Tipitaka.org |
Việt dịch: HT. Thích Minh Châu |
Việt dịch: TK. Indacanda |
1. Vaṅgīsattheragāthā |
(CCLXIV) Vangìsa (Thera. 109) |
Kệ ngôn của trưởng lão Vaṅgīsa. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Vangìsa và được dạy ba tập Vệ-đà. Ngài được trọng vọng cúng dường, nhờ gõ trên sọ người và biết được kiếp trước của người ấy. Các Bà-la-môn thấy Vangìsa là một nguồn lợi dưỡng nên đem ngài đi chỗ này chỗ khác. Trong ba năm, Vangìsa đoán kiếp trước trên các sọ người được mang đến, và lấy tiền khoảng một trăm, một ngàn, Kahapana (đồng tiền vàng) mỗi đầu người. Ngài nghe danh tiếng của Thế Tôn, muốn đến yết kiến Thế Tôn, nhưng các Bà-la-môn ngăn lại. |
|
|
Vangìsa không nghe đi yết kiến đức Phật. Khi đức Phật hỏi Vangìsa biết được nghề gì, ngài trả lời có thể đoán được sọ người, bằng cách lấy móng tay gõ trên sọ người và đoán được số mệnh người ấy trong ba năm. Thế Tôn bảo Vangìsa đoán sọ người sanh vào địa ngục, vào loài Người, hàng chư Thiên và một vị giải thoát. Vangìsa có thể đoán số mạng ba hạng người kia nhưng đối với vị đã giải thoát thời không thể nói được gì. Cuối cùng, ngài yêu cầu Thế Tôn và được trả lời như sau: |
|
|
Ai biết thật hoàn toàn, |
|
|
Sự sanh diệt chúng sanh, |
|
|
Không tham trước, Thiện Thệ, |
|
|
Giác ngộ đạt Chánh giác, |
|
|
Vị ấy Ta mới gọi, |
|
|
Chánh danh Bà-la-môn, |
|
|
Thiên, Nhân, Càn-thát-bà, |
|
|
Không biết chỗ sở thú, |
|
|
Lậu hoặc được đoạn trừ, |
|
|
Bậc Ứng Cúng, La-hán, |
|
|
Vị ấy Ta mới gọi, |
|
|
Chánh danh Bà-la-môn. |
|
|
(Kinh Tập, kệ 643-644 – Trung Bộ kinh II, 196M) |
|
|
Sau khi nghe xong, Vangìsa yêu cầu đức Phật dạy cho con đường đạt đến đích ấy, xin xuất gia và đức Phật bảo Trưởng lão Nigrodhakappa độ cho xuất gia rồi dạy cho quán ba mươi hai bộ phận của thân và tuệ quán. Cuối cùng ngài chứng quả A-la-hán, từ bỏ các Bà-la-môn cũ, dùng nhiều câu tán thán Thế Tôn (Si, 185) và đức Phật xác chứng ngài là vị Tỷ-kheo đệ nhất về thuyết pháp. Những điều ngài nói lên trước và sau khi chứng quả A-la-hán được kiết tập bởi ngài Ananda và các vị khác trong kỳ kiết tập thứ nhất như sau: |
|
|
Khi còn là Sa-di, sau khi bị ảnh hưởng vì thấy nhiều thiếu nữ mặc áo đẹp, ngài nói lên những cảm thọ được nhiếp phục của ngài: |
|
1218‘‘Nikkhantaṃ. vata maṃ santaṃ, agārasmānagāriyaṃ; Vitakkā upadhāvanti, pagabbhā kaṇhato ime. |
1209. Với ta đã xuất gia,. Bỏ nhà, sống không nhà, Tư tưởng này chạy loạn, Khởi lên từ hắc ám. |
1220. “Thật vậy, trong khi tôi ra đi, rời nhà sống không nhà, những ý nghĩ suy tầm táo bạo này, từ sự tăm tối, đeo đuổi tôi. |
1219‘‘Uggaputtā. mahissāsā, sikkhitā daḷhadhammino [daḷhadhanvino (sī. aṭṭha.)]; Samantā parikireyyuṃ, sahassaṃ apalāyinaṃ. |
1210. Nhà bắn cung thiện xảo,. Thượng sanh giỏi cung pháp, Ngàn người bắn khắp phía, Không nao núng chút nào. |
1221. Những người con trai hung bạo, những cung thủ vĩ đại, đã được học tập, có cây cung vững chắc, có thể bắn ra xung quanh một ngàn mũi tên đến (tôi), tôi (cũng) không đào tẩu. |
1220‘‘Sacepi. ettakā [etato (saṃ. ni. 1.209)] bhiyyo, āgamissanti itthiyo; Neva maṃ byādhayissanti [byāthayissanti (?)], dhamme samhi [dhammesvamhi (syā. ka.)] patiṭṭhito. |
1211. Nếu phụ nữ có đến,. Dầu nhiều hay đông hơn, Sẽ không dao động ta, Vì ta trú Chánh pháp. |
1222. Thậm chí, nếu nhiều hơn chừng ấy phụ nữ sẽ đi đến, họ cũng sẽ không bao giờ làm cho tôi, người đã khéo được đứng vững ở Giáo Pháp, nao núng. |
1221‘‘Sakkhī. hi me sutaṃ etaṃ, buddhassādiccabandhuno; Nibbānagamanaṃ maggaṃ, tattha me nirato mano. |
1212. Chính ta từng được nghe,. Phật dòng họ Mặt Trời, Giảng đạo hướng Niết-bàn, Ở đây ý ta thích. |
1223. Bởi vì điều này đã do tôi đích thân nghe được về Đạo Lộ đi đến Niết Bàn của đức Phật, vị thân quyến của mặt trời; tâm tôi đã được thích thú về điều ấy. |
1222‘‘Evaṃ. ce maṃ viharantaṃ, pāpima upagacchasi; Tathā maccu karissāmi, na me maggampi dakkhasi. |
1213. Như vậy ta an trú,. Ác ma, ngươi có đến, Ta sẽ làm như vậy, Ngươi không thấy đường ta. |
1224. Này kẻ xấu xa, nếu ngươi đến gần ta trong lúc ta đang sống như vầy, này Thần Chết, ta sẽ làm cho ngươi sẽ không nhìn thấy ngay cả đường đi của ta. |
|
Được nói khi nhiếp phục các cảm thọ của mình như sân hận v.v… |
|
1223‘‘Aratiñca. [aratiṃ (bahūsu)] ratiñca pahāya, sabbaso gehasitañca vitakkaṃ; Vanathaṃ na kareyya kuhiñci, nibbanatho avanatho sa [nibbanatho arato sa hi (saṃ. ni. 1.210)] bhikkhu. |
1214. Ta bỏ lạc bất lạc,. Mọi tâm tư gia sự, Không tạo một chỗ nào, Thành cơ sở tham dục, Ai thoát rừng, ly tham, Mới ứng danh Tỷ-kheo. |
1225. Sau khi từ bỏ toàn bộ sự ghét bỏ, sự ưa thích, và mọi suy tầm liên hệ đến gia đình, không nên thể hiện tham ái ở bất cứ đâu. Xa lìa tham ái, không có tham ái, vị ấy là tỳ khưu. |
1224‘‘Yamidha. pathaviñca vehāsaṃ, rūpagataṃ jagatogadhaṃ kiñci; Parijīyati sabbamaniccaṃ, evaṃ samecca caranti mutattā. |
1215. Phàm địa giới, không giới,. Cả sắc giới trong đời, Đều biến hoại vô thường, Hiểu vậy, sống liễu tri. |
1226. Bất cứ vật gì ở nơi này, ở trái đất và ở không trung, đã đạt đến hình thể, bị gắn chặt với thế gian, tất cả đều là vô thường, bị hư hoại; những người đã lãnh hội như vậy, sống, có bản thân đã được cảm nhận. |
1225‘‘Upadhīsu. janā gadhitāse, diṭṭhasute [diṭṭhe sute (sī.)] paṭighe ca mute ca; Ettha vinodaya chandamanejo, yo hettha na limpati muni tamāhu [taṃ munimāhu (saṃ. ni. 1.210)]. |
1216. Chúng sanh thường chấp trước,. Đối với các sanh y, Đối vật họ thấy nghe, Họ xúc chạm suy tư, Ở đây ai đoạn dục, Tâm tư không nhiễm ô. Không mắc dính chỗ này, Vị ấy danh Mâu-ni. |
1227. Chúng sanh bị cột trói vào các mầm tái sanh, vào điều đã được thấy, được nghe, được chạm đến, và được cảm nhận. Ở đây, ngươi hãy xua đuổi lòng ham muốn, trở thành người không còn dục vọng, bởi vì ở đây người nào không bị lấm lem (bởi ái dục), người ta đã gọi vị ấy là bậc hiền trí. |
1226‘‘Atha. saṭṭhisitā savitakkā, puthujjanatāya [puthū janatāya (saṃ. ni. 1.210)] adhammā niviṭṭhā; Na ca vaggagatassa kuhiñci, no pana duṭṭhullagāhī [duṭṭhullabhāṇī (saṃ. ni. 1.210)] sa bhikkhu. |
1217. Đối sáu mươi tám kiến,. Thuộc phàm phu phi pháp, Không học phái tà chấp, Vị ấy chân Tỷ-kheo. |
1228. Chúng sanh có sự suy tầm liên quan đến sáu mươi hai (tà kiến) đã bị dính líu vào các điều phi pháp thuộc về phàm nhân. Và nên là người không theo phe nhóm ở bất cứ nơi đâu, thêm nữa không có việc nắm lấy sự thô tục, vị ấy là tỳ khưu. |
1227‘‘Dabbo. cirarattasamāhito, akuhako nipako apihālu; Santaṃ padaṃ ajjhagamā muni, paṭicca parinibbuto kaṅkhati kālaṃ. |
1218. Vẹn toàn, tâm thường định,. Không dối trá thận trọng, Ly ái, vị Mâu-ni, Chứng đạt đường an tịnh, Tùy duyên nhập Niết Bàn, Vị ấy chờ thời đến. |
1229. Có khả năng, được định tĩnh lâu dài, không xảo trá, thận trọng, không tham ái, bậc hiền trí đã chứng đắc vị thế an tịnh, chờ đợi thời điểm, tùy duyên viên tịch Niết Bàn. |
|
Nói đến khi ngài nhiếp phục cử chỉ của ngài về khả năng nói dễ dàng của mình: |
|
1228‘‘Mānaṃ. pajahassu gotama, mānapathañca jahassu asesaṃ; Mānapathamhi sa mucchito, vippaṭisārīhuvā cirarattaṃ. |
1219. Đệ tử Gotama,. Hãy từ bỏ kiêu mạn, Trên con đường kiêu mạn, Hãy tránh né hoàn toàn, Ham mê đường kiêu mạn, Sẽ hối trách dài dài. |
1230. Này vị (dòng dõi) Gotama, ngươi hãy dứt bỏ ngã mạn, và hãy từ bỏ hoàn toàn đường lối của ngã mạn. Bị say đắm ở đường lối của ngã mạn, ngươi đã có sự ân hận dài lâu. |
1229‘‘Makkhena. makkhitā pajā, mānahatā nirayaṃ papatanti; Socanti janā cirarattaṃ, mānahatā nirayaṃ upapannā. |
1220. Bị lừa bởi lừa dối,. Bị hại bởi kiêu mạn, Loài Người rơi địa ngục, Chúng sầu khổ lâu dài, Bị hại về kiêu mạn, Họ phải sanh địa ngục. |
1231. Bị nhơ bẩn bởi sự gièm pha, bị hãm hại bởi ngã mạn, chúng sanh rơi vào địa ngục. Bị hãm hại bởi ngã mạn, bị sanh vào địa ngục, loài người sầu muộn dài lâu. |
1230‘‘Na. hi socati bhikkhu kadāci, maggajino sammā paṭipanno; Kittiñca sukhañcānubhoti, dhammadasoti tamāhu tathattaṃ. |
1221. Không bao giờ sầu muộn,. Tỷ-kheo chiến thắng đạo, Chơn chánh dấn thân bước, Hưởng danh dự an lạc, Như thật được tên gọi, Là bậc đã thấy pháp. |
1232. Bởi vì vị tỳ khưu không bao giờ sầu muộn, là người chiến thắng nhờ vào Đạo Lộ, đã thực hành đúng đắn, và thọ hưởng danh tiếng và sự an lạc, người ta đã gọi vị ấy là: ‘Bậc đã thấy pháp.’ |
1231‘‘Tasmā. akhilo idha [akhilo (sī.), akhilodha (saṃ. ni. 1.211)] padhānavā, nīvaraṇāni pahāya visuddho; Mānañca pahāya asesaṃ, vijjāyantakaro samitāvī. |
1222. Do vậy ở đời này,. Không thô lậu, không kiêu, Đoạn triền cái, thanh tịnh, Đoạn kiêu mạn, không dư, Với minh, tâm an tịnh, Bậc đoạn tận khổ đau. |
1233. Vì thế, (hãy là) không cứng nhắc, có sự ra sức, sau khi từ bỏ các pháp che lấp, được thanh tịnh, và sau khi từ bỏ hoàn toàn ngã mạn, là người tạo ra sự chấm dứt nhờ vào (ba) Minh, có sự yên tịnh. |
|
Khi còn là Sa-di, ngài hầu Tôn giả Ananda, khi Tôn giả được một vị đại thần của vua mời đến thăm Tôn giả và ngài được vây quanh với những nữ nhân trang sức đẹp đẽ, những người này kính lễ Tôn giả, hỏi thăm và nghe Tôn giả thuyết pháp. Nhưng Vangìsa lại bị kích thích và tham dục khởi lên. Ngài nghĩ như vậy là không tốt cho hiện tại và tương lai của ngài. Ngài nói lên tâm trạng của mình cho Tôn giả Ananda: |
|
1232‘‘Kāmarāgena. ḍayhāmi, cittaṃ me pariḍayhati; Sādhu nibbāpanaṃ brūhi, anukampāya gotama. |
1223. Dục ái đốt cháy tôi!. Tâm tôi bị thiêu cháy, Lành thay Gotama, Vì lòng từ nói lên, Pháp tiêu diệt lửa hừng. Và Tôn giả Ananda trả lời: |
1234. Tôi bị thiêu đốt bởi sự luyến ái ở các dục, tâm của tôi bị thiêu đốt toàn diện. Thưa vị (dòng dõi) Gotama, vì lòng thương xót, lành thay, hãy nói về việc dập tắt. |
1233‘‘Saññāya. vipariyesā, cittaṃ te pariḍayhati; Nimittaṃ parivajjehi, subhaṃ rāgūpasaṃhitaṃ ( ) [(saṅkhāre parato passa, dukkhato mā ca attato; nibbāpehi mahārāgaṃ, mā dayhittho punappunaṃ;) (sī. saṃ. ni. 1.212) uddānagāthāyaṃ ekasattatītisaṅkhyā ca, theragāthāṭṭhakathā ca passitabbā]. |
1224. Chính vì điên đảo tưởng,. Tâm ông bị thiêu đốt, Hãy từ bỏ tịnh tướng, Hệ lụy đến tham dục. 1225. Nhìn các hành vô thường,. Khổ đau, không phải ngã, Dập tắt đại tham dục, Chớ để bị cháy dài, |
1235. Vì sự tầm cầu sai trái của tưởng, tâm của ngươi bị thiêu đốt toàn diện. Ngươi hãy tránh xa hiện tướng mỹ miều, được gắn liền với luyến ái. 1236. Ngươi hãy nhìn thấy các hành là cái khác, là khổ đau, và chớ là bản ngã. Ngươi hãy dập tắt sự luyến ái lớn lao. Chớ để bị thiêu đốt lần này lần khác. |
1234‘‘Asubhāya. cittaṃ bhāvehi, ekaggaṃ susamāhitaṃ; Sati kāyagatā tyatthu, nibbidābahulo bhava. |
Hãy tu tâm bất tịnh, Nhứt tâm, khéo định tĩnh, Tu tập thân hành niệm, Hành hạnh nhiều yếm ly. |
1237. Ngươi hãy tu tập tâm được chuyên nhất, khéo được định tĩnh, về (đề mục) tử thi. Đối với ngươi, hãy có niệm được đặt ở thân, hãy có nhiều sự nhàm chán. |
1235‘‘Animittañca. bhāvehi, mānānusayamujjaha; Tato mānābhisamayā, upasanto carissasi. |
1226. Hãy tập hạnh vô tướng,. Đoạn diệt mạn tùy miên, Nhờ quán sân kiêu mạn, Hạnh ông sẽ an tịnh. |
1238. Ngươi hãy tu tập về vô tướng, hãy dẹp bỏ sự tiềm ẩn của ngã mạn, sau đó, nhờ vào sự lãnh hội về ngã mạn, ngươi sẽ sống, được an tịnh. |
|
Được nói lên sau khi Thế Tôn dạy kinh về ‘Sự vật được khéo nói’, tán thán Thế Tôn: |
|
1236‘‘Tameva. vācaṃ bhāseyya, yāyattānaṃ na tāpaye; Pare ca na vihiṃseyya, sā ve vācā subhāsitā. |
1227. Ai nói lên lời gì,. Lời ấy không khổ mình, Lời không làm hại người, Lời ấy là thiện thuyết. |
1239. Nên nói chỉ lời nói ấy thôi, với lời nói ấy không làm cho bản thân nóng nảy, và không hãm hại người khác; đúng vậy lời nói ấy đã được khéo nói. |
1237‘‘Piyavācameva. bhāseyya, yā vācā paṭinanditā; Yaṃ anādāya pāpāni, paresaṃ bhāsate piyaṃ. |
1228. Ai nói lời ái ngữ,. Lời nói khiến hoan hỷ, Lời nói không ác độc, Lời nói là ái ngữ. |
1240. Nên nói chỉ mỗi lời êm ái, là lời nói được hoan hỷ đón nhận. Nên nói lời êm ái là lời nói không đem đến các điều ác xấu cho những người khác. |
1238‘‘Saccaṃ. ve amatā vācā, esa dhammo sanantano; Sacce atthe ca dhamme ca, āhu santo patiṭṭhitā. |
1229. Lời chân, lời bất tử,. Thường pháp xưa là vậy, Thiện nhân trú trên chân, Trên nghĩa và trên pháp. |
1241. Đúng vậy, chân thật là lời nói bất tử, điều ấy là quy luật muôn đời. Những người tốt đã được đứng vững ở sự thật, ở mục đích, và ở Giáo Pháp đã nói (như thế). |
1239‘‘Yaṃ. buddho bhāsati vācaṃ, khemaṃ nibbānapattiyā; Dukkhassantakiriyāya, sā ve vācānamuttamā. |
1230. Lời đức Phật nói lên,. Đạt an ổn Niết-bàn, Chấm dứt mọi khổ đau, Thật nói lời tối thượng. |
1242. Lời đức Phật nói là an toàn, đưa đến sự đạt được Niết Bàn, đưa đến sự thực hiện việc chấm dứt khổ đau; đúng vậy lời nói ấy là tối thượng. |
|
Nói lên để tán thán Tôn giả Sàriputta: |
|
1240‘‘Gambhīrapañño. medhāvī, maggāmaggassa kovido; Sāriputto mahāpañño, dhammaṃ deseti bhikkhunaṃ. |
1231. Trí tuệ thâm, trí giả,. Thiện xảo đạo, phi đạo, Xá-lợi-phất đại trí, Thuyết pháp chúng Tỷ-kheo. |
1243. Có tuệ thâm sâu, thông minh, rành rẽ về đạo lộ và không phải đạo lộ, vị Sāriputta, có trí tuệ vĩ đại, thuyết giảng Giáo Pháp cho các vị tỳ khưu. |
1241‘‘Saṅkhittenapi. deseti, vitthārenapi bhāsati; Sālikāyiva nigghoso, paṭibhānaṃ udiyyati [udīrayi (sī.), udīyyati (syā.), udayyati (?) uṭṭhahatīti taṃsaṃvaṇṇanā]. |
1232. Ngài giảng cách tóm tắt,. Ngài cũng thuyết rộng rãi, Như tiếng chim Sà-li, Tiếng ngài được nói lên. |
1244. Vị ấy cũng thuyết giảng tóm tắt, cũng thuyết giảng chi tiết. Với âm thanh như là của chim sáo, vị ấy đã nói lên tài biện luận. |
1242‘‘Tassa. taṃ desayantassa, suṇanti madhuraṃ giraṃ; Sarena rajanīyena, savanīyena vaggunā; Udaggacittā muditā, sotaṃ odhenti bhikkhavo. |
1233. Lời ngài giảng tuôn trào,. Tiếng ngài nghe ngọt lịm, Với giọng điệu ái luyến, Êm tai và mỹ diệu, Họ lắng tai nghe pháp, Tâm phấn khởi hoan hỷ. |
1245. Trong khi vị ấy đang thuyết giảng điều ấy, mọi người lắng nghe lời nói ngọt ngào, với âm điệu đáng yêu, đáng được nghe, có sự thu hút. Các vị tỳ khưu có tâm hướng thượng, hoan hỷ, lắng tai nghe. |
|
Nói lên sau khi Thế Tôn thuyết trong kinh Pavàranà (Tự Tứ): |
|
1243‘‘Ajja. pannarase visuddhiyā, bhikkhū pañcasatā samāgatā; Saṃyojanabandhanacchidā, anīghā khīṇapunabbhavā isī. |
1234. Nay ngày rằm thanh tịnh,. Năm trăm Tỷ-kheo họp, Bậc Thánh đoạn kiết phược, Vô phiền, dứt tái sanh. |
1246. Hôm nay, ngày rằm, năm trăm vị tỳ khưu, là các vị ẩn sĩ có sự cắt đứt những sự trói buộc và những điều ràng buộc, không bị khổ sở, có việc tái sanh lần nữa đã được cạn kiệt, đã tụ hội vì sự thanh tịnh (của hội chúng). |
1244‘‘Cakkavattī. yathā rājā, amaccaparivārito; Samantā anupariyeti, sāgarantaṃ mahiṃ imaṃ. |
1235. Như vua chuyển luân vương. Đại thần hầu xung quanh, Du hành khắp bốn phương, Đất này đến hải biên. |
1247. Giống như đức Chuyển Luân Vương, được tháp tùng bởi các quan đại thần, đi vòng quanh khắp nơi ở trái đất có biển cả bao bọc này. |
1245‘‘Evaṃ. vijitasaṅgāmaṃ, satthavāhaṃ anuttaraṃ; Sāvakā payirupāsanti, tevijjā maccuhāyino. |
1236. Như vậy các đệ tử,. Đã chứng được Ba minh, Sát hại được tử thần, Những vị này hầu hạ, Bậc thắng trận chiến trường, Vô thượng lữ hành chủ. |
1248. Tương tự như vậy, các vị Thinh Văn có ba Minh, có sự chiến thắng Thần Chết, hầu cận vị Chiến Thắng trận đấu, người Hướng Dẫn đoàn xe, bậc Vô Thượng. |
1246‘‘Sabbe. bhagavato puttā, palāpettha na vijjati; Taṇhāsallassa hantāraṃ, vande ādiccabandhunaṃ. |
1237. Tất cả con Thế Tôn,. Không ai là vô dụng, Xin chí thành đảnh lễ, Bậc nhổ tên khát ái, Xin tâm thành cung kính Bậc dòng họ Mặt Trời. |
1249. Tất cả những người con trai của đức Thế Tôn, ở đây không có kẻ vô vị. Tôi đảnh lễ đấng tiêu diệt mũi tên tham ái, vị thân quyến của mặt trời. |
|
Nói lên tán thán Thế Tôn khi Thế Tôn đang thuyết pháp cho các Tỷ-kheo về vấn đề Niết-bàn: |
|
1247‘‘Parosahassaṃ. bhikkhūnaṃ, sugataṃ payirupāsati; Desentaṃ virajaṃ dhammaṃ, nibbānaṃ akutobhayaṃ. |
1238. Hơn một ngàn Tỷ-kheo. Hầu hạ bậc Thiện Thệ, Ngài thuyết vô cấu pháp Niết-bàn vô bố úy. |
1250. Hơn một ngàn vị tỳ khưu hầu cận đấng Thiện Thệ trong khi Ngài đang thuyết giảng Giáo Pháp xa lìa luyến ái, Niết Bàn, chốn không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu. |
1248‘‘Suṇanti. dhammaṃ vimalaṃ, sammāsambuddhadesitaṃ; Sobhati vata sambuddho, bhikkhusaṅghapurakkhato. |
1239. Họ nghe pháp rộng lớn. Bậc Chánh giác thuyết giảng; Bậc Chánh giác chói sáng, Chúng Tỷ-kheo vây quanh. |
1251. Các vị lắng nghe Giáo Pháp không ô nhiễm, được thuyết giảng bởi đấng Chánh Đẳng Giác. Thật vậy, đấng Toàn Giác chiếu sáng, được hội chúng tỳ khưu tôn vinh. |
1249‘‘‘Nāganāmo’si. bhagavā, isīnaṃ isisattamo; Mahāmeghova hutvāna, sāvake abhivassasi. |
1240. Bạch Thế Tôn, Thiện Thệ,. Ngài thật bậc Long tượng Bậc ẩn sĩ thứ bảy, Trong các vị ẩn sĩ, Ngài trở thành mây lớn, Mưa móc ban đệ tử. |
1252. Bạch đức Thế Tôn, Ngài có tên là Long Tượng, vị ẩn sĩ tối thượng trong số các ẩn sĩ, sau khi trở thành như là đám mây lớn, Ngài đổ mưa xuống các đệ tử. |
1250‘‘Divā. vihārā nikkhamma, satthudassanakamyatā; Sāvako te mahāvīra, pāde vandati vaṅgiso. |
1241. Con từ nghỉ trưa đến,. Muốn yết kiến Đạo Sư, Ôi bậc Đại anh hùng, Con là đệ tử Ngài, Con tên Vangìsa, Đảnh lễ dưới chân Ngài. |
1253. Sau khi rời khỏi chỗ nghỉ ban ngày vì ước muốn diện kiến bậc Đạo Sư, bạch đấng Đại Hùng, đệ tử Vangīsa đảnh lễ các bàn chân của Ngài. |
|
Rồi Thế Tôn hỏi: |
|
|
– Này Vangìsa, những bài kệ này của Ông, có phải Ông suy nghĩ từ trước hay được khởi lên tại chỗ? |
|
|
– Bạch Thế Tôn, những bài kệ này của con, không phải suy nghĩ từ trước chính được khởi lên tại chỗ. |
|
|
– Vậy này Vangìsa, hãy cho nhiều bài kệ nữa, không suy nghĩ từ trước, được khởi lên tại chỗ. |
|
|
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn, Tôn giả Vangìsa vâng đáp Thế Tôn, nói lên những bài kệ tán thán Thế Tôn, những bài kệ không suy nghĩ từ trước: |
|
1251‘‘Ummaggapathaṃ. mārassa, abhibhuyya carati pabhijja khīlāni; Taṃ passatha bandhapamuñcakaraṃ, asitaṃva bhāgaso pavibhajja. |
1242. Thắng Ác ma tà đạo,. Ngài sống chướng ngại đoạn, Hãy thấy bậc giải thoát, Thoát ly mọi hệ phược, Không y trước phân tích, Thành từng phần rõ ràng. |
1254. Sau khi khắc phục đạo lộ và đường lối sai trái của Ma Vương, Ngài bước đi sau khi đã phá tan các chướng ngại. Các vị hãy nhìn xem đức Phật, với việc thực hiện sự giải thoát khỏi các sự trói buộc, hoàn toàn không bị lệ thuộc, sau khi đã phân tích (Giáo Pháp) thành từng phần riêng biệt. |
1252‘‘Oghassa. hi nitaraṇatthaṃ, anekavihitaṃ maggaṃ akkhāsi; Tasmiñca amate akkhāte, dhammadasā ṭhitā asaṃhīrā. |
1243. Ngài nói lên con đường,. Nhiều pháp môn khác biệt, Giúp mọi người vượt qua, Dòng bộc lưu nguy hiểm, Chính trên pháp bất tử, Được ngài thường tuyên thuyết Chúng con bậc pháp kiến, Vững trú, không thối chuyển. |
1255. Bởi vì Ngài đã nói lên Đạo Lộ có nhiều cách thức với mục đích vượt qua dòng nước lũ, và khi Bất Tử ấy đã được nói lên, các vị đã thấy Pháp được đứng vững, không bị tiêu hoại. |
1253‘‘Pajjotakaro. ativijjha [ativijjha dhammaṃ (sī.)], sabbaṭhitīnaṃ atikkamamaddasa [atikkamamadda (sī. ka.)]; Ñatvā ca sacchikatvā ca, aggaṃ so desayi dasaddhānaṃ. |
1244. Bậc tạo dựng quanh mình,. Ngài thâm nhập các pháp, Thấy được chỗ vượt qua, Tất cả mọi kiến xứ, Sau khi biết và chứng, Ngài thuyết tối thượng xứ. |
1256. Bậc tạo ra ánh sáng, sau khi thấu triệt Giáo Pháp, đã nhìn thấy (Niết Bàn) sự vượt lên trên tất cả các sự tồn tại (của nhận thức). Sau khi biết được và chứng ngộ (Giáo Pháp) cao quý, Ngài đã thuyết giảng cho năm vị. |
1254‘‘Evaṃ. sudesite dhamme, ko pamādo vijānataṃ dhammaṃ; Tasmā hi tassa bhagavato sāsane, appamatto sadā namassamanusikkhe. |
1245. Pháp như vậy khéo giảng. Ai có thể phóng dật, Khi được biết pháp ấy, Pháp khéo giảng như vậy, Do vậy trong giáo pháp, Đức Thế Tôn, Thiện Thệ, Luôn luôn không phóng dật, Hãy đảnh lễ, tu học. |
1257. Khi Giáo Pháp đã khéo được thuyết giảng như vậy, có sự xao lãng gì đối với các vị đang nhận thức Giáo Pháp? Chính vì thế, vị không xao lãng, trong lúc đang lễ bái, nên luôn luôn học tập theo lời giáo huấn của đức Thế Tôn ấy. |
|
Nói lên để tán thán Tôn giả Annà Kondannà (An-nhã Kiều-trần-như): |
|
1255‘‘Buddhānubuddho. yo thero, koṇḍañño tibbanikkamo; Lābhī sukhavihārānaṃ, vivekānaṃ abhiṇhaso. |
1246. Sau đức Phật hiện tại,. Trưởng lão được Chánh giác, Chính là Kondannà, Nhiệt tâm và tinh cần, Chứng được an lạc trú, Sống viễn ly liên tục. |
1258. Vị trưởng lão đã được giác ngộ kế tiếp đức Phật là vị có sự nỗ lực sắc bén Koṇḍañña, thường xuyên có sự đạt được các lạc trú và các sự ẩn cư. |
1256‘‘Yaṃ. sāvakena pattabbaṃ, satthu sāsanakārinā; Sabbassa taṃ anuppattaṃ, appamattassa sikkhato. |
1247. Thực hành lời sư dạy,. Đệ tử chứng được gì, Tất cả ngài chứng được, Nhờ tu học tinh tấn. |
1259. Pháp nào có thể đạt được bởi vị đệ tử có sự thực hành theo lời giáo huấn của bậc Đạo Sư, pháp ấy, tất cả cảc vị không bị xao lãng, đã được học tập, đều đạt được. |
1257‘‘Mahānubhāvo. tevijjo, cetopariyakovido; Koṇḍañño buddhadāyādo, pāde vandati satthuno. |
1248. Đại uy lực ba minh,. Thiện xảo tâm tư người, Phật tử Kondannà Đảnh lễ chân Đạo Sư. |
1260. Có đại oai lực, có ba Minh, thiện xảo về tâm của người khác, vị Koṇḍañña, người thừa tự của đức Phật, đảnh lễ các bàn chân của bậc Đạo Sư. |
|
Nói lên để tán thán Tôn giả Moggallàna, trước mặt Thế Tôn, khi Tôn giả Moggallàna nhận thấy tâm của năm trăm vị La-hán, hội họp tại Hắc Sơn, trên sườn núi Isigili, tại Rajagaha đều giải thoát khỏi tái sanh: |
|
1258‘‘Nagassa. passe āsīnaṃ, muniṃ dukkhassa pāraguṃ; Sāvakā payirupāsanti, tevijjā maccuhāyino. |
1249. Cao trên sườn đồi núi. Những vị chứng Ba minh, Những vị đoạn tử thần, Các đệ tử hầu hạ, Bậc Thánh giả Mâu-ni, Đã vượt qua đau khổ. |
1261. Các vị Thinh Văn, có ba Minh, có sự chiến thắng Thần Chết, hầu cận bậc Hiền Trí, vị đã đi đến bờ kia của khổ đau, đang ngồi ở sườn của ngọn núi. |
1259‘‘Cetasā. [te cetasā (saṃ. ni. 1.218)] anupariyeti, moggallāno mahiddhiko; Cittaṃ nesaṃ samanvesaṃ [samannesaṃ (saṃ. ni. 1.218)], vippamuttaṃ nirūpadhiṃ. |
1250. Đại thần lực Mục-liên,. Quán tâm các vị ấy Biết họ được giải thoát Không còn có sanh y. |
1262. Vị Moggallāna, có đại thần lực, quán sát bằng tâm, trong khi tìm kiếm tâm đã được giải thoát, không còn mầm mống tái sanh của các vị ấy. |
1260‘‘Evaṃ. sabbaṅgasampannaṃ, muniṃ dukkhassa pāraguṃ; Anekākārasampannaṃ, payirupāsanti gotamaṃ. |
1251. Như vậy họ hầu hạ,. Gotama Mâu-ni Ngài vượt qua đau khổ, Mọi sở hành đầy đủ, Mọi đức tánh vẹn toàn. |
1263. Các vị hầu cận đấng Hiền Trí Gotama, bậc đã được thành tựu tất cả các yếu tố như vậy, đã đi đến bờ kia của khổ đau, đã được thành tựu nhiều biểu hiện. |
|
Nói lên để tán thán Thế Tôn, chói sáng với dung sắc và huy hoàng của mình, khi Thế Tôn được chúng Tăng và cư sĩ bao vây xung quanh tại hồ sen Gaggara ở Campà: |
|
1261‘‘Cando. yathā vigatavalāhake nabhe, virocati vītamalova bhāṇumā; Evampi aṅgīrasa tvaṃ mahāmuni, atirocasi yasasā sabbalokaṃ. |
1252. Như mặt trăng giữa trời. Mây mù được quét sạch, Chói sáng như mặt trời, Thanh tịnh không cấu uế, Cũng vậy Ngài thật là, Đại Mâu-ni Hiền thánh, Danh xưng ngài sáng chói, Vượt qua mọi thế giới. |
1264. Bạch Ngài Aṅgīrasa, bậc Đại Hiền Trí, giống như mặt trăng ở bầu trời không có mây đen, tựa như mặt trời không có vết nhơ chiếu sáng, cũng tương tự như vậy, Ngài rực rỡ hơn tất cả thế gian về danh vọng. |
|
Nói lên khi ngài mới chứng quả A-la-hán, suy tư trên kinh nghiệm của mình và về Bổn sư: |
|
1262‘‘Kāveyyamattā. vicarimha pubbe, gāmā gāmaṃ purā puraṃ; Athaddasāma sambuddhaṃ, sabbadhammāna pāraguṃ. |
1253. Thuở trước ta mê thơ,. Bộ hành khắp mọi nơi, Từ làng này thành này, Qua làng khác thành khác, Ta thấy bậc Chánh giác Đạt bờ kia mọi pháp. |
1265. Trước đây, say mê thơ văn, chúng tôi đã lang thang từ làng này đến làng khác, từ phố này đến phố khác, và chúng tôi đã nhìn thấy đấng Toàn Giác, bậc đã đi đến bờ kia của tất cả các pháp. |
1263‘‘So. me dhammamadesesi, muni dukkhassa pāragū; Dhammaṃ sutvā pasīdimha, saddhā [addhā (sī. aṭṭha.)] no udapajjatha. |
1254. Nghe pháp ta tín thành. Tín khởi lên nơi ta. |
1266. Bậc Hiền Trí ấy, vị đã đi đến bờ kia của khổ đau, đã thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp, niềm tin đã sanh khởi đến chúng tôi. |
1264‘‘Tassāhaṃ. vacanaṃ sutvā, khandhe āyatanāni ca; Dhātuyo ca viditvāna, pabbajiṃ anagāriyaṃ. |
1255. Ta nghe lời Ngài dạy,. Về uẩn, xứ và giới, Sau khi biết, xuất gia, Bỏ nhà, sống không nhà. |
1267. Sau khi lắng nghe lời nói của vị ấy, sau khi hiểu rõ về (năm) uẩn, (mười hai) xứ, và (mười tám) giới, tôi đã xuất gia, sống đời không nhà. |
1265‘‘Bahūnaṃ. vata atthāya, uppajjanti tathāgatā; Itthīnaṃ purisānañca, ye te sāsanakārakā. |
1256. Vì hạnh phúc số đông,. Như Lai sanh ở đời, Ngài tạo ra giải pháp, Cho nữ nhân, nam nhân. |
1268. Thật vậy, các đức Như Lai hiện khởi vì lợi ích của số đông, của những người nữ và những người nam nào là những người thực hành theo Giáo Pháp. |
1266‘‘Tesaṃ. kho vata atthāya, bodhimajjhagamā muni; Bhikkhūnaṃ bhikkhunīnañca, ye nirāmagataddasā. |
1257. Vì hạnh phúc của họ,. Mâu-ni chứng Bồ-đề, Ngài thấy luật chi phối Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni. |
1269. Thật vậy, bậc Hiền Trí đã đạt đến sự Giác Ngộ vì lợi ích của những người ấy, của các vị tỳ khưu và tỳ khưu ni nào đã đạt đến và đã nhìn thấy quy luật. |
1267‘‘Sudesitā. cakkhumatā, buddhenādiccabandhunā; Cattāri ariyasaccāni, anukampāya pāṇinaṃ. |
1258. Vì lòng thương chúng sanh,. Bốn sự thật khéo thuyết, Bởi vị có con mắt Phật, bà con Mặt Trời. |
1270. Vì lòng thương xót chúng sanh, bốn Chân Lý Cao Thượng đã khéo được thuyết giảng bởi đấng Hữu Nhãn, đức Phật, vị thân quyến của mặt trời: |
1268‘‘Dukkhaṃ. dukkhasamuppādaṃ, dukkhassa ca atikkamaṃ; Ariyaṃ caṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ, dukkhūpasamagāminaṃ. |
1259. Ngài thuyết Khổ, Khổ tập. Sự vượt qua đau khổ, Con đường đạo Tám ngành, Đưa đến khổ an chỉ. |
1271. Khổ, sự sanh lên của Khổ, sự vượt qua khỏi Khổ, và Thánh Đạo tám chi phần đưa đến sự yên lặng của Khổ. |
1269‘‘Evamete. tathā vuttā, diṭṭhā me te yathā tathā; Sadattho me anuppatto, kataṃ buddhassa sāsanaṃ. |
1260. Như vậy là những điều. Được nói lên như thật, Và ta được thấy họ Đúng như thật là vậy, Ta đạt được mục đích, Lời Phật dạy làm xong. |
1272. Những điều này đã được nói lên như vậy, những điều ấy đã được tôi nhìn thấy đúng theo như thế. Mục đích của bản thân đã được tôi thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành. |
1270‘‘Svāgataṃ. vata me āsi, mama buddhassa santike; Suvibhattesu [savibhattesu (sī. ka.)] dhammesu, yaṃ seṭṭhaṃ tadupāgamiṃ. |
1261. Thật tốt thay cho ta!. Được sống gần đức Phật, Trong các pháp phân tích, Pháp tối thượng, ta đến. |
1273. Quả thật, việc đi đến tốt đẹp đã có cho tôi về việc ở gần với đức Phật của tôi. Trong số các pháp đã được phân loại, tôi đã tiến gần đến pháp tối thượng. |
1271‘‘Abhiññāpāramippatto,. sotadhātu visodhitā; Tevijjo iddhipattomhi, cetopariyakovido. |
1262. Đại thắng trí tuyệt đích,. Thế giới được thanh tịnh, Đạt Ba minh, thần lực, Thiện xảo biết tâm người. |
1274. Tôi đã đạt được sự toàn hảo về Thắng Trí, nhĩ giới đã được trong sạch, có ba Minh, tôi đã đạt được thần thông, thiện xảo về tâm của người khác. |
|
Hỏi giáo thọ sư của mình là Nigrodha Kappa có nhập Niết-bàn khi mệnh chung: |
|
1272‘‘Pucchāmi. satthāramanomapaññaṃ, diṭṭheva dhamme yo vicikicchānaṃ chettā; Aggāḷave kālamakāsi bhikkhu, ñāto yasassī abhinibbutatto. |
1263. Con hỏi bậc Đạo Sư,. Bậc trí tuệ tối thắng Tại Aggàlava Tỷ-kheo đã mệnh chung, Có danh vọng danh xưng Nhập Niết-bàn tịch tịnh. |
1275. Tôi hỏi đấng Đạo Sư, bậc có trí tuệ tột đỉnh, về vị tỳ khưu đã từ trần ở Aggāḷava, là vị đã cắt đứt các sự hoài nghi ở thế giới hiện hữu, được biết tiếng, có danh vọng, có bản thể đã được tịch tịnh. |
1273‘‘Nigrodhakappo. iti tassa nāmaṃ, tayā kataṃ bhagavā brāhmaṇassa; So taṃ namassaṃ acari mutyapekho, āraddhavīriyo daḷhadhammadassī. |
1264. Nigrodha Kappa. Chính là tên vị ấy, Chính Thế Tôn đặt tên, Cho vị Phạm-chí ấy! Vị ấy đảnh lễ cầu Ngài, Sống tầm cầu giải thoát, Tinh cần và tinh tấn, Kiên cố thấy Chánh pháp. |
1276. Bạch đức Thế Tôn, Ngài đã đặt tên ‘Nigrodhakappa’ cho vị Bà-la-môn ấy. Vị ấy, mong mỏi sự giải thoát, trong lúc lễ bái Ngài, đã sống, có sự nỗ lực tinh tấn, có sự nhận thức vững chắc về Giáo Pháp. |
1274‘‘Taṃ. sāvakaṃ sakka mayampi sabbe, aññātumicchāma samantacakkhu; Samavaṭṭhitā no savanāya sotā [hetuṃ (sī. syā.) suttanipātaṭṭhakathā passitabbā], tuvaṃ no satthā tvamanuttarosi’’. |
1265. Bạch Thích-ca, chúng con. Đệ tử Ngài tất cả, Chúng con đều muốn biết, Thưa bậc Nhãn biến tri! An trú tai chúng con, Sẵn sàng để được nghe, Ngài Đạo Sư chúng con Ngài là bậc Vô thượng. |
1277. Bạch vị Sakya, tất cả chúng con cũng muốn được biết về vị Thinh Văn ấy. Bạch đấng Toàn Nhãn, những lỗ tai của chúng con là sẵn sàng cho việc nghe. Ngài là bậc Đạo Sư của chúng con. Ngài là bậc Vô Thượng. |
1275Chinda. no vicikicchaṃ brūhi metaṃ, parinibbutaṃ vedaya bhūripañña; Majjheva no bhāsa samantacakkhu, sakkova devāna sahassanetto. |
1266. Hãy đoạn nghi chúng con,. Hãy nói con vị ấy, Đã được tịch tịnh chưa? Bậc trí tuệ rộng lớn! Hãy nói giữa chúng con, Bậc có mắt cùng khắp, Như Thiên chủ Đế Thích, Lãnh đạo ngàn chư Thiên. |
1278. Xin Ngài hãy cắt đứt sự hoài nghi của chúng con, xin hãy nói cho con điều này. Bạch đấng có trí tuệ quảng đại, xin Ngài hãy cho biết về việc (vị ấy) đã được viên tịch Niết Bàn. Bạch đấng Toàn Nhãn, xin Ngài hãy nói ở ngay giữa chúng con, tựa như vị Trời Sakka có ngàn mắt ở giữa chư Thiên. |
1276‘‘Ye. keci ganthā idha mohamaggā, aññāṇapakkhā vicikicchaṭhānā; Tathāgataṃ patvā na te bhavanti, cakkhuñhi etaṃ paramaṃ narānaṃ. |
1267. Phàm những cột gút gì,. Ở đây, đường si ám, Dự phần với vô trí Trú xứ cho nghi hoặc, Gặp được đức Như Lai, Họ đều không còn nữa, Mắt này mắt tối thắng, Giữa cặp mắt loài người. |
1279. Ở đây, bất cứ những mối buộc thắt nào, những con đường của si mê, những phe nhóm của vô trí, những chỗ đứng của hoài nghi, sau khi đạt đến đức Như Lai, chúng đều không tồn tại, bởi vì con mắt ấy là vô thượng giữa những con người. |
1277‘‘No. ce hi jātu puriso kilese, vāto yathā abbhaghanaṃ vihāne; Tamovassa nivuto sabbaloko, jotimantopi na pabhāseyyuṃ [na jotimantopi narā tapeyyuṃ (su. ni. 350)]. |
1268. Nếu không có người nào,. Đoạn trừ các phiền não, Như gió thổi tiêu tan, Các tầng mây dưới thấp, Màn đêm tức bao trùm, Tất cả toàn thế giới, Những bậc có hào quang, Không có thể chói sáng. |
1280. Bởi vì nếu chắc chắn không có người tiêu diệt các phiền não, giống như làn gió làm tiêu tan đám mây, thì toàn bộ thế gian sẽ bị bao trùm bởi bóng tối, ngay cả những vị có hào quang (trí tuệ) cũng không thể phát sáng. |
1278‘‘Dhīrā. ca pajjotakarā bhavanti, taṃ taṃ ahaṃ vīra tatheva maññe; Vipassinaṃ jānamupāgamimha, parisāsu no āvikarohi kappaṃ. |
1269. Bậc trí là những vị,. Tạo ra những ánh sáng, Con xem ngài như vậy Ôi bậc trí sáng suốt. Chúng con đều cùng đến, Bậc tu hành thiền quán, Giữa hội chúng chúng con, Hãy nói về Kappa! |
1281. Và các bậc thông minh là những người tạo ra ánh sáng, vì thế, bạch đấng Anh Hùng, con nghĩ rằng Ngài là y như thế ấy. Chúng con đã đi đến với bậc có sự minh sát và sự hiểu biết, xin Ngài hãy giải thích về vị Kappa cho chúng con ở các hội chúng. |
1279‘‘Khippaṃ. giraṃ eraya vaggu vagguṃ, haṃsova paggayha saṇikaṃ nikūja; Bindussarena suvikappitena, sabbeva te ujjugatā suṇoma. |
1270. Hãy gấp, phát tiếng lên,. Tiếng âm thanh vi diệu, Như con chim thiên nga, Giương cổ lên để hát, Phát âm từng tiếng một, Với giọng khéo ngân nga, Tất cả bọn chúng con, Trực tâm nghe lời ngài. |
1282. Hỡi bậc có sự thu hút, xin Ngài hãy mau mau thốt lên giọng nói có sự thu hút, tựa như chim thiên nga rướn cổ, xin Ngài hãy dịu dàng thốt lên với âm thanh trọn vẹn khéo được điều khiển; toàn bộ tất cả chúng con đều tập trung lắng nghe. |
1280‘‘Pahīnajātimaraṇaṃ. asesaṃ, niggayha dhonaṃ vadessāmi [paṭivediyāmi (sī. ka.)] dhammaṃ; Na kāmakāro hi [hoti (sī. ka.)] puthujjanānaṃ, saṅkheyyakāro ca [va (bahūsu)] tathāgatānaṃ. |
1271. Vị đoạn tận sanh tử,. Không còn chút dư tàn, Vị tẩy sạch phiền não, Con cầu ngài thuyết pháp, Kẻ phàm phu không thể, Làm theo điều nó muốn, Bậc Như Lai làm được Điều được ước định làm. |
1283. Sau khi thúc giục bậc có sự sanh tử đã được dứt bỏ không còn dư sót, tôi thông báo đến bậc đã giũ bỏ (phiền não); bởi vì người có thể làm được điều mong muốn không có trong số các phàm nhân, và người hành động đúng theo dự tính chỉ có trong số các đức Như Lai. |
1281‘‘Sampannaveyyākaraṇaṃ. tavedaṃ, samujjupaññassa samuggahītaṃ; Ayamañjali pacchimo suppaṇāmito, mā mohayī jānamanomapañña. |
1272. Câu trả lời của ngài,. Thật đầy đủ trọn vẹn, Được chơn chánh nắm giữ, Bậc chánh trực trí tuệ, Hãy chấp tay cuối cùng, Con khéo vái chào ngài, Chớ làm con si ám, Bậc trí tuệ tối cao!. |
1284. Lời giải thích đầy đủ này của Ngài, bậc có trí tuệ ngay thẳng, đã được chấp nhận. Sự chắp tay sau cùng này đã được cúi chào tốt đẹp. Hỡi bậc có trí tuệ tột đỉnh, trong khi Ngài biết, xin Ngài chớ làm mê mờ. |
1282‘‘Paroparaṃ. ariyadhammaṃ viditvā, mā mohayī jānamanomavīriya; Vāriṃ yathā ghammani ghammatatto, vācābhikaṅkhāmi sutaṃ pavassa. |
1273. Sau khi đã được biết,. Thánh pháp thượng và hạ, Chớ làm con si ám, Bậc tinh tấn tối cao, Như vào giữa mùa hè, Nóng bức khát khao nước Chúng con ngóng trông lời, Hãy mưu sự hiểu biết!. |
1285. Hỡi đấng Anh Hùng tột bực, Ngài đã hiểu biết về Giáo Pháp cao thượng từ thấp đến cao, trong khi Ngài biết, xin Ngài chớ làm mê mờ. Con mong mỏi lời nói (của Ngài) giống như người có bản thân bị nóng bức trong lúc nóng nực mong mỏi nước; xin Ngài hãy đổ cơn mưa âm thanh. |
1283‘‘Yadatthikaṃ. brahmacariyaṃ acarī, kappāyano kaccissataṃ amoghaṃ; Nibbāyi so ādu saupādiseso [anupādisesā (sī.), anupādiseso (ka.)], yathā vimutto ahu taṃ suṇoma. |
1274. Kappa sống Phạm hạnh,. Nếp sống có mục đích, Phải chăng sống như vậy, Là sống không uổng phí! Vị ấy chứng tịch tịnh, Hay còn dư tàn lại, Được giải thoát thế nào, Hãy nói chúng con nghe. |
1286. Phải chăng vị Kappāyana đã sống Phạm hạnh với mục đích tốt đẹp, không phải rỗng không? Có phải vị ấy đã Niết Bàn (không còn dư sót), hay là vẫn còn dư sót? Vị ấy đã được giải thoát như thế nào, hãy cho chúng con được nghe điều ấy. |
|
Thế Tôn: |
(Lời của đức Thế Tôn) |
1284‘‘‘Acchecchi. taṇhaṃ idha nāmarūpe, (Iti bhagavā) kaṇhassa sotaṃ dīgharattānusayitaṃ; Atāri jātiṃ maraṇaṃ asesaṃ’, iccabravi bhagavā pañcaseṭṭho. |
1275. Vị ấy trên danh sắc. Đã đoạn tận tham ái, Thế Tôn ở nơi đây, Đã trả lời như vậy, Vượt qua được già chết, Không còn có dư tàn, Thế Tôn nói như vậy, Bậc tối thắng thứ năm. |
1287. ‘Vị ấy đã cắt đứt tham ái ở danh và sắc này, dòng nước tham ái đã được tiềm ẩn bấy lâu. Vị ấy đã vượt qua sự sanh và sự chết.’ Đức Thế Tôn, bậc đứng đầu về năm pháp, đã nói như thế. |
|
Vangìsa: |
|
1285‘‘Esa. sutvā pasīdāmi, vaco te isisattama; Amoghaṃ kira me puṭṭhaṃ, na maṃ vañcesi brāhmaṇo. |
1276. Nghe vậy, con tịnh tín,. Với lời nói của ngài, Bậc ẩn sĩ thứ bảy! Và lời hỏi của con, Không phải là vô ích! Và vị Bà-la-môn, Không có lừa dối con. |
1288. Bạch bậc Ẩn Sĩ tối thượng, sau khi nghe điều ấy, con tin tưởng vào lời nói của Ngài. Thật vậy, điều đã được con hỏi là không vô ích, vị Bà-la-môn đã không dối gạt con. |
1286‘‘Yathā. vādī tathā kārī, ahu buddhassa sāvako; Acchecchi maccuno jālaṃ, tataṃ māyāvino daḷhaṃ. |
1277. Nói gì thời làm vậy,. Thật xứng đệ tử Phật, Chặt đứt lưới rộng chắc, Của thần chết xảo quyệt. |
1289. Vị có lời nói như thế nào thì có hành động như thế ấy đã là đệ tử của đức Phật. Vị ấy đã cắt đứt tấm lưới chắc chắn của Thần Chết xảo quyệt đã được giăng ra. |
1287‘‘Addasa. bhagavā ādiṃ, upādānassa kappiyo; Accagā vata kappāno, maccudheyyaṃ suduttaraṃ. |
1278. Ôi Thế Tôn, Kappa,. Thấy căn nguyên chấp thủ, Thật sự đã vượt qua, Thế lực của Ma vương, Thế lực thật khó vượt. |
1290. Bạch đức Thế Tôn, vị Kappiya đã nhìn thấy sự khởi đầu của chấp thủ. Quả thật, vị Kappāna đã băng qua lãnh địa của Thần Chết, là nơi rất khó vượt qua. |
1288‘‘Taṃ. devadevaṃ vandāmi, puttaṃ te dvipaduttama; Anujātaṃ mahāvīraṃ, nāgaṃ nāgassa orasa’’nti. |
1279. Ngài lớn hơn chư Thiên,. Con đảnh lễ kính Ngài! Con đảnh lễ con Ngài! Bậc tối thượng hai chân Bậc Hậu duệ, Đại hùng! Bậc Long tượng đích tôn. |
1291. Hỡi bậc Tối Thượng của loài người, con đảnh lễ Ngài, vị Trời của chư Thiên, và người con trai của Ngài, đấng hậu duệ, vị đại anh hùng, bậc long tượng, dòng dõi chính thống của loài long tượng.” |
Itthaṃ sudaṃ āyasmā vaṅgīso thero gāthāyo |
Như vậy, Tôn giả Vangìsa nói lên những câu kệ của mình. |
Đại đức trưởng lão Vaṅgīsa đã nói những lời kệ như thế. |
Abhāsitthāti. |
|
TÓM LƯỢC NHÓM NÀY |
Mahānipāto niṭṭhito. |
|
“Ở nhóm Bảy Mươi, vị Vaṅgīsa có tài biện luận là vị trưởng lão độc nhất, không có vị nào khác, các câu kệ là bảy mươi mốt.” |
Tatruddānaṃ – |
|
Nhóm Lớn được chấm dứt. |
Sattatimhi nipātamhi, vaṅgīso paṭibhāṇavā; |
|
TÓM LƯỢC TÁC PHẨM NÀY |
Ekova thero natthañño, gāthāyo ekasattatīti. |
|
“Các kệ ngôn ấy là một ngàn hai trăm chín mươi mốt câu và các trưởng lão là hai trăm sáu mươi bốn vị đã được biết tiếng. Những người con trai của đức Phật, không còn lậu hoặc, sau khi rống lên tiếng rống của loài sư tử, sau khi đạt được sự an toàn ấy, đã Niết Bàn, tựa như đống lửa đã được diệt tắt.” |
Niṭṭhitā theragāthāyo. |
Hết, Trưởng Lão Tăng Kệ |
TRƯỞNG LÃO KỆ ĐƯỢC CHẤM DỨT. |
Tatruddānaṃ – |
|
|
Sahassaṃ honti tā gāthā, tīṇi saṭṭhisatāni ca; |
|
|
Therā ca dve satā saṭṭhi, cattāro ca pakāsitā. |
|
|
Sīhanādaṃ naditvāna, buddhaputtā anāsavā; |
|
|
Khemantaṃ pāpuṇitvāna, aggikhandhāva nibbutāti. |
|
|
Theragāthāpāḷi niṭṭhitā. |
|
|
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa |
|
|
Khuddakanikāye |
|
|