nói những lời kệ như thế. |
… Kullo thero…. |
|
|
5. Mālukyaputtattheragāthā |
(CCXIV) Màlunkyaputta (Thera. 43) |
Kệ ngôn của trưởng lão Māluṅkyaputta. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con một vị chuyên môn đánh giá cho vua Kosala, và mẹ là Màlunkyya, nên ngài được gọi là Màlunkyaputta (con bà Màlunkyà). Khi đến tuổi trưởng thành, tánh ưa thích đời sống xuất gia, ngài trở thành một du sĩ ngoại đạo. Khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, ngài xin xuất gia trong Pháp và Luật của Thế Tôn, và sau một thời gian, ngài chứng được sáu thắng trí. Khi ngài về thăm nhà vì lòng từ mẫn đối với bà con, các bà con chào đón ngài rất niềm nở và muốn kéo ngài trở về với đời sống gia đình thế tục, nói rằng với tài sản của ngài, ngài có thể lập gia đình và làm các thiện sự. Nhưng ngài nói lên chí nguyện cuả ngài như sau: |
|
399. ‘‘Manujassa pamattacārino, taṇhā vaḍḍhati māluvā viya;. So plavatī [plavati (sī. pī. ka.), pariplavati (syā.)] hurā huraṃ, phalamicchaṃva vanasmi vānaro. |
399. Có người sống phóng dật,. Ái lớn như cây leo, Sống trôi nổi luân chuyển, Đời này qua đời khác, Như con khỉ trong rừng, Thèm muốn các trái cây. |
399. “Đối với người có thói quen xao lãng, tham ái tăng trưởng tựa như giống dây chùm gởi, kẻ ấy trôi nổi từ đời này sang đời khác, tựa như con khỉ ở trong rừng đang muốn trái cây. |
400. ‘‘Yaṃ esā sahate [sahati (pī. ka.)] jammī, taṇhā loke visattikā; Sokā tassa pavaḍḍhanti, abhivaṭṭhaṃva [abhivuṭṭhaṃva (syā.), abhivaḍḍhaṃva (ka.)] bīraṇaṃ. |
400. Khát ái khốn nạn này. Thấm độc cả thế giới, Khi đã chinh phục ai, Khiến sầu muộn tăng trưởng, Chẳng khác giống cỏ rừng, Lan tràn và lớn mạnh. |
400. Tham ái hạ liệt ấy, sự quyến luyến ở thế gian, chế ngự kẻ nào, các sầu muộn phát khởi nơi kẻ ấy, tựa như giống cỏ bīraṇa được đổ mưa. |
401. ‘‘Yo cetaṃ sahate [sahati (pī. ka.)] jammiṃ, taṇhaṃ loke duraccayaṃ; Sokā tamhā papatanti, udabindūva pokkharā.. |
401. Ai nhiếp phục được ái,. Khốn nạn, khó chinh phục, Sầu rơi khỏi vị ấy, Như giọt nước trên sen. |
401. Và người nào chế ngự tham ái hạ liệt ấy, là việc khó vượt qua ở trên đời, các sầu muộn rơi khỏi vị ấy, tựa như giọt nước trượt khỏi lá sen. |
402. ‘‘Taṃ vo vadāmi bhaddaṃ vo, yāvantettha samāgatā; Taṇhāya mūlaṃ khaṇatha, usīratthova bīraṇaṃ; Mā vo naḷaṃva sotova, māro bhañji punappunaṃ. |
402. Các ông đã đến đây,. Ta thuyết điều lành ấy, Hãy đào rễ khát ái, Như tìm rễ ngon ngọt, Loại cỏ u-sì-ra, Chớ để Ma, dòng nước, Tàn phá ông cây lau. Liên tục vậy mãi mãi. |
402. Tôi nói với quý vị về điều tốt đẹp ấy, cho đến hết thảy quý vị đã tụ hội ở đây. Quý vị hãy đào bới gốc rễ của tham ái, tựa như người cần rễ cỏ usīra đào bới cỏ bīraṇa. Chớ để Ma Vương còn tiếp tục bẻ gãy quý vị, tựa như chính dòng nước đã bẻ gãy cây sậy. |
403. ‘‘Karotha buddhavacanaṃ, khaṇo vo mā upaccagā; Khaṇātītā hi socanti, nirayamhi samappitā. |
403. Hãy hành lời Phật dạy,. Chớ để Sát-na qua, Sát-na qua, sầu khổ, Thọ quả trong địa ngục, |
403. Quý vị hãy thực hành lời dạy của đức Phật, chớ để thời khắc của quý vị trôi qua, bởi vì những kẻ đã để thời khắc trôi qua bị sầu muộn khi bị đưa vào trong địa ngục. |
404. ‘‘Pamādo rajo pamādo [sabbadā (sī. ka.), suttanipātaṭṭhakathāyaṃ uṭṭhānasuttavaṇṇanā oloketabbā], pamādānupatito rajo; Appamādena vijjāya, abbahe sallamattano’’ti. |
404. Phóng dật như bụi bặm,. Bụi nhơ, do phóng dật, Không phóng dật, minh trí, Nhổ mũi tên khỏi ta. |
404. Sự xao lãng luôn luôn là ô nhiễm, ô nhiễm được trỗi dậy do xao lãng, nhờ vào sự không xao lãng và sự hiểu biết, quý vị nên nhổ lên mũi tên của chính mình.” |
… Mālukyaputto [māluṅkyaputto (sī. syā. pī.)] thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Māluṅkyaputta đã nói những lời kệ như thế. |
6. Sappadāsattheragāthā |
(CCXV) Sappadàsa (Thera. 44) |
Kệ ngôn của trưởng lão Sappadāsa. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), con của vị cố vấn tế lễ của vua Suddhodhana, và được đặt tên là Sappadàsa. Khi đức Phật viếng thăm bà con, ngài khởi lòng tin và xuất gia. Bị chi phối bởi những tập tục xấu, những tánh tình tâm lý không tốt đẹp, ngài không sao được thiền định và nhất tâm. Sự kiện này khiến ngài quá sầu não đến nỗi ngài gần tự tử, nhưng bỗng ánh sáng nội tâm chói sáng lan rộng thình lình, ngài chứng quả A-la-hán, nói lên chánh trí của mình, ngài nói: |
|
405. ‘‘Paṇṇavīsativassāni, yato pabbajito ahaṃ; Accharāsaṅghātamattampi, cetosantimanajjhagaṃ. |
405. Đã được hăm lăm năm,. Từ khi ta xuất gia, Nhưng đến một búng tay, Ta không đạt tâm tịnh. |
405. “Hai mươi lăm năm kể từ khi tôi được xuất gia, tôi đã không chứng đắc sự an tịnh của tâm, dầu chỉ là khoảng thời gian của việc khảy móng tay. |
406. ‘‘Aladdhā cittassekaggaṃ, kāmarāgena aṭṭito [addito (syā. sī. aṭṭha.), aḍḍito (ka.)]; Bāhā paggayha kandanto, vihārā upanikkhamiṃ [nūpanikkhamiṃ (sabbattha), dupanikkhamiṃ (?)]. |
406. Nhứt tâm không đạt được,. Bị dục tham chi phối, Khoa tay, ta than khóc, Bỏ tịnh xá, ta đi. |
406. Sau khi không đạt được sự chuyên nhất của tâm, bị hành hạ bởi sự luyến ái ở các dục, tôi đã buông xuôi cánh tay trong lúc than vãn, tôi đã đi ra khỏi trú xá. |
407. ‘‘Satthaṃ vā āharissāmi, ko attho jīvitena me;. Kathaṃ hi sikkhaṃ paccakkhaṃ, kālaṃ kubbetha mādiso. |
407. Ta sẽ đem dao lại,. Sự sống ta, nghĩa gì? Học tập bị tước bỏ, Như ta, chết tốt hơn. |
407. Hay là ta sẽ mang lại con dao, có lợi ích gì với mạng sống của ta? Bởi vì trong khi từ bỏ việc học tập, người như ta có thể kết liễu mạng sống bằng cách nào? |
408. ‘‘Tadāhaṃ khuramādāya, mañcakamhi upāvisiṃ; Parinīto khuro āsi, dhamaniṃ chettumattano. |
408. Rồi ta cầm con dao. Ta vào chỗ giường nằm, Con dao được rút ra, Để cắt cổ của ta. |
408. Khi ấy, sau khi cầm lấy dao cạo, tôi đã ngồi xuống ở chiếc giường nhỏ. Con dao cạo đã được đưa đến gần để cắt đứt mạch máu (ở cổ họng) của bản thân. |
409. ‘‘Tato me manasīkāro, yoniso udapajjatha;. Ādīnavo pāturahu, nibbidā samatiṭṭhatha. |
409. Rồi ta tự tác ý,. Như lý, khởi tư duy, Các hiểm nguy hiển lộ Nhàm chán, ta an trú |
409. Do đó, sự tác ý theo đúng đường lối đã khởi lên ở tôi, điều bất lợi đã hiện rõ, sự nhàm chán đã được thiết lập. |
410. ‘‘Tato cittaṃ vimucci me, passa dhammasudhammataṃ; Tisso vijjā anuppattā, kataṃ buddhassa sāsana’’nti. |
410. Và tâm ta giải thoát,. Thấy Pháp nhĩ là vậy, Ba minh chứng đạt được, Lời Phật dạy làm xong. |
410. Do đó, tâm của tôi đã được giải thoát; hãy nhìn xem bản chất tốt đẹp của Giáo Pháp. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.”[9] |
… Sappadāso thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Sappadāsa đã nói những lời kệ như thế. |
7.Kātiyānattheragāthā |
(CCXVI) Kàtiyàna (Thera. 45) |
Kệ ngôn của trưởng lão Kātiyāna. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở Sàvatthi, con của một Bà-la-môn thuộc dòng họ Kosiya, nhưng được gọi là Kàtiyàna, theo gia đình của bà mẹ. Thấy bạn của mình là Sàmannakàni trở thành một Trưởng lão, ngài cũng xuất gia. Khi ngài học tập, ngài cương quyết đối trị nằm ngủ ban đêm. Trong khi đi qua lại trên con đường kinh hành, ngài quá buồn ngủ nên té xuống. Bậc Đạo Sư thấy vậy, đi đến đứng truớc ngài và gọi: ‘Này Kàtiyàna!’. Ngài liền đứng dậy, đảnh lễ, và đứng một bên, bị dao động mạnh, rồi Thế Tôn thuyết pháp cho ngài như sau: |
|
411. ‘‘Uṭṭhehi nisīda kātiyāna, mā niddābahulo ahu jāgarassu; Mā taṃ alasaṃ pamattabandhu, kūṭeneva jinātu maccurājā. |
411. Này Ka-tiya-na,. Hãy thức dậy, ngồi lên, Chớ có ngủ quá nhiều, Hãy tự mình thức tỉnh, Này bà con phóng dật, Kẻ thụ động biếng nhác Chớ để cho thần chết, Lường gạt, chiến thắng ông. |
411. “Này Kātiyāna, hãy đứng lên, hãy ngồi xuống (tham thiền), chớ có ngủ nhiều, hãy tỉnh thức. Chớ để Thần Chết, kẻ thân quyến của sự xao lãng, chiến thắng kẻ lười biếng ngươi chỉ bằng mưu kế. |
412. ‘‘Seyyathāpi [sayathāpi (sī. pī.)] mahāsamuddavego, evaṃ jātijarātivattate taṃ; So karohi sudīpamattano tvaṃ, na hi tāṇaṃ tava vijjateva aññaṃ. |
412. Như sóng tràn biển lớn,. Cũng vậy sanh và già, Tràn ngập chôn lấp ông, Hãy tự làm cho ông, Một hòn đảo an toàn, Vì rằng không ai khác, Phục vụ giúp đỡ ông, Như là chỗ nương tựa. |
412. Cũng giống như làn sóng mạnh của đại dương, sự sanh và sự già vùi dập ngươi tương tự như vậy. Ngươi đây hãy tự mình tạo lập hòn đảo tốt đẹp, bởi vì chốn nương tựa khác cho ngươi quả không tìm thấy. |
413. ‘‘Satthā hi vijesi maggametaṃ, saṅgā jātijarābhayā atītaṃ; Pubbāpararattamappamatto, anuyuñjassu daḷhaṃ karohi yogaṃ. |
413. Đạo Sư lập con đường,. Đường vượt qua trói buộc, Vượt qua sự sợ hãi, Của sanh và của già, Trước đêm và sau đêm, Hãy sống không phóng dật, Chú tâm cố kiên trì, Trong nỗ lực chuyên tâm. |
413. Bởi vì bậc Đạo Sư đã hoàn thành con đường ấy vượt qua khỏi sự bám víu và nỗi sợ hãi về sự sanh, sự già. Đầu đêm và cuối đêm, người hãy gắn bó, không xao lãng, hãy thực hiện việc tu luyện một cách vững chãi. |
414. ‘‘Purimāni pamuñca bandhanāni, saṅghāṭikhuramuṇḍabhikkhabhojī; Mā khiḍḍāratiñca mā niddaṃ, anuyuñjittha jhāya kātiyāna. |
414. Từ bỏ triền phược trước,. Mặc áo Tăng-già-lê, Đầu cạo trọc trơn láng, Ăn đồ ăn khất thực, Chớ có ưa chơi giỡn, Chớ đam mê ngủ nghỉ, Hãy nỗ lực thiền định, Hỡi Ka-ti-ya-na! |
414. Hãy cởi bỏ mọi sự trói buộc trước đây, có sự thọ dụng về y hai lớp, đầu cạo bằng dao, và đồ ăn khất thực, chớ gắn bó việc chơi giỡn, lạc thú, và ngủ nghê, này Kātiyāna, hãy tham thiền. |
415. ‘‘Jhāyāhi jināhi kātiyāna, yogakkhemapathesu kovidosi; Pappuyya anuttaraṃ visuddhiṃ, parinibbāhisi vārināva joti. |
415. Hãy thiền tu, chiến thắng,. Hỡi Ka-ti-ya-na! Hãy thiện xảo con đường, An ổn các khổ ách; Hãy đạt cho kỳ được, Sự thanh tịnh tối thượng. Ông sẽ chứng Niết-bàn, Như nước làm tắt lửa. |
415. Này Kātiyāna, hãy tham thiền, hãy chiến thắng, là người rành rẽ về các con đường của sự an toàn khỏi các ràng buộc, sau khi thành tựu sự thanh tịnh vô thượng, ngươi sẽ tịch tịnh, tựa như ngọn lửa bị dập tắt bởi nước. |
416. ‘‘Pajjotakaro parittaraṃso, vātena vinamyate latāva; Evampi tuvaṃ anādiyāno, māraṃ indasagotta niddhunāhi; So vedayitāsu vītarāgo, kālaṃ kaṅkha idheva sītibhūto’’ti. |
416. Ánh sáng được tạo ra,. Hào quang còn yếu ớt, Chẳng khác như cây lau, Gió thổi nằm rạp xuống, Hỡi bà con Tu-đa, Như vậy, chớ chấp thủ, Hãy tẩn xuất Ác-ma, Ly tham mọi cảm thọ, Chờ đợi thời của ông! Tại đây ông mát lạnh. |
416. Cây đèn có ngọn lửa yếu ớt bị vùi dập bởi ngọn gió tựa như giống dây leo, cũng tương tự như vậy, này người dòng dõi Inda, trong khi không bám víu, ngươi hãy giũ bỏ Ma Vương, có tham ái đã được xa lìa ở các cảm thọ, ngươi đây hãy chờ đợi thời điểm, ngay ở nơi này, có trạng thái mát mẻ.” |
… Kātiyāno thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Kātiyāna đã nói những lời kệ như thế. |
8. Migajālattheragāthā |
(CCXII ) Migajàla (Thera. 45) |
Kệ ngôn của trưởng lão Migajāla. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con của nữ cư sĩ nổi tiếng Visàkhà, và hay đi đến tinh xá để nghe pháp. Cuối cùng, ngài xuất gia, và sau một thời gian chứng quả A-la-hán, khi nói lên chánh trí của mình, ngài nói: |
|
417. ‘‘Sudesito cakkhumatā, buddhenādiccabandhunā; Sabbasaṃyojanātīto, sabbavaṭṭavināsano. |
417. Khéo giảng bậc có mắt,. Hào quang còn yếu ớt, Mọi kiết sử vượt qua, Mọi luân chuyển hoạt diệt. |
417. “(Con đường Thánh tám chi phần)[10] đã khéo được thuyết giảng bởi đức Phật, bậc Hữu Nhãn, vị thân quyến của mặt trời, người đã vượt qua tất cả các điều ràng buộc, có sự tiêu diệt tất cả các sự xoay vần. |
418. ‘‘Niyyāniko uttaraṇo, taṇhāmūlavisosano; Visamūlaṃ āghātanaṃ, chetvā pāpeti nibbutiṃ. |
418. Pháp hướng dẫn, hướng thượng,. Làm khô héo ác căn, Chặt đứt gốc nọc độc, Diệt ác, đạt tịch tịnh. |
418. (Con đường Thánh tám chi phần) là sự dẫn dắt ra khỏi, có sự vượt lên trên, có sự làm khô héo gốc rễ của tham ái, sau khi cắt đứt gốc rễ của chất độc có sự hủy hoại, rồi giúp cho đạt được sự tịch diệt. |
419. ‘‘Aññāṇamūlabhedāya, kammayantavighāṭano;. Viññāṇānaṃ pariggahe, ñāṇavajiranipātano. |
419. Phá vỡ gốc vô trí,. Chấm dứt nghiệp sanh hữu, Trí kim cang đánh nát, Mọi chấp trì của thức. |
419. Do việc phá vỡ gốc rễ của trạng thái vô trí, có sự phá tung tình trạng khống chế của nghiệp, có sự làm giáng xuống tia sét trí tuệ ở sự nắm giữ của các nhận thức. |
420. ‘‘Vedanānaṃ viññāpano, upādānappamocano; Bhavaṃ aṅgārakāsuṃva, ñāṇena anupassano [anupassako (sī. pī.)]. |
420. Cảm thọ được phơi bày,. Chấp thủ được giải thoát, Hữu như hố than hừng, Được tùy quán bởi trí. |
420. Có sự giúp cho việc nhận thức các thọ, có sự giải thoát khỏi các chấp thủ, có sự quán xét bằng trí tuệ về sự hiện hữu tựa như hố than hừng. |
421. ‘‘Mahāraso sugambhīro, jarāmaccunivāraṇo; Ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, dukkhūpasamano sivo. |
421. Vị lớn, khéo thâm sâu,. Chận đứng già và chết, Con đường Thánh tám ngành, Tịnh chỉ khổ, vận tốt. |
421. Con đường Thánh tám chi phần, tốt đẹp, có phẩm chất vĩ đại, vô cùng sâu thẳm, có sự cản ngăn trạng thái già và chết, có sự làm an tịnh các khổ đau. |
422. ‘‘Kammaṃ kammanti ñatvāna, vipākañca vipākato; Paṭiccuppannadhammānaṃ, yathāvālokadassano; Mahākhemaṅgamo santo, pariyosānabhaddako’’ti. |
422. Biết được nghiệp là nghiệp,. Biết nghiệp quả là quả, Như thực soi, quán chiếu, Các pháp do duyên sanh, Đưa đến đại an ổn, Tịch tịnh, cứu cánh thiện. |
422. Sau khi biết nghiệp là ‘nghiệp’ và quả thành tựu là quả thành tựu, có sự nhìn thấy bằng ánh sáng chân thật đối với các pháp tùy thuận sanh khởi, (con đường Thánh tám chi phần) là an tịnh, có sự dẫn đến chốn an toàn vĩ đại, có sự tốt đẹp ở phần cuối (Niết Bàn).” |
… Migajālo thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Migajāla đã nói những lời kệ như thế. |
9. Purohitaputtajentattheragāthā |
(CCXVIII) Jenta (Thera. 45) |
Kệ ngôn của trưởng lão Jenta. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại , ngài sanh ra làm con của vị cố vấn tế tự cho vua Kosala và được đặt tên là Jenta. Khi lớn lên, ngài trở thành kiêu mạn với những quyền lợi về sanh, tài sản, địa vị, khinh bỉ những gì đáng phải kính trọng và cứng cỏi trong kiêu hãnh. Một hôm, ngài đến gần bậc Đạo Sư đang thuyết pháp cho một số đông, nghĩ rằng: ‘Nếu Sa-môn Gotama nói với ta trước, ta sẽ nói, ta không tự ý nói với Sa-môn Gotama!’. Thế Tôn không nói với Jenta, và Jenta vì lòng kiêu mạn cũng không nói. Sau cùng ngài nêu rõ lý do vì sao ngài đến và Thế Tôn nói với ngài như sau: |
|
|
An trú triền kiêu mạn, |
|
|
Thật sự là không tốt, |
|
|
Hỡi này Bà-la-môn, |
|
|
Nên an trú lợi ích. |
|
|
Điều thiện ông tầm cầu, |
|
|
Khi ông đến tại đây, |
|
|
Chỉ trên đấy mà thôi, |
|
|
Ông hãy nên an trú. |
|
|
Jenta nghĩ rằng: ‘Thế Tôn đã biết tư tưởng của ta, cảm thấy xúc động mạnh và đảnh lễ chân Thế Tôn’. Rồi ngài thưa với bậc Đạo Sư: |
|
|
Với ai, không nên kiêu? |
|
|
Với ai, cần cung kính? |
|
|
Với ai, phải tôn trọng? |
|
|
Cung kính ai là thiện? |
|
|
Thế Tôn trả lời: |
|
|
Với cha và với mẹ, |
|
|
Với anh cả, với thầy, |
|
|
Với các Bà-la-môn, |
|
|
Với Sa-môn áo vàng, |
|
|
Với những vị như vậy, |
|
|
Nên cung kính tôn trọng, |
|
|
Cung kính các vị ấy, |
|
|
Là việc làm tốt lành. |
|
|
Với các bậc La-hán, |
|
|
Tịch tịnh và hữu học, |
|
|
An tịnh, không cấu uế, |
|
|
Mọi kiêu mạn chấm dứt, |
|
|
Khi đạt đến mục tiêu, |
|
|
Hãy tôn trọng vị ấy. |
|
|
Với lời dạy này, Jenta chứng được quả Dự Lưu, xuất gia và sau một thời gian, chứng quả A-la-hán. Nói lên sự thành công, ngài tuyên bố chánh trí của ngài: |
|
423. ‘‘Jātimadena mattohaṃ, bhogaissariyena ca; Saṇṭhānavaṇṇarūpena, madamatto acārihaṃ. |
423. Ta say đắm tự kiêu,. Với sanh chủng, tài sản, Kể cả với quyền lực, Địa vị và dung sắc, Ta sống kiêu mạn vậy. Tham dắm và mê say. |
423. “Tôi bị đắm say với sự kiêu hãnh về dòng dõi, về của cải và về uy quyền. Tôi đã sống, bị đắm say với sự kiêu hãnh về màu da và dáng vóc của thân hình. |
424. ‘‘Nāttano samakaṃ kañci, atirekaṃ ca maññisaṃ; Atimānahato bālo, patthaddho ussitaddhajo. |
424. Ta quá sức kiêu hãnh.. Xem không ai bằng ta, Si mê, quá tự hào, Kiêu căng và cống cao. |
424. Bị hủy hoại bởi sự ngã mạn quá lố, ngu dốt, bướng bỉnh, có ngọn cờ (ngã mạn) đã được dương lên, tôi đã nghĩ rằng không có cái gì bằng và hơn được bản thân tôi. |
425. ‘‘Mātaraṃ pitarañcāpi, aññepi garusammate; Na kañci abhivādesiṃ, mānatthaddho anādaro. |
425. Mẹ cha và người khác,. Được cung kính tôn trọng, Ta không lễ một ai, Kiêu hãnh, không lễ phép. |
425. Bướng bỉnh vì ngã mạn, không có sự tôn trọng, tôi đã không đảnh lễ bất cứ người nào, dầu là mẹ, và cha, luôn cả những người khác được xem là đáng tôn kính. |
426. ‘‘Disvā vināyakaṃ aggaṃ, sārathīnaṃ varuttamaṃ; Tapantamiva ādiccaṃ, bhikkhusaṅghapurakkhataṃ. |
426. Thấy lãnh đạo đệ nhất,. Tối ưu Điều Ngự Sư, Như mặt trời sáng chói, Cầm đầu chúng Tỷ-kheo. |
426. Sau khi nhìn thấy đấng Hướng Đạo cao cả, bậc Điều Ngự cao quý tối thượng, tựa như mặt trời đang chói sáng, được Hội Chúng tỳ khưu tôn vinh. |
427. ‘‘Mānaṃ madañca chaḍḍetvā, vippasannena cetasā; Sirasā abhivādesiṃ, sabbasattānamuttamaṃ. |
427. Gạt bỏ mạn, kiêu hãnh,. Với tâm thật an lành, Với đầu ta đảnh lễ, Bậc tối thượng chúng sanh. |
427. Sau khi quăng bỏ ngã mạn và kiêu hãnh, với tâm ý vô cùng tịnh tín, tôi đã đê đầu đảnh lễ bậc Tối Thượng của tất cả chúng sanh. |
428. ‘‘Atimāno ca omāno, pahīnā susamūhatā; Asmimāno samucchinno, sabbe mānavidhā hatā’’ti. |
428. Quá mạn, ty liệt mạn,. Từ bỏ, nhổ tận gốc, Ngã mạn được chặt đứt, Mọi loại mạn tận diệt. |
428. Sự ngã mạn quá lố và sự khinh miệt đã được dứt bỏ, đã khéo được xóa sạch, bản ngã ‘tôi là’ đã được trừ tuyệt, tất cả ngã mạn các loại đã được tiêu diệt.” |
… Jento purohitaputto thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Jenta đã nói những lời kệ như thế. |
10. Sumanattheragāthā |
(CCXIX) Sumana (Thera. 46) |
Kệ ngôn của trưởng lão Sumana. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong gia đình một cư sĩ, làm vị hộ trì cho Tôn giả Anuruddha. Từ trước, con cháu của người cư sĩ này chết trẻ. Khi sắp đẻ đứa con, người cha nghĩ nếu là con trai thời sẽ cho xuất gia với vị Trưởng lão. Sau mười tháng, đẻ được đứa con trai, vị cư sĩ này cho xuất gia khi đứa trẻ lên bảy tuổi. Do căn tánh thuần phục, không bao lâu ngài chứng được sáu thắng trí trong khi đang hầu hạ bậc Truởng lão. Cầm được cái bình để xách nước, Sumana với thần thông, đi đến hồ Anotatta, một con xà vương ác độc, phồng mang ngưỡng đầu lên không cho ngài lấy nước. Rồi Sumana hóa thành con chim Garuda (Kim xí điểu) nhiếp phục con rắn và mang nước bay về vị Trưởng lão. Rồi bậc Đạo Sư, ngồi tại vườn Jetavana, thấy ngài bay về, liền gọi Sàriputta cùng xem, và tán thán ngài với bốn câu kệ. Sunmana để nêu lên chánh trí của mình cộng thêm những bài kệ của mình như sau: |
|
429. ‘‘Yadā navo pabbajito, jātiyā sattavassiko;. Iddhiyā abhibhotvāna, pannagindaṃ mahiddhikaṃ. |
429. Khi người mới xuất gia,. Từ sanh, mới bảy tuổi, Với thần thông ta điều, Con xà vương thần lực. |
429. “Vào lúc tôi vừa mới được xuất gia, bảy tuổi kể từ lúc sanh, tôi đã chế ngự con rồng chúa có đại thần lực bằng thần thông. |
430. ‘‘Upajjhāyassa udakaṃ, anotattā mahāsarā; Āharāmi tato disvā, maṃ satthā etadabravi’’. |
430. Từ hồ nước to lớn,. Tên A-no-tat-ta Ta đem nước hồ về, Cho bậc giáo thọ sư, Thấy vậy bậc Đạo Sư, Nói về ta như sau: |
430. Tôi đem nước từ cái hồ lớn Anotatta về cho thầy tế độ. Do đó, sau khi nhìn thấy, bậc Đạo Sư đã nói về tôi điều này: |
431. ‘‘Sāriputta imaṃ passa, āgacchantaṃ kumārakaṃ; Udakakumbhamādāya, ajjhattaṃ susamāhitaṃ.. |
431. Này Sà-ri-put-ta!. Xem đứa trẻ này đến, Tự bưng cầm ghè nước, Nội tâm khéo định tĩnh. Với nhiệm vụ khả ái, Cử chỉ rất thuần thiện. |
431. ‘Này Sāriputta, hãy nhìn cậu bé trai này đang tiến đến, mang theo hũ nước nhỏ, nội tâm khéo định tĩnh. |
432. ‘‘Pāsādikena vattena, kalyāṇairiyāpatho; Sāmaṇeronuruddhassa, iddhiyā ca visārado. |
432. Người đệ tử Sa-di,. Của Anuruddha, Có thần thông uy lực, Thuần thục và điêu luyện. |
432. Với lối hành xử đáng mến, có oai nghi tốt đẹp, và có sự tự tín ở thần thông, là sa-di của vị Anuruddha. |
433. ‘‘Ājānīyena ājañño, sādhunā sādhukārito;. Vinīto anuruddhena, katakiccena sikkhito. |
433. Thuần lương nhờ giáo dục,. Do vị đại thuần lương, Thiện hạnh nhờ giáo dục, Bởi bậc khéo thiện hạnh. Nhờ Anuruddha, Khéo huấn luyện điều phục, Được học tập giảng dạy, Làm xong việc phải làm. |
433. Được thuần chủng nhở vào vị thuần chủng, được làm cho tốt đẹp nhờ vào vị tốt đẹp, được huấn luyện, được học tập với vị Anuruddha, người có phận sự đã được làm xong. |
434. ‘‘So patvā paramaṃ santiṃ, sacchikatvā akuppataṃ; Sāmaṇero sa sumano, mā maṃ jaññāti icchatī’’ti. |
434. Đạt được tịnh tối thắng,. Chứng đắc, không dao động, Sa-di Sumana, Muốn: ‘Không ai biết ta’. |
434. Sau khi đạt đến sự an tịnh tối thượng, sau khi chứng ngộ trạng thái không bị chuyển dịch, vị sa-di có thiện tâm mong muốn rằng: ‘Mong rằng chớ ai biết đến tôi.’” |
… Sumano thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Sumana đã nói những lời kệ như thế. |
11. Nhātakamunittheragāthā |
(CCXX) Nhàlaka – Muni (Thera. 46) |
Kệ ngôn của trưởng lão Nhātakamuni. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), trong gia tộc Bà-la-môn, được giáo dục trong văn chương Vệ-đà, ngài được biết là vị đã đậu cấp bực Nhàlaka (cấp bực tắm rửa). Trở thành một ẩn sĩ, ngài sống trong một khu rừng cách xa Vương Xá khoảng ba do-tuần, sống với lúa hoang và thờ lửa. |
|
|
Đức Thế Tôn, thấy được điều kiện trở thành một vị A-la-hán chói sáng trong tâm ngài, như ánh sáng trong một cái ghè. Thế Tôn đến tại am thất của ngài, ngài vui vẻ đón tiếp đức Phật, thỉnh đức Phật dùng cơm ngài nấu và như vậy ba ngày trôi qua. Ngày thứ tư, Thế Tôn nói: ‘Ông hết sức yếu ớt, làm sao ông sống với đồ ăn như thế này?’. Rồi đức Phật giảng về hạnh biết đủ và thuyết pháp cho ngài. Và từ quả Dự Lưu ngài chứng quả A-la-hán. Thế Tôn xác chứng quả vị cuả ngài và ra đi, ngài vẫn ở tại chỗ cũ, nhưng rồi bị đau vì tê liệt. Bậc Đạo Sư lại đến thăm và hỏi ngài về sức khỏe: |
|
435. ‘‘Vātarogābhinīto tvaṃ, viharaṃ kānane vane; Paviddhagocare lūkhe, kathaṃ bhikkhu karissasi’’. |
435. Bị bịnh gió chi phối,. Ông sống trong rừng sâu, Chỗ khất thực hạn chế, Thân gầy mòn ốm yếu. Tỷ-kheo sẽ làm gì, Với thân thể như vậy. |
435. “Trong khi sống ở trong khu rừng là cánh rừng rộng lớn, có chỗ khất thực bị hạn chế, khốn khó, này tỳ khưu, ngươi sẽ làm thế nào? |
436. ‘‘Pītisukhena vipulena, pharitvāna samussayaṃ; Lūkhampi abhisambhonto, viharissāmi kānane. |
436. Thân con được tràn ngập,. Với hỷ lạc tỏa rộng, Dầu có bị gầy ốm, Con sẽ sống trong rừng. |
436. Trong khi thấm nhuần thân xác với niềm hỷ lạc bao la, trong khi chịu đựng dầu là sự khốn khó, con sẽ sống ở cánh rừng rộng lớn.[11] |
437. ‘‘Bhāvento satta bojjhaṅge, indriyāni balāni ca; Jhānasokhummasampanno [jhānasukhumasampanno (syā. ka.)], viharissaṃ anāsavo. |
437. Tu tập Bảy giác chi,. Năm căn và Năm lực, Đầy đủ thiền tế nhị, Con sống, không lậu hoặc. |
437. Trong khi tu tập bảy chi phần đưa đến giác ngộ, các quyền, và các lực, đã đạt được sự tinh tế của thiền, con sẽ sống không có lậu hoặc. |
438. ‘‘Vippamuttaṃ kilesehi, suddhacittaṃ anāvilaṃ; Abhiṇhaṃ paccavekkhanto, viharissaṃ anāsavo. |
438. Thoát khỏi các kết sử,. Tâm tịnh, không uế nhiễm, Thường hằng, khéo quán sát, Con sống không lậu hoặc. |
438. Trong khi thường xuyên quán xét tâm trong sạch, đã được giải thoát khỏi các phiền não, không bị vẩn đục, con sẽ sống không có lậu hoặc. |
439. ‘‘Ajjhattañca bahiddhā ca, ye me vijjiṃsu āsavā; Sabbe asesā ucchinnā, na ca uppajjare puna. |
439. Mọi lậu hoặc nội ngoại,. Trước có mặt trong con, Tất cả bị chặt đứt, Thông dư, không khởi nữa. |
439. Các lậu hoặc nào của tôi đã được tìm thấy ở bên trong và bên ngoài, tất cả, không thiếu sót, đã được trừ tuyệt, và sẽ không sanh lên lại nữa.[12] |
440. ‘‘Pañcakkhandhā pariññātā, tiṭṭhanti chinnamūlakā; Dukkhakkhayo anuppatto, natthi dāni punabbhavo’’ti. |
440. Năm uẩn được liễu tri,. Chúng đứng, rễ chặt đứt, Khổ diệt đã đạt được, Nay không còn tái sanh. |
440. Năm uẩn đã được biết toàn diện, chúng tồn tại với gốc rễ đã bị cắt đứt, sự cạn kiệt của khổ đau đã được đạt đến, giờ đây không còn tái sanh nữa.” |
… Nhātakamunitthero…. |
|
Đại đức trưởng lão Nhātakamuni đã nói những lời kệ như thế. |
12. Brahmadattattheragāthā |
(CCXXI) Brahmadatta (Thera. 46) |
Kệ ngôn của trưởng lão Brahmadatta. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con vua nước Kosala, tên là Brahmadatta, ngài chứng kiến uy nghi của đức Phật nhân ngày lễ dâng cúng Jetavana, khởi lòng tin, xuất gia và sau một thời gian chứng sáu thắng trí với lòng tin và hiểu biết về nghĩa, bởi lòng tin và hiểu biết về Pháp. |
|
|
Một hôm ngài đi khất thực, một Bà-la-môn nhiếc mắng ngài, ngài im lặng nghe và tìếp tục đi, Bà-la-môn ấy lại chửi mắng ngài, và dân chúng phê bình sự im lặng của ngài; ngài giảng dạy cho dân chúng như sau: |
|
441. ‘‘Akkodhassa kuto kodho, dantassa samajīvino; Sammadaññā vimuttassa, upasantassa tādino. |
441. Từ đâu phẫn nộ khởi,. Với người không phẫn nộ, Với người được nhiếp phục, Sống nếp sống thăng bằng. Với vị trí giải thoát, Phật an tịnh như vậy. |
441. “Đối với vị không còn sự tức giận, đã được thuần phục, có cuộc sống bình lặng, đã được giải thoát nhờ vào trí tuệ chân chánh, an tịnh như thế ấy, do đâu có sự tức giận? |
442. ‘‘Tasseva tena pāpiyo, yo kuddhaṃ paṭikujjhati; Kuddhaṃ appaṭikujjhanto, saṅgāmaṃ jeti dujjayaṃ. |
442. Với ai bị chửi mắng,. Lên tiếng chửi mắng lại, Người ấy tệ ác hơn, Người đã chửi mắng trước. Với ai bị chửi mắng, Nhưng không chửi mắng lại, Người ấy được chiến thắng, Trên cả hai mặt trận. |
442. Đối với chính vị ấy, nếu nổi giận lại với kẻ đã bị nổi giận thì còn tồi tệ hơn kẻ ấy; trong khi không nổi giận lại với kẻ đã bị nổi giận, là người chiến thắng cuộc chiến khó thể chiến thắng. |
443. [saṃ. ni. 1.188, 250] ‘‘Ubhinnamatthaṃ carati, attano ca parassa ca; Paraṃ saṅkupitaṃ ñatvā, yo sato upasammati. |
443. Sở hành của người ấy,. Vừa lợi mình lợi người, Biết người khác phẫn nộ, Chánh niệm, tự lắng dịu. |
443. Sau khi biết được người khác đã bị nổi giận, người thực hành lợi ích cho cả hai, cho bản thân và cho người khác, là người có niệm, được an tịnh. |
444. [saṃ. ni. 1.188, 250] ‘‘Ubhinnaṃ tikicchantaṃ taṃ, attano ca parassa ca; Janā maññanti bāloti, ye dhammassa akovidā. |
444. Là thầy thuốc cả hai,. Cho mình và cho người, Quần chúng nghĩ là ngu, Không khéo hiểu Chánh Pháp. |
444. Vị ấy, trong khi điều trị cho cả hai, cho bản thân và cho người khác, đám đông không hiểu biết lý lẽ nghĩ về vị ấy rằng: ‘Là kẻ ngu.’ |
|
Rồi Bà-la-môn chửi mắng ấy nghe những lời này, cảm thấy ưu não và hoan hỷ rồi xin lỗi ngài. Được xuất gia với sự hướng dẫn của ngài, được dạy đề tài quán từ bi, như vậy ngài dạy cho phương pháp để đối trị phẫn nộ: |
445. Nếu sự tức giận khởi lên ở ngươi, ngươi hãy nghĩ đến ví dụ về cái cưa. Nếu tham ái về vị giác khởi lên, ngươi hãy nhớ đến ví dụ về thịt của con trai. |
445. ‘‘Uppajje te sace kodho, āvajja kakacūpamaṃ; Uppajje ce rase taṇhā, puttamaṃsūpamaṃ sara. |
445. Nếu phẫn nộ nổi lên,. Hãy nghĩ dụ cái cưa, Nếu tham vị khởi lên, Hãy nghĩ dụ thịt con. |
446. Nếu tâm của ngươi chạy theo các dục và các hữu, ngươi hãy tức thời khống chế bằng niệm, tựa như khống chế con thú hư ăn phá cây trồng.” |
446. ‘‘Sace dhāvati cittaṃ te, kāmesu ca bhavesu ca; Khippaṃ niggaṇha satiyā, kiṭṭhādaṃ viya duppasu’’nti; |
446. Nếu tâm ngươi chạy theo,. Theo dục, theo sanh hữu, Hãy gấp nắm với niệm, Như nắm con vật ác, Đi vào trong ruộng lúa. |
Đại đức trưởng lão Brahmadatta đã nói những lời kệ như thế. |
… Brahmadatto thero…. |
|
|
13. Sirimaṇḍattheragāthā |
(CCXXII) Sirimanda (Thera. 47) |
Kệ ngôn của trưởng lão Sirimanda. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sunsumàragira trong một gia đình Bà-la-môn. Khi được nghe Thế Tôn thuyết pháp ở rừng Bhesakalà, ngài khởi lòng tin và xuất gia. Một hôm, nhân ngày lễ trai giới, trong khi giới bổn Pàtimokkhà đang được đọc, đến phần cuối phần giới thiệu nói về một lỗi bị phạm được nhẹ đi nếu phát lộ sám hối, ngài nghĩ đến lợi ích phát lộ sám hối các lỗi đã được giấu đi, và do vậy ngài phấn khởi hoan hỷ nói lớn tiếng: ‘Ôi, thật là hoàn toàn trong sạch, giới luật của bậc Đạo Sư!’. Rồi phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Ôn lại con đường đã trải qua, với tâm phấn khởi, ngài dạy các vị đồng Phạm hạnh: |
|
447. [udā. 45; cūḷava. 385; pari. 339] ‘‘Channamativassati, vivaṭaṃ nātivassati; Tasmā channaṃ vivaretha, evaṃ taṃ nātivassati. |
447. Mưa rất là nặng hạt,. Trên tội được che giấu. Mưa không có nặng nề, Trên tội được phát lộ, Đâu có phát lộ tội, Như vậy, mưa không nặng. |
447. “Nước mưa bị văng lại ở vật đã được che đậy, không văng lại ở vật đã được mở ra. Vì thế, hãy mở ra vật đã được che đậy, như vậy, ở vật ấy nước mưa không văng lại. |
448. [saṃ. ni. 1.66; netti. 18] ‘‘Maccunābbhahato loko, jarāya parivārito; Taṇhāsallena otiṇṇo, icchādhūpāyito sadā. |
448. Đời bị chết áp đảo,. Bị giải tỏa, bao vây, Bị mũi tên ái đâm, Thường bị dục huân tập. |
448. Thế gian bị hành hạ bởi sự chết, bị vây quanh bởi sự già, bị áp chế bởi mũi tên tham ái, luôn luôn bị mê mờ bởi ước muốn. |
449. ‘‘Maccunābbhahato loko, parikkhitto jarāya ca; Haññati niccamattāṇo, pattadaṇḍova takkaro. |
449. Đời bị chết ấp đảo,. Và bị già bao vây, Thường bị hại, không yên, Như cướp với gậy dao. |
449. Thế gian bị hành hạ bởi sự chết, bị bao vây bởi sự già, bị hãm hại thường xuyên, không nơi nương tựa, tựa như kẻ trộm nhận chịu hành phạt. |
450. ‘‘Āgacchantaggikhandhāva, maccu byādhi jarā tayo; Paccuggantuṃ balaṃ natthi, javo natthi palāyituṃ. |
450. Chúng đến như đống lửa,. Cả ba, chết bệnh già, Không sức nào địch nổi, Không nhanh nào chạy thoát. |
450. Sự chết, bệnh hoạn, sự già, tựa như ba khối lửa tiến đến gần. Không có sức lực để đối đầu, không có tốc lực để tẩu thoát. |
451. ‘‘Amoghaṃ divasaṃ kayirā, appena bahukena vā; |
451. Chớ để ngày trống rỗng,. Hãy làm ít hoặc nhiều, Đêm càng bị bỏ phí, Mạng sống càng rút ngắn. |
451. Nên làm cho ngày không bị trống rỗng, dầu ít hoặc nhiều. Mỗi một đêm mà kẻ ấy buông trôi, mạng sống của kẻ ấy bị bớt đi chừng ấy. |
Yaṃ yaṃ vijahate [virahate (sī. pī.), vivahate (syā.)] rattiṃ, tadūnaṃ tassa jīvitaṃ. |
|
|
452. ‘‘Carato tiṭṭhato vāpi, āsīnasayanassa vā; Upeti carimā ratti, na te kālo pamajjitu’’nti. |
452. Vậy hoặc đi hay đứng,. Hoặc ngồi hay nằm xuống, Đêm cuối đi đến gần, Ngươi không thời phóng dật. |
452. Đêm cuối cùng tiến đến gần ngươi trong lúc ngươi đang đi, đang đứng, thậm chí đang ngồi, hoặc đang nằm; đối với ngươi không phải là thời gian để xao lãng.” |
… Sirimaṇḍo [sirimando (sī.)] thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Sirimanda đã nói những lời kệ như thế. |
14. Sabbakāmittheragāthā |
(CCXXIII) Sabbhakàma (Thera. 47) |
Kệ ngôn của trưởng lão Sabbakāmi. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, sau khi đức Phật nhập diệt, ngài sanh ở Vesàli, thuộc gia đình quý tộc và được đặt tên là Sabbhakàma. Khi đến tuổi trưởng thành, thuận theo chí hướng xuất ly, ngài xuất gia dưới sự hướng dẫn của Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất). Trong khi đi học tập, ngài trở về Vesàli với bậc y chỉ sư của mình và về thăm gia đình. Vợ ngài lúc trước, buồn khổ, gầy mòn, áo xiêm không săn sóc, nước mắt chạy quanh, chào ngài và đứng một bên. Thấy vợ cứ như vậy, lòng thương hại khởi lên, và quên mất chí hướng xuất trần, ngài để cho dục vọng nổi lên. Như con ngựa khéo luyện tập bị roi đánh, ưu não khởi lên và ngài đi đến nghĩa địa để quán bất tịnh. Thiền định được chứng đạt, thiền quán được triển khai, ngài chứng quả A-la-hán. Rồi nhạc phụ của ngài dắt vợ cũ của ngài đến, trang điểm thật đẹp mắt, và với một số tùy tùng đông đảo, đi đến tinh xá để gặp ngài và kéo ngài trở lui với đời sống gia đình; nhưng ngài tuyên bố với mọi người là ngài đã từ bỏ các dục vọng như vậy, với những bài kệ như sau: |
|
453. ‘‘Dvipādakoyaṃ asuci, duggandho parihīrati [pariharati (ka.)]; Nānākuṇapaparipūro, vissavanto tato tato. |
453. Con vật hai chân này,. Bất tịnh và hôi thối, Đầy các loại tử thi, Từ đấy, nước rỉ chảy. |
453. “Vật có hai chân này, không trong sạch, có mùi hôi, được chứa đầy vật ghê tởm các loại, đang rỉ ra từ chỗ này chỗ nọ, lại được nâng niu. |
454. ‘‘Migaṃ nilīnaṃ kūṭena, baḷiseneva ambujaṃ; Vānaraṃ viya lepena, bādhayanti puthujjanaṃ. |
454. Nai trốn, dùng bẫy sập,. Với cá dùng câu móc, Với khỉ, dùng hầm hố, Phàm phu bị bắt vậy. |
454. Chúng nắm bắt kẻ phàm phu, tựa như (người thợ săn đánh bắt) con nai đang lẩn trốn bằng bẫy sập, tựa như con cá bằng lưỡi câu, tựa như con khỉ bằng chất dính. |
455. ‘‘Rūpā saddā rasā gandhā, phoṭṭhabbā ca manoramā; Pañca kāmaguṇā ete, itthirūpasmi dissare. |
455. Sắc, tiếng, vị, hương, xúc,. Khả ái và thích ý, Năm dục trưởng dưỡng này, Được tiếng trong nữ sắc. |
455. Các sắc, các thinh, các vị, các hương, và các xúc làm thích ý, năm loại dục này được thấy ở hình thể người nữ. |
456. ‘‘Ye etā upasevanti, rattacittā puthujjanā; Vaḍḍhenti kaṭasiṃ ghoraṃ, ācinanti punabbhavaṃ. |
456. Phàm phu tâm say đắm,. Chạy theo hưởng nữ sắc, Tăng nghĩa địa hãi hùng, Chất chứa sự tái sanh. |
456. Những kẻ phàm phu nào, có tâm bị luyến ái, gần gũi các người nữ, (những kẻ ấy) làm phát triển cái nghĩa địa ghê rợn; chúng tích lũy việc tái sanh. |
457. ‘‘Yo cetā parivajjeti, sappasseva padā siro; Somaṃ visattikaṃ loke, sato samativattati. |
457. Ai tránh né nữ sắc,. Như chân tránh đầu rắn, Chánh niệm, vượt qua được, Kẻ đầu độc thế giới. |
457. Và vị nào tránh xa các người nữ, tựa như tránh xa bàn chân khỏi đầu của con rắn, vị ấy, có niệm, vượt qua sự quyến luyến này ở thế gian. |
458. ‘‘Kāmesvādīnavaṃ disvā, nekkhammaṃ daṭṭhu khemato; Nissaṭo sabbakāmehi, patto me āsavakkhayo’’ti. |
458. Thấy nguy hiểm trong dục,. An ổn trong viễn ly, Thoát khỏi tất cả dục, Ta đạt lậu hoặc tận. |
458. Sau khi nhìn thấy sự bất lợi của các dục, sau khi nhận thấy sự xuất ly là an toàn, được thoát ra khỏi tất cả các dục, tôi đã đạt được sự cạn kiệt của các lậu hoặc.” |
… Sabbakāmitthero…. Chakkanipāto niṭṭhito. |
|
Đại đức trưởng lão Sabbakāmi đã nói những lời kệ như thế. |
Tatruddānaṃ – |
|
TÓM LƯỢC NHÓM NÀY |
Uruveḷakassapo ca, thero tekicchakāri ca; |
|
“Vị Uruvelakassapa và trưởng lão Tekicchakāri, vị Mahānāga, và vị Kulla, vị Māluṅkya, vị Sappadāsaka, vị Katiyāna, vị Migajāla, vị Jenta, vị có tên Sumana, vị Nhātamuni, vị Brahmadatta, vị Sirimanda, và vị Sabbakāmi, có tám mươi bốn câu kệ và ở đây là mười bốn vị trưởng lão.” |
Mahānāgo ca kullo ca, mālukyo [māluto (sī. ka.), māluṅkyo (syā.)] sappadāsako. |
|
Nhóm Sáu được chấm dứt. |
Kātiyāno migajālo, jento sumanasavhayo; |
|
|
Nhātamuni brahmadatto, sirimaṇḍo sabbakāmī ca; |
|
|
Gāthāyo caturāsīti, therā cettha catuddasāti. |
|
|