4. Catukanipāto

Chương IV – Phẩm Bốn Kệ

4. Nhóm bốn

Tipitaka.org Việt dịch: HT. Thích Minh Châu Việt dịch: TK. Indacanda
1.  Nāgasamālattheragāthā (CLXXXVI) Nàgasamàla (Thera. 33) Kệ ngôn của trưởng lão Nāgasamāla.
  Sanh trong thời đức Phật hiện tại, trong gia đình hoàng tộc Thích-ca, ngài quán sát tánh vô thường của sự vật và triển khai thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Ngài chứng minh chánh trí của ngài dựa trên kinh nghiệm riêng của ngài trong những bài kệ này:  
267. ‘‘Alaṅkatā suvasanā, mālinī candanussadā; Majjhe mahāpathe nārī, turiye naccati naṭṭakī. 267. Trang điểm, mặc áo đẹp,. Đeo vòng hoa, thơm nức, Mùi thơm gỗ chiên đàn, Giữa đám đông, đường lớn, Một vũ nữ đang múa, Múa lượn theo nhạc khí. 267. “Được trang điểm, có y phục đẹp, có vòng hoa, có bôi trầm hương, một người nữ, là vũ công, nhảy múa theo tiếng nhạc ở giữa đường lớn.
268. ‘‘Piṇḍikāya paviṭṭhohaṃ, gacchanto naṃ udikkhisaṃ; Alaṅkataṃ suvasanaṃ, maccupāsaṃva oḍḍitaṃ. 268. Ta vào thành, khất thực,. Đi ngang, ta thấy nàng Trang điểm, mặc áo đẹp, Gieo bẫy mồi thần chết. 268. Tôi đã đi vào thành để khất thực. Trong khi đi, tôi đã nhìn thấy cô ấy, được trang điểm, có y phục đẹp, tựa như cái bẫy sập của Thần Chết đã được giăng lên.
269. ‘‘Tato me manasīkāro, yoniso udapajjatha; Ādīnavo pāturahu, nibbidā samatiṭṭhatha [sampatiṭṭhatha (ka.)]. 269. Rồi ta tự tác ý,. Như lý khởi tư duy, Các hiểm nguy hiển lộ, Nhàm chán, ta an trú. 269. Do đó, sự tác ý theo đúng đường lối đã khởi lên ở tôi, điều bất lợi đã hiện rõ, sự nhàm chán đã được thiết lập.
270. ‘‘Tato cittaṃ vimucci me, passa dhammasudhammataṃ; Tisso vijjā anuppattā, kataṃ buddhassa sāsana’’nti. 270. Và tâm ta giải thoát,. Thấy pháp nhĩ là vậy, Ba minh chứng đạt được, Lời Phật dạy làm xong. 270. Do đó, tâm của tôi đã được giải thoát; hãy nhìn xem bản chất tốt đẹp của Giáo Pháp. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.”
… Nāgasamālo thero….   Đại đức trưởng lão Nāgasamāla đã nói những lời kệ như thế.
2. Bhaguttheragāthā (CLXXXVII) Bhagu (Thera. 33) Kệ ngôn của trưởng lão Bhagu.
  Sanh trong thời đức Phật hiện tại, trong một gia đình dòng họ Sakya (Thích Ca), ngài xuất gia với Anuruddha và Kimbila, và sống gần làng Bàlakalona. Một ngày kia, khi ngài từ tinh xá ra ngoài để đối trị bịnh buồn ngủ, ngài té khi ngài bước lên đường kinh hành. Xem đấy để tự khích lệ, ngài tự chế ngự và phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Từ đấy, sống thọ hưởng an lạc giải thoát Niết-bàn. Thế Tôn đến, tán thán cô độc của ngài và hỏi: ‘Này Tỷ-kheo, sao cho đến nay, Thầy vẫn còn tinh tấn?’. Ngài trả lời, với những bài kệ như sau:  
271. ‘‘Ahaṃ middhena pakato, vihārā upanikkhamiṃ; Caṅkamaṃ abhiruhanto, tattheva papatiṃ chamā. 271. Bị buồn ngủ chi phối,. Ta ra khỏi tinh xá, Lại lên đường kinh hành, Tại đấy té xuống đất. 271. “Bị tác động bởi cơn buồn ngủ, tôi đã đi ra khỏi trú xá. Trong khi đang bước lên đường kinh hành, ngay tại chỗ ấy, tôi đã bị ngã trên mặt đất.
272. ‘‘Gattāni parimajjitvā, punapāruyha caṅkamaṃ; Caṅkame caṅkamiṃ sohaṃ, ajjhattaṃ susamāhito. 272. Xoa bóp cả chân tay,. Lại lên đường kinh hành, Qua lại đường kinh hành, Nội tâm ta định tỉnh. 272. Sau khi phủi khắp tay chân, rồi lại bước lên đường kinh hành, tôi đã đi kinh hành ở đường kinh hành, tôi đây đã khéo được định tĩnh nội tâm.
273. ‘‘Tato me manasīkāro, yoniso udapajjatha; Ādīnavo pāturahu, nibbidā samatiṭṭhatha. 273. Rồi ta tự tác ý,. Như lý khởi tư duy, Các hiểm nguy hiển lộ, Nhàm chán ta an trú. 273. Do đó, sự tác ý theo đúng đường lối đã khởi lên ở tôi, điều bất lợi đã hiện rõ, sự nhàm chán đã được thiết lập.
274. ‘‘Tato cittaṃ vimucci me, passa dhammasudhammataṃ; Tisso vijjā anuppattā, kataṃ buddhassa sāsana’’nti. 274. Và tâm ta giải thoát. Thấy pháp nhĩ là vậy, Ba minh chứng đạt được, Lời Phật dạy làm xong. 274. Do đó, tâm của tôi đã được giải thoát; hãy nhìn xem bản chất tốt đẹp của Giáo Pháp. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.”[1]
… Bhagutthero….   Đại đức trưởng lão Bhagu đã nói những lời kệ như thế.
3. Sabhiyattheragāthā (CLXXXVIII) Sabhiya (Thera. 33) Kệ ngôn của trưởng lão Sabhiya.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong gia đình con gái một hoàng tộc, người con gái này được cha mẹ giao cho một vị du sĩ hướng dẫn để nàng có thể học giáo lý và nếp sống tu hành. Sabhiya khi lớn lên cũng trở thành một du sĩ, học hỏi nhiều kinh kệ tụng, trở thành một nhà lý luận sắc bén, không ai sánh nổi. Dựng am bên cửa thành, ngài dạy học cho con cháu các hoàng tộc, ngài nghĩ ra hai mươi câu hỏi để ngài hỏi các vị tu sĩ và Bà-la-môn. Trong khi Sabhiyasutta, có ghi là một Bà-la-môn, từ cõi Tịnh cư thiên, đã nghĩ ra các câu hỏi ấy. Thế Tôn khi đi đến Vương Xá, tinh xá Trúc Lâm, đã trả lời các câu hỏi và Sabhiya khởi lòng tin, xuất gia và chứng quả A-la-hán.  
  Khi ngài khuyên dạy các Tỷ-kheo đã theo phe Devadatta, ngài nói lên những bài kệ như sau:  
275. [dha. pa. 6 dhammapadepi] ‘‘Pare ca na vijānanti, mayamettha yamāmase; Ye ca tattha vijānanti, tato sammanti medhagā. 274. Người khác không rõ biết, Ta ở đây một thời, Tại đây, bậc có trí, Biết vậy sống tịnh chỉ. 275. “Và những người khác không nhận thức được, chúng ta ở đây đang đến gần cái chết. Còn những người nào nhận thức được điều ấy, nhờ thế các sự tranh chấp được chấm dứt.[2]
276. ‘‘Yadā ca avijānantā, iriyantyamarā viya; Vijānanti ca ye dhammaṃ, āturesu anāturā. 275. Khi họ không rõ biết,. Họ làm như bất tử; Khi họ rõ biết pháp, Giữa bệnh, họ không bệnh. 276. Và khi những kẻ không nhận thức được hành xử như là những người bất tử, thì những người nào nhận thức được Giáo Pháp là những người không bệnh trong số những người bệnh.
277. ‘‘Yaṃ kiñci sithilaṃ kammaṃ, saṃkiliṭṭhañca yaṃ vataṃ; Saṅkassaraṃ brahmacariyaṃ, na taṃ hoti mahapphalaṃ. 276. Ai sở hành phóng đãng,. Cấm giới bị uế nhiễm, Phạm hạnh đáng nghi ngờ, Vị ấy chứng quả lớn, 277. Bất cứ hành động nào là lơi lỏng, và sự hành trì nào bị ô nhiễm, việc hành Phạm hạnh (nào) gây sự nghi ngờ, việc ấy không có quả báu lớn lao.
278. ‘‘Yassa sabrahmacārīsu, gāravo nūpalabbhati; Ārakā hoti saddhammā, nabhaṃ puthaviyā yathā’’ti. 277. Sống giữa đồng Phạm hạnh,. Không được trọng, tôn kính, Vị ấy xa Diệu pháp, Như trời xa đất liền. 278. Kẻ nào không có sự kính trọng đối với các vị đồng Phạm hạnh, (kẻ ấy) bị cách xa khỏi Chánh Pháp, giống như bầu trời so với trái đất.”
…  Sabhiyo thero….   Đại đức trưởng lão Sabhiya đã nói những lời kệ như thế.
4. Nandakattheragāthā (CLXXXIX) Nandaka (Thera. 33) Kệ ngôn của trưởng lão Nandaka.
  Trong thời Đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình có gia tộc, và được gọi là Nandaka. Ngài xuất gia, sau khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, và phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Sau đó khi đang sống trong an lạc giải thoát, ngài được bậc Đạo Sư dạy thuyết pháp cho các Tỷ-kheo-ni và khiến cho năm trăm vị chứng quả A-la-hán. Đức Phật ấn chứng cho ngài là vị khuyến giáo Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni đệ nhất.  
  Rồi một ngày kia, khi đi khất thực ở Sàvatthi, một nữ nhân trước kia lập gia đình với ngài, thấy ngài và cười lớn tiếng với một tâm bất chánh. Vị Trưởng lão thấy hành động của nàng liền dạy cho nàng về thân thể bất tịnh, với những bài kệ sau:  
279. ‘‘Dhiratthu pūre duggandhe, mārapakkhe avassute; Navasotāni te kāye, yāni sandanti sabbadā. 278. Gớm thay, vật hôi thối!. Đầy sắc mùi hôi tanh, Vật sở hữu của ma, Vì chảy nhiều dòng nước, Thân này có chín dòng, Luôn luôn được tuôn chảy. 279. “Thật ghê tởm những thân xác, có mùi khó chịu, thuộc phe cánh Ma Vương, bị rò rỉ, ở thân thể của nàng có chín dòng chảy luôn luôn tuôn trào.
280. ‘‘Mā purāṇaṃ amaññittho, māsādesi tathāgate; Saggepi te na rajjanti, kimaṅgaṃ pana [kimaṅga pana (sī.)] mānuse. 279. Chớ khinh miệt cổ nhân!. Chớ xúc phạm Như Lai, Họ không tham thiên giới, Còn nói gì cõi người. 280. Chớ nghĩ ngợi về các thân xác, chớ công kích các đức Như Lai. Ngay cả cõi trời, các vị cũng không bị luyến ái, vậy thì có điều gì ở loài người?
281. ‘‘Ye ca kho bālā dummedhā, dummantī mohapārutā; Tādisā tattha rajjanti, mārakhittamhi bandhane. 280. Kẻ ngu, thiếu trí tuệ,. Tà ý, si bao phủ, Kẻ ấy đầy tham đắm, Bị ma quăng dây trói. 281. Còn những kẻ nào ngu dốt, kém thông minh, có trí tồi, bị mê muội bao trùm, những kẻ như thế ấy bị luyến ái ở nơi ấy, ở sự trói buộc đã được Ma Vương bày ra.
282. ‘‘Yesaṃ rāgo ca doso ca, avijjā ca virājitā; Tādī tattha na rajjanti, chinnasuttā abandhanā’’ti. 281. Những ai đã thoát ly,. Tham, sân và vô minh, Đây họ không tham đắm, Dây cắt, không trói buộc. 282. Những người nào có tham ái, sân hận, và vô minh đã được xa lìa, những người như thế ấy không bị luyến ái ở nơi ấy, có các sợi dây đã được cắt đứt, không còn sự trói buộc.”
… Nandako thero….   Đại đức trưởng lão Nandaka đã nói những lời kệ như thế.
5. Jambukattheragāthā (CXC) Jambuka (Thera. 34) Kệ ngôn của trưởng lão Jambuka.
  Trong thời Đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình rất nghèo. Như trong đời trước, ngài dùng phân làm đồ ăn, và rời bỏ gia đình, làm vị tu khổ hạnh. Thực hành nhiều khổ hạnh, ăn từng hạt đậu một, được chấm trên đầu ngọn rơm. Ngài đã năm lăm tuổi khi đức Phật thấy ngài căn cơ thuần thục, như ngọn đèn đặt trong cài ghè, đi đến ngài, thuyết pháp và hóa độ cho ngài. Rồi Thế Tôn gọi: ‘Hãy đến, này Tỷ-kheo’ và cho ngài xuất gia. Rồi Jambuka phát triển thiền quán và Thế Tôn ấn chứng ngài chứng quả A-la-hán. Đây chỉ là sơ lược, trong đoạn sớ giải các câu kệ của Dhammapàda, câu chuyện được giải thích rộng rãi từ nơi câu; ‘Ăn từng hạt đậu một, với ngọn rơm chấm đậu. Khi đến giờ mệnh chung, ngài nói lên rằng: dầu một lần sống theo tà hạnh, nhưng nếu dựa vào đức Phật tối thượng, ngài cũng có thể chứng quả như các đệ tử khác. Ngài nói lên những bài kệ:  
283. ‘‘Pañcapaññāsavassāni, rajojallamadhārayiṃ; Bhuñjanto māsikaṃ bhattaṃ, kesamassuṃ alocayiṃ. 282. Trải năm mươi lăm năm,. Thân đầy những bụi bặm, Ăn cơm tháng một lần, Tóc râu ta nhổ sạch. 283. “Trong năm mươi lăm năm, tôi đã mang bụi bặm cáu ghét. Trong khi thọ dụng bữa ăn mỗi tháng một lần, tôi đã nhỏ bỏ râu và tóc.
284. ‘‘Ekapādena aṭṭhāsiṃ, āsanaṃ parivajjayiṃ; Sukkhagūthāni ca khādiṃ, uddesañca na sādiyiṃ. 283. Ta đứng chỉ một chân,. Ta không dùng giường nằm, Ta ăn phân phơi khô, Ta không nhận lời mời. 284. Tôi đã đứng một chân, tôi đã xa lánh việc ngồi, và tôi đã nhai các cục phân bò khô, và tôi đã không chấp nhận lời mời thỉnh.
285. ‘‘Etādisaṃ karitvāna, bahuṃ duggatigāminaṃ; Vuyhamāno mahoghena, buddhaṃ saraṇamāgamaṃ. 284. Sở hành ta nhiều vậy,. Dẫn ta đến ác thú, Bị nước lớn cuốn trôi, Cho đến khi quy Phật. 285. Sau khi thực hành nhiều nghiệp có khả năng dẫn đến khổ cảnh tương tự như thế ấy, trong khi đang bị cuốn trôi bởi dòng nước lũ, tôi đã đi đến nương nhờ đức Phật.
286. ‘‘Saraṇagamanaṃ passa, passa dhammasudhammataṃ; Tisso vijjā anuppattā, kataṃ buddhassa sāsana’’nti. 285. Hãy nhìn Phật ta quy. Hãy nhìn Pháp, pháp nhĩ Ba minh ta đạt được Lời Phật dạy làm xong 286. Hãy nhìn xem sự đi đến nương nhờ, hãy nhìn xem bản chất tốt đẹp của Giáo Pháp. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.”
… Jambuko thero….   Đại đức trưởng lão Jambuka đã nói những lời kệ như thế.
6. Senakattheragāthā (CXCI) Senaka (Thera. 34) Kệ ngôn của trưởng lão Senaka.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình, con trai người chị của Trưởng lão Kassapa ở Uruvela, và được đặt tên là Senaka. Khi học về văn hóa Vệ-đà Bà-la-môn, ngài ở với gia đình. Trong thời ấy dân chúng tổ chức hàng năm vào tháng Thaggumà (tháng ba) một lễ quán đảnh một bến nước, lễ ấy được gọi là Gayà melà (hay ngày trai giới Gayà).  
  Thế Tôn vì lòng thương tưởng đến những người có thể giáo hóa, ở lại gần bờ sông. Và khi quần chúng tụ họp lại, Senaka cũng đến, nghe bậc Đạo Sư thuyết giảng được cảm hóa xuất gia và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Sau đó, suy tuởng đến sự thắng trận của mình, ngài cảm thấy hân hoan, và ứng khẩu nói lên những bài kệ này  
287. ‘‘Svāgataṃ vata me āsi, gayāyaṃ gayaphagguyā; Yaṃ addasāsiṃ sambuddhaṃ, desentaṃ dhammamuttamaṃ. 286. Thật tốt lành cho ta,. Khi ở thành Gayà, Trong tháng lễ mùa xuân, Tháng tên Phagguna, Ta thấy bậc Chánh Giác, Thuyết Chánh pháp tối thượng. 287. “Quả thật đã có điều tốt lành cho tôi tại Gayā, vào kỳ lễ hội Phaggu ở Gayā, là việc tôi đã nhìn thấy đấng Toàn Giác đang thuyết giảng Giáo Pháp tối thượng.
288. ‘‘Mahappabhaṃ gaṇācariyaṃ, aggapattaṃ vināyakaṃ; Sadevakassa lokassa, jinaṃ atuladassanaṃ. 287. Bậc có hào quang lớn,. Là Đạo Sư hội chúng, Đạt được vị tối thắng, Bậc lãnh đạo nhiếp chúng, Chiến thắng giới Trời, Người, Bậc thấy khó cân lường. 288. Ngài là bậc Lãnh Đạo có hào quang vĩ đại, bậc thầy có đồ chúng, đã đạt đến vị thế tối cao, là đấng Chiến Thắng của thế gian luôn cả chư Thiên, có sự nhận thức không thể sánh bằng.
289. ‘‘Mahānāgaṃ mahāvīraṃ, mahājutimanāsavaṃ; Sabbāsavaparikkhīṇaṃ, satthāramakutobhayaṃ. 288. Đại long tượng, đại hùng,. Đại quang minh, vô lậu, Mọi lậu hoặc đoạn tận, Đạo Sư, không sợ hãi. 289. Là bậc Long Tượng, đấng Đại Hùng, có sự chói sáng vĩ đại, không còn lậu hoặc, có sự đoạn tận tất cả các lậu hoặc, bậc Đạo Sư, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu.
290. ‘‘Cirasaṃkiliṭṭhaṃ vata maṃ, diṭṭhisandānabandhitaṃ [sandhitaṃ (sī. syā.), sanditaṃ (pī. sī. aṭṭha.)]; Vimocayi so bhagavā, sabbaganthehi senaka’’nti. 289. Lâu nay ta uế nhiễm,. Bị tà kiến trói buộc, Nay chính Thế Tôn ấy, Giải thoát Senaka, Thoát khỏi mọi buộc ràng, Được tự tại , giải thoát. 290. Quả vậy, đức Thế Tôn ấy đã giúp cho tôi, Senaka, kẻ bị ô nhiễm dài lâu, bị trói buộc bởi xiềng xích tà kiến, được thoát khỏi tất cả các mối buộc thắt.”
… Senako thero….   Đại đức trưởng lão Senaka đã nói những lời kệ như thế.
7. Sambhūtattheragāthā (CXCII) Sambhùta (Thera. 34) Kệ ngôn của trưởng lão Sambhūta.
  Trong thời Đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình có giai cấp, và sau khi bậc Đạo Sư tịch diệt, ngài được Ananda giáo hóa, xuất gia và chứng quả A-la-hán. Ngài sống trong an lạc giải thoát, cho đến khi một trăm năm sau khi đức Phật nhập diệt, các Tỷ-kheo Vajjì đề xướng mười tà pháp bị Trưởng lão Niyasa và các Tỷ-kheo Kàlanndaka chống lại và một kỳ kiết tập được tổ chức với bảy trăm vị A-la-hán. Ngài Sambhùta, bị xúc động bởi hành động xuyên tạc Pháp và Luật, nói lên những bài kệ này và tuyên bố chánh trí của ngài:  
291. ‘‘Yo dandhakāle tarati, taraṇīye ca dandhaye; Ayoni [ayoniso (syā.)] saṃvidhānena, bālo dukkhaṃ nigacchati. 290. Ai khi phải từ từ. Lại lội qua gấp gấp, Ai khi phải lội gấp, Lại từ từ lội qua, Kẻ ngu thiếu chánh lý, Đi đến cảnh khổ đau. 291. “Kẻ nào vội vã vào thời điểm chậm rãi, và chậm rãi ở việc cần vội vã, do sự sắp xếp không theo đúng đường lối, kẻ ngu lâm cảnh khổ đau.
292. ‘‘Tassatthā parihāyanti, kāḷapakkheva candimā; Āyasakyañca [āyasasyañca (sī.)] pappoti, mittehi ca virujjhati. 291. Lợi ích bị tổn giảm,. Như trăng vào thời đen, Gặp phải sự ô nhục, Chống đối các bạn bè. 292. Các điều tốt đẹp của kẻ ấy bị suy giảm, tựa như mặt trăng ở hạ huyền. Kẻ ấy nhận chịu sự ô nhục và bị xích mích với các bạn bè.
293. ‘‘Yo dandhakāle dandheti, taraṇīye ca tāraye; Yoniso saṃvidhānena, sukhaṃ pappoti paṇḍito. 292. Ai khi phải từ từ,. Lội qua rất từ từ, Ai khi phải lội gấp, Lội qua thật gấp gáp, Kẻ trí có chánh lý, Đi đến cảnh an lạc. 293. Người nào chậm rãi vào thời điểm chậm rãi, và vội vã ở việc cần vội vã, do sự sắp xếp theo đúng đường lối, người sáng suốt đạt được sự an lạc.
294. ‘‘Tassatthā paripūrenti, sukkapakkheva candimā; Yaso kittiñca pappoti, mittehi na virujjhatī’’ti. 293. Lợi ích được viên mãn,. Như trăng vào thời sáng, Được danh tiếng vinh dự, Không chống đối bạn bè. 294. Các điều tốt đẹp của người ấy được làm tròn đầy, tựa như mặt trăng ở thượng huyền. Người ấy đạt được danh vọng và tiếng thơm, không bị xích mích với các bạn bè.”
…  Sambhūto thero….   Đại đức trưởng lão Sambhūta đã nói những lời kệ như thế.
8. Rāhulattheragāthā (CXCIII) Ràhula (Thera. 35) Kệ ngôn của trưởng lão Rāhula.
  Ngài là con của đức Phật và công chúa Yasodhàra, và được nuôi dưỡng với các hoàng tử khác. Trường hợp ngài xuất gia đã được ghi trong tập Khandhaka. Nhờ những lời dạy trong nhiều bài kinh, trí tuệ ngài thuần thục và phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Suy tư đến sự thắng trận của mình, ngài nói lên chánh trí:  
295. ‘‘Ubhayeneva sampanno, rāhulabhaddoti maṃ vidū; Yañcamhi putto buddhassa, yañca dhammesu cakkhumā. 294. Nhờ ta được đầy đủ,. Hai đức tánh tốt đẹp, Được bạn có trí gọi, ‘Ra-hu-la may mắn’ Ta là con đức Phật, Ta lại được Pháp nhãn. 295. “Họ đã nhận biết về tôi rằng: ‘Rāhula may mắn,’ được thành tựu luôn cả hai điều, bởi vì tôi là người con trai của đức Phật, và bởi vì tôi có sự nhận thức về các pháp.
296. ‘‘Yañca me āsavā khīṇā, yañca natthi punabbhavo; Arahā dakkhiṇeyyomhi, tevijjo amataddaso. 295. Các lậu hoặc ta đoạn,. Không còn có tái sanh, Ta là bậc La-hán, Đáng được sự cúng dường. Ba minh ta đạt được, Thấy đuợc giới bất tử. 296. Bởi vì các lậu hoặc của tôi đã được cạn kiệt, và bởi vì không còn tái sanh nữa, tôi là vị A-la-hán, bậc xứng đáng cúng dường, có ba Minh, đã nhìn thấy sự Bất Tử.
297. ‘‘Kāmandhā jālapacchannā, taṇhāchādanachāditā; Pamattabandhunā baddhā, macchāva kumināmukhe. 296. Bị dục làm mù quáng,. Bị lưới tà bao trùm, Khát ái làm màn che, Bao trùm che phủ kín. Do phóng dật trói buộc, Như cá mắc mắt lưới. 297. (Chúng sanh) bị mù quáng bởi dục vọng, bị bao trùm bởi tấm lưới, bị che đậy bởi tấm choàng tham ái, bị trói buộc cùng với thân quyến bị lơ đễnh, tựa như những con cá ở nơi cửa miệng của tấm lưới.
298. ‘‘Taṃ kāmaṃ ahamujjhitvā, chetvā mārassa bandhanaṃ; Samūlaṃ taṇhamabbuyha, sītibhūtosmi nibbuto’’ti. 297. Ta vượt qua dục ấy,. Cắt đứt ma trói buộc, Nhổ lên gốc khát ái, Ta mát lạnh tịch tịnh. 298. Sau khi buông bỏ dục vọng ấy, sau khi cắt đứt sự trói buộc của Ma Vương, sau khi nhổ lên tham ái luôn cả gốc rễ, tôi trở nên có trạng thái mát mẻ, Niết Bàn.”
…  Rāhulo thero….   Đại đức trưởng lão Rāhula đã nói những lời kệ như thế.
9. Candanattheragāthā (CXCIV) Candana (Thera. 35) Kệ ngôn của trưởng lão Candana.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài tái sanh trong một gia đình giàu có và đặt tên là Candana, ngài sống một đời sống gia đình cho đến khi ngài được nghe bậc Đạo Sư thuyết pháp. Và chứng quả Dự Lưu. Khi ngài sanh được một người con, ngài xuất gia, chọn lựa một đề tài thiền quán và sống ở trong rừng. Đi đến Sàvatthi để yết kiến bậc Đạo Sư, ngài ở trong một bãi tha ma, vợ ngài nghe tin ngài đến, liền trang điểm, đem con theo, nghĩ rằng: ‘Với nhan sắc nàng có thể khiến ngài từ bỏ xuất gia’. Ngài thấy nàng từ xa đi đến nghĩ cách để thoát khỏi bị nàng cám dỗ, phát triển thiền quán và chứng được sáu thắng trí. Ngài thuyết giảng cho nàng, khiến nàng qui y và thọ các giới. Rồi ngài trở lui ở chỗ cũ của ngài. Khi các Tỷ-kheo bạn hỏi ngài: ‘Các căn của bạn chói sáng, bạn đã chứng sự thực gì?’. Ngài nói lên quả chứng của mình, và với những bài kệ này, chứng minh chánh trí của mình.  
299. ‘‘Jātarūpena sañchannā [pacchannā (sī.)], dāsīgaṇapurakkhatā; Aṅkena puttamādāya, bhariyā maṃ upāgami. 298. Với vàng che phủ kín,. Chúng nữ tỳ vây quanh, Mang theo đứa con thơ, Người vợ đến với ta. 299. “Được che kín bằng vàng bạc, dẫn đầu đám nữ tỳ, ẵm đứa con trai ở trong lòng, người vợ đã đi đến gần tôi.
300. ‘‘Tañca disvāna āyantiṃ, sakaputtassa mātaraṃ; Alaṅkataṃ suvasanaṃ, maccupāsaṃva oḍḍitaṃ. 299. Thấy mẹ của con ta,. Từ xa đang đi đến, Khéo trang điểm đẹp đẽ, Như ma gieo bẫy mồi. 300. Sau khi nhìn thấy nàng ấy đang tiến đến, người mẹ của đứa con trai của mình, đã được trang điểm, có y phục đẹp, tựa như cái bẫy sập của Thần Chết đã được giăng lên.
301. ‘‘Tato me manasīkāro, yoniso udapajjatha; Ādīnavo pāturahu, nibbidā samatiṭṭhatha. 300. Rồi ta tự tác ý,. Như lý khởi tư duy, Các hiểm nguy hiển lộ, Nhàm chán, ta an trú. 301. Do đó, sự tác ý theo đúng đường lối đã khởi lên ở tôi, điều bất lợi đã hiện rõ, sự nhàm chán đã được thiết lập.
302. ‘‘Tato cittaṃ vimucci me, passa dhammasudhammataṃ; Tisso vijjā anuppattā, kataṃ buddhassa sāsana’’nti. 301. Và tâm ta giải thoát,. Thấy pháp nhĩ là vậy, Ba minh chứng đạt được, Lời Phật dạy làm xong. 302. Do đó, tâm của tôi đã được giải thoát; hãy nhìn xem bản chất tốt đẹp của Giáo Pháp. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.”
… Candano thero….   Đại đức trưởng lão Candana đã nói những lời kệ như thế.
10. Dhammikattheragāthā (CXCV) Dhammika (Thera. 35) Kệ ngôn của trưởng lão Dhammika.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Kosala, tên là Dhammika. Khi Jetavana (Kỳ Viên) được dâng cúng, ngài khởi lòng tin, và xuất gia. Sống tại một tinh xá ở làng, ngài cảm thấy bất mãn và khó chịu đối với các công việc các Tỷ-kheo đến tinh xá. Do vậy các Tỷ-kheo đều bỏ đi và ngài làm chủ một mình một ngôi tinh xá. Một cư sĩ báo cáo sự việc lên bậc Đạo Su, bậc Đạo Sư cho gọi ngài lên để giải thích. Theo lời các Tỷ-kheo yêu cầu, ngài nói lên những bài kệ như sau:  
303. [jā. 1.10.102 jātakepi] ‘‘Dhammo have rakkhati dhammacāriṃ, dhammo suciṇṇo sukhamāvahati; Esānisaṃso dhamme suciṇṇe, na duggatiṃ gacchati dhammacārī. 302. Pháp che chở hộ trì,. Người hành trì Chánh pháp, Pháp đem lại an lạc, Cho người khéo hành pháp, Đây là những lợi ích, Khi pháp khéo hành trì, Người hành trì Chánh pháp, Không đi xuống ác thú. 303. “Thật vậy, Chánh Pháp hộ trì người có sự thực hành Chánh Pháp. Chánh Pháp, khéo được thực hành, đem lại sự an lạc. Điều này là quả báu khi Chánh Pháp khéo được thực hành: Người có sự thực hành Chánh Pháp không đi đến khổ cảnh.
304. [jā. 1.15.385] ‘‘Nahi dhammo adhammo ca, ubho samavipākino; Adhammo nirayaṃ neti, dhammo pāpeti suggatiṃ. 303. Cả hai pháp, phi pháp,. Kết quả không giống nhau; Phi pháp, dẫn địa ngục, Pháp đưa đến cõi lành. 304. Bởi vì Chánh Pháp và Phi Chánh Pháp, cả hai không có quả thành tựu giống nhau: Phi Chánh Pháp dẫn đến địa ngục, Chánh Pháp giúp cho thành tựu nhàn cảnh.
305. ‘‘Tasmā hi dhammesu kareyya chandaṃ, iti modamāno sugatena tādinā; Dhamme ṭhitā sugatavarassa sāvakā, nīyanti dhīrā saraṇavaraggagāmino. 304. Do vậy, đối Chánh pháp,. Khởi ý muốn hành trì, Tâm tư sanh hoan hỷ, Khéo thiện lai như vậy. Vững trú trên Chánh pháp, Đệ tử bậc Thiện Thệ, Sáng suốt tiến bước lên, Quy y bậc tối thượng. 305. Chính vì thế, nên thể hiện sự mong muốn ở Chánh Pháp, trong khi hoan hỷ như vậy với đấng Thiện Thệ như thế ấy. Các đệ tử của đấng Thiện Thệ cao quý, vững vàng trong Chánh Pháp, là các bậc thông minh, được thoát ra, có sự đi đến nơi nương nhờ quý cao tối thắng.
306. ‘‘Vipphoṭito gaṇḍamūlo, taṇhājālo samūhato; So khīṇasaṃsāro na catthi kiñcanaṃ, Cando yathā dosinā puṇṇamāsiya’’nti. 305. Phá vỡ cội ung nhọt,. Nhổ lên lưới ái triền, Luân hồi được đoạn tận, Không còn có sanh y, Như trăng vào ngày rằm, Trong đêm thanh trong sáng. 306. Vị ấy, có gốc rễ của mụt nhọt đã được phá tung, có mạng lưới tham ái đã được xóa sạch, có sự luân hồi đã được cạn kiệt, và không còn có bất cứ (ô nhiễm) gì, giống như mặt trăng sáng lạng vào ngày trăng tròn.”
  Khi Thế Tôn dạy ba bài kệ trên, Dhammika trên chỗ ngồi phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Để nói lên quả chứng của mình cho bậc Đạo Sư rõ, ngài nói lên bài kệ cuối cùng để nói lên chánh trí của ngài. Đại đức trưởng lão Dhammika đã nói những lời kệ như thế.
…  Dhammiko thero….    
11. Sappakattheragāthā (CXCVI) Sabbaka (Thera. 35) Kệ ngôn của trưởng lão Sappaka.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi trong một gia đình Bà-la-môn, ngài nghe Thế Tôn thuyết pháp, khởi lòng tin và xuất gia. Lựa chọn một đề tài để thiền quán, ngài đi đến tinh xá Lonagiri, trên bờ sông Ajakaranì và tại đấy, sau một thời gian chứng quả A-la-hán. Đi đến Sàvatthi để yết kiến bậc Đạo Sư, ngài ở lại một thời gian và được bà con đón tiếp. Sau khi khuyên các bà con quy y và giữ giới, ngài muốn trở về chỗ cũ. Các bà con yêu cầu ngài ở lại để được bà con cúng dường, nhưng ngài nói cho họ rõ vì sao ngài đến đây, và sự ưa thích đời sống độc cư. Ngài nói lên bài kệ tán thán trú xứ của ngài:  
307. ‘‘Yadā balākā sucipaṇḍaracchadā, kāḷassa meghassa bhayena tajjitā; Palehiti ālayamālayesinī, tadā nadī ajakaraṇī rameti maṃ. 306. Khi ta thấy con cò,. Trương đôi cánh trắng tinh, Sợ hãi đám mây đen, Tìm chỗ kín ẩn nấp; Khi ấy chính con sông, Ajakaranì, Đem hoan hỷ cho ta.  307. “Vào lúc con hạc có cặp cánh trắng trong sạch, bị hoảng hốt vì nỗi sợ hãi đối với đám mây đen, bay về tổ, có sự mong mỏi chỗ trú ngụ, khi ấy con sông Ajakaraṇī khiến tôi thích thú.
308. ‘‘Yadā balākā suvisuddhapaṇḍarā, kāḷassa meghassa bhayena tajjitā; Pariyesati leṇamaleṇadassinī, tadā nadī ajakaraṇī rameti maṃ. 307. Khi ta thấy con cò,. Trương đôi cánh trắng sạch, Sợ hãi đám mây đen, Tìm hang để ẩn nấp, Nhưng tìm không có thấy. Khi ấy chính con sông, Ajakaranì, Đem hoan hỷ cho ta. 308. Vào lúc con hạc màu trắng vô cùng sạch sẽ, bị hoảng hốt vì nỗi sợ hãi đối với đám mây đen, tìm kiếm chỗ ẩn náu, không nhìn thấy chỗ ẩn náu, khi ấy con sông Ajakaraṇī khiến tôi thích thú.
309. ‘‘Kaṃ nu tattha na ramenti, jambuyo ubhato tahiṃ; Sobhenti āpagākūlaṃ, mama leṇassa [mahāleṇassa (syā. ka.)] pacchato. 308. Ai lại không thích thú,. Khi thấy ở tại đây, Trên cả hai dãy bờ, Có hàng cây Jambu, Làm chói sáng bờ sông, Sau lưng cái hang lớn. 309. Ở nơi ấy, những cây mận đỏ hai bên bờ sông khiến cho người nào mà không thích thú? Chúng làm rạng rỡ bờ sông ở phía sau chỗ ngụ của tôi.
310. ‘‘Tā matamadasaṅghasuppahīnā, Bhekā mandavatī panādayanti; ‘Nājja girinadīhi vippavāsasamayo, Khemā ajakaraṇī sivā surammā’’’ti. 309. Hãy nghe những con nhái,. Khéo thoát những đàn rắn, Kêu lên niềm hoan hỷ, Với tiếng kêu nhẹ nhàng: Nay không phải là thời, Buông thả với suối rừng, Thật an ổn con sông Ajakaranì, Thoải mái và yên lành, Thật an vui thích thú! 310. Khéo bỏ rơi được bầy rắn, những con ếch có giọng tốt kêu inh ỏi rằng: ‘Hôm nay, không phải là lúc sống xa các dòng sông của những ngọn núi. Sông Ajakaraṇī là an toàn, yên lành, vô cùng thích thú.’”
  Rồi các bà con thuận để ngài đi. Vì ngài thích sống nhàn tịnh, đây trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài. Đại đức trưởng lão Sappaka đã nói những lời kệ như thế.
… Sappako thero….    
12. Muditattheragāthā (CXVII) Mudita (Thera 36) Kệ ngôn của trưởng lão Mudita.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình thường dân và được đặt tên là Mudita. Khi ngài đến tuổi trưởng thành , dòng họ ngài vì một vài nguyên nhân, bị vua chống đối Mudita, quá sợ vua nên bỏ chạy, đi vào rừng và sống gần trú xứ của một Trưởng lão đã chứng quả A-la-hán. Vị này thấy ngài quá sợ hãi, bảo ngài chớ có sợ. Ngài hỏi cần phải bao nhiêu thời gian mới khỏi tai nạn, vị A-la-hán nói cần phải bảy hay tám tháng, ngài nói ngài không thể đợi lâu như thế nên xin xuất gia. Vị Trưởng lão cho phép ngài được xuất gia. Ngài xuất gia, học đạo, khởi lòng tin, không còn sợ hãi nữa, và tu tập thiền quán. Chưa chứng được quả A-la-hán, ngài nguyện không rời khỏi tinh xá cho đến khi chứng quả và cuối cùng ngài đã thành công. Sau đó, ngài sống trong an lạc giải thoát, các Tỷ-kheo đồng Phạm hạnh hỏi ngài làm sao ngài thành đạt được chí nguyện, ngài nói lên kinh nghiệm của ngài trong những bài kệ như sau:  
311. ‘‘Pabbajiṃ jīvikatthohaṃ, laddhāna upasampadaṃ; Tato saddhaṃ paṭilabhiṃ, daḷhavīriyo parakkamiṃ. 310. Để cứu mạng sống ta,. Ta xuất gia tu hành, Ta được thọ đại giới, Nhờ vậy được lòng tin, Ta kiên trì tinh tấn, Hăng hái ta tiến bước. 311. “Tôi đã xuất gia vì mục đích mạng sống, sau khi đã đạt được sự tu lên bậc trên, nhờ đó tôi đã có được niềm tin, với sự tinh tấn vững vàng, tôi đã ra sức.
312. ‘‘Kāmaṃ bhijjatuyaṃ kāyo, maṃsapesī visīyaruṃ [visiyantu (ka.)]; Ubho jaṇṇukasandhīhi, jaṅghāyo papatantu me. 311. Dầu thân này hủy hoại,. Từng miếng thịt tiêu mòn, Đầu khớp xương hai gối, Ống chân làm ta ngã. 312. Hãy để thân xác này bị rã tan theo như ước muốn, hãy để cho các mẩu thịt bị phân hủy, hãy để cho cả hai ống quyển của tôi bị rơi rụng khỏi các chỗ nối ở đầu gối.
313. ‘‘Nāsissaṃ na pivissāmi, vihārā ca na nikkhame; Napi passaṃ nipātessaṃ, taṇhāsalle anūhate. 312. Ta sẽ không ăn uống,. Không ra ngoài tinh xá, Ta sẽ không nằm xuống, Không nằm một bên hông, Nếu mũi tên tham ái, Chưa được rút nhổ lên. 313. Khi mũi tên tham ái chưa được nhổ lên, tôi sẽ không ăn, không uống, và sẽ không đi ra khỏi trú xá, tôi cũng sẽ không nằm xuống một bên hông.
314. ‘‘Tassa mevaṃ viharato, passa vīriyaparakkamaṃ; Tisso vijjā anuppattā, kataṃ buddhassa sāsana’’nti. 313. Hạnh ta sống như vậy,;. Hãy nhìn ta tinh cần, Ba minh ta đạt được, Lời Phật dạy làm xong. 314. Trong khi tôi đây sống như vậy, hãy nhìn xem sự tinh tấn và nỗ lực của tôi. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.”[3]
…  Mudito thero…. Catukkanipāto niṭṭhito.   Đại đức trưởng lão Mudita đã nói những lời kệ như thế.
Tatruddānaṃ –   TÓM LƯỢC NHÓM NÀY
Nāgasamālo bhagu ca, sabhiyo nandakopi ca;   “Vị Nāgasamāla, và vị Bhagu, vị Sabhiya, và vị Nandaka nữa, vị Jambuka, vị trưởng lão Senaka, vị Sambhūta, và vị Rāhula nữa.
Jambuko senako thero, sambhūto rāhulopi ca.   Candana là vị trưởng lão; mười vị này là các đệ tử của đức Phật.[4] Vị Dhammika, vị trưởng lão Sappaka, và vị Mudita nữa là ba. Có năm mươi hai câu kệ và tất cả các vị trưởng lão là mười ba.”
Bhavati candano thero, dasete [idāni naveva therā dissanti] buddhasāvakā; Dhammiko sappako thero, mudito cāpi te tayo;   Nhóm Bốn được chấm dứt.
Gāthāyo dve ca paññāsa, therā sabbepi terasāti [idāni dvādaseva therā dissanti].