Tipitaka.org |
Việt dịch: HT. Thích Minh Châu |
Việt dịch: TK. Indacanda |
1. Tālapuṭattheragāthā |
(CCLXII) Tàlaputta (Thera. 97) |
Kệ ngôn của trưởng lão Tālapuṭa. |
|
Trong thời gian đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình kịch sĩ, trở thành thiện xảo trong nghề diễn kịch thích hợp với người trong gia tộc và trở thành lừng danh khắp Ấn Độ, như nhà lãnh đạo một ban hát với năm trăm nữ nhân, với sự huy hoàng của nghề kịch, ngài dự các lễ ở làng, ở thị trấn, ở cung điện vua, và rất được sủng ái và danh tiếng. Khi ngài trình diễn ở Ràjagaha với nhiều thành công, ngài đến yết kiến đức Phật và hỏi có phải một kịch sĩ khi trên sâu khấu giả danh sự thật, làm cho khán giả ưa thích, vui cười, người ấy sau khi chêt được sanh vào chư Thiên hay cười. Đức Phật ban đầu không trả lời. Đến khi hỏi lần thứ tư, đức Phật trả lời những ai khiến cho con người thiên về tình dục, tiêu cực tâm tư hoang mang khiến người ta mất nhiệt tình, người như vậy sau khi chết sẽ sinh vào địa ngục. Nhưng nếu có tà kiến thời bị sanh vào địa ngục và súc sanh. Tàlaputta khóc không phải vì đức Phật nói chỗ tái sanh, chỉ vì bị các kịch sĩ xưa lừa dối nói rằng kịch sĩ sẽ được sanh trong một đời sống hạnh phúc. |
|
|
Rồi Tàlaputta nghe lời đức Phật thuyết pháp, khởi lòng tin, xuất gia và sau một thời tu tập, chứng quả A-la-hán. Rồi nêu rõ với nhiều chi tiết, như thế nào ngài chế ngự và làm cho trong sạch tâm tư, đi đến chỗ giác ngộ thâm sâu, ngài nói lên những câu kệ như sau: |
|
1094‘‘Kadā. nuhaṃ pabbatakandarāsu, ekākiyo addutiyo vihassaṃ; Aniccato sabbabhavaṃ vipassaṃ, taṃ me idaṃ taṃ nu kadā bhavissati. |
1092. Khi nào ta sẽ đến,. Một mình, không có hai, Ở trong những hang động, Của các loại núi rừng, Ta quán mọi sanh hữu, Tất cả là vô thường, Nay ta là như vậy, Khi nào ta sẽ vậy? |
1096. “Khi nào tôi sẽ sống đơn độc một mình, không hai, ở những hang núi, đang nhìn thấy rõ tất cả hiện hữu là vô thường? Điều này đây là (suy nghĩ) của tôi, khi nào điều ấy sẽ trở thành hiện thực? |
1095‘‘Kadā. nuhaṃ bhinnapaṭandharo muni, kāsāvavattho amamo nirāso; Rāgañca dosañca tatheva mohaṃ, hantvā sukhī pavanagato vihassaṃ. |
1093. Khi nào ta sẽ là,. ẩn sĩ mang y vá, Mang y vải màu vàng, Không của ta, không ái, Đoạn trừ, diệt tham tâm, Đoạn luôn cả sân, si, Ta đi đến khu rừng, Sẽ trú trong an lạc. |
1097. Khi nào tôi (sẽ trở thành) vị hiền trí, mặc y vá bị rách rưới, với vải màu ca-sa, không sở hữu, không ham muốn, sau khi tiêu diệt luyến ái, sân hận, và si mê tương tự y như thế, rồi sẽ đi vào khu rừng sống có sự an lạc? |
1096‘‘Kadā. aniccaṃ vadharoganīḷaṃ, kāyaṃ imaṃ maccujarāyupaddutaṃ; Vipassamāno vītabhayo vihassaṃ, eko vane taṃ nu kadā bhavissati. |
1094. Khi nào ta thấy được. Thận này là vô thường, Bị chết già áp bức, Ổ giết chóc, bệnh tật Ta sẽ trú trong rừng, Một mình, quán vô úy Khi nào sẽ là vậy? |
1098. Khi nào tôi sẽ sống một mình, ở tại khu rừng, có sự sợ hãi đã được xa lìa, đang nhìn thấy rõ thân này là vô thường, hang ổ của sự hủy hoại và bệnh tật, bị áp chế bởi sự chết và sự già? Khi nào điều ấy sẽ trở thành hiện thực? |
1097‘‘Kadā. nuhaṃ bhayajananiṃ dukhāvahaṃ, taṇhālataṃ bahuvidhānuvattaniṃ; Paññāmayaṃ tikhiṇamasiṃ gahetvā, chetvā vase tampi kadā bhavissati. |
1095. Khi nào ta sẽ lấy. Gươm sắc bén trí tuệ, Chặt dây leo khát ái, Với nhiều dây chằng chịt, Sanh khởi lên sợ hãi, Mang đến sự khổ đau. Khi nào sẽ là vậy? |
1099. Khi nào tôi sẽ sống, sau khi cầm lấy cây gươm sắc bén làm bằng trí tuệ cắt đứt nhánh dây leo tham ái, nguồn sanh ra sợ hãi, vật đem lại khổ đau, có sự đeo bám với nhiều hình thức? Khi nào điều ấy sẽ trở thành hiện thực? |
1098‘‘Kadā. nu paññāmayamuggatejaṃ, satthaṃ isīnaṃ sahasādiyitvā; Māraṃ sasenaṃ sahasā bhañjissaṃ, sīhāsane taṃ nu kadā bhavissati. |
1096. Khi nào ta sẽ là,. Có sức mạnh rút gươm, Gươm do tuệ tạo thành, Là lửa sáng ẩn sĩ; Với sức mạnh đập tan Ác ma với Ma quân Trên chỗ ngồi sư tử, Khi nào sẽ là vậy? |
1100. Khi nào tôi sẽ mạnh dạn cầm lấy con dao làm bằng trí tuệ, có quyền uy nổi trội của các vị ẩn sĩ và sẽ mạnh dạn đánh tan Ma Vương cùng với đạo quân binh nơi bảo tọa sư tử? Khi nào điều ấy sẽ trở thành hiện thực? |
1099‘‘Kadā. nuhaṃ sabbhi samāgamesu, diṭṭho bhave dhammagarūhi tādibhi; Yāthāvadassīhi jitindriyehi, padhāniyo taṃ nu kadā bhavissati. |
1097. Khi nào ta sẽ được. Hội tụ với bậc thiện, Được thấy giữa các vị, Đảm nhận các trọng pháp, Tinh cần với các vị, Thấy sự vật như thật, Chiến thắng được các căn Khi nào sẽ là vậy? |
1101. Khi nào ở các cuộc tụ hội của các bậc đức hạnh, tôi có thể được các vị có lòng tôn kính Giáo Pháp như thế ấy, có quan điểm đúng theo sự thật, có các giác quan đã được chế ngự, ghi nhận là có sự nỗ lực? Khi nào điều ấy sẽ trở thành hiện thực? |
1100‘‘Kadā. nu maṃ tandi khudā pipāsā, vātātapā kīṭasarīsapā vā; Na bādhayissanti na taṃ giribbaje, atthatthiyaṃ taṃ nu kadā bhavissati. |
1098. Khi nào nhác đói khát. Gió, nóng, trùng bò sát, Sẽ không não hại ta, Ở Gi-ri-bhaje, Đang lo đến tự ngã, Khi nào sẽ là vậy? |
1102. Khi nào các sự mệt mỏi, đói, khát, gió, nóng, hoặc các loài sâu bọ, rắn rết sẽ không quấy rối tôi, điều ấy ở Giribbaja là không tốt cho mục đích? Khi nào điều ấy sẽ trở thành hiện thực? |
1101‘‘Kadā. nu kho yaṃ viditaṃ mahesinā, cattāri saccāni sududdasāni; Samāhitatto satimā agacchaṃ, paññāya taṃ taṃ nu kadā bhavissati. |
1099. Khi nào ta có thể. Chánh niệm, gã định tĩnh Hiểu được với trí tuệ, Bốn sự thật khéo giảng, Bởi bậc Đại ẩn sĩ, Khi nào sẽ là vậy? |
1103. Khi nào, với bản thân đã được định tĩnh, có niệm, tôi sẽ đạt đến bằng trí tuệ điều đã được thấu triệt bởi bậc Đại Ẩn Sĩ, (tức là) bốn Sự Thật rất khó nhận thức? Khi nào điều ấy sẽ trở thành hiện thực? |
1102‘‘Kadā. nu rūpe amite ca sadde, gandhe rase phusitabbe ca dhamme; Ādittatohaṃ samathehi yutto, paññāya dacchaṃ tadidaṃ kadā me. |
1100. Khi nào ta sẽ chuyên. Chú tâm vào an chỉ, Thấy được với trí tuệ, Sắc, thanh, hương, vị, xúc, Các pháp vô thường này, Như lửa cháy hừng đỏ, Khi nào ta sẽ vậy? |
1104. Khi nào được gắn bó với các sự vắng lặng, tôi sẽ nhìn thấy bằng trí tuệ vô số các sắc, các thinh, các hương, các vị, các xúc, và các pháp là bị cháy rực? Khi nào điều này đây đối với tôi (sẽ trở thành hiện thực)? |
1103‘‘Kadā. nuhaṃ dubbacanena vutto, tatonimittaṃ vimano na hessaṃ; Atho pasatthopi tatonimittaṃ, tuṭṭho na hessaṃ tadidaṃ kadā me. |
1101. Khi nào ta bị nói,. Với lời nói thô ác, Không vì lý do ấy, Tâm trí bị thất vọng. Khi được lời tán thán, Không vì lý do ấy, Tâm tư được thỏa mãn. Khi nào ta sẽ vậy? |
1105. Khi nào bị nói bằng lời nói thô lỗ, do hiện tượng ấy, tôi sẽ không trở nên phật ý, và ngay cả khi được ca ngợi, do hiện tượng ấy, tôi sẽ không trở nên hớn hở? Khi nào điều này đây đối với tôi (sẽ trở thành hiện thực)? |
1104‘‘Kadā. nu kaṭṭhe ca tiṇe latā ca, khandhe imehaṃ amite ca dhamme; Ajjhattikāneva ca bāhirāni ca, samaṃ tuleyyaṃ tadidaṃ kadā me. |
1102. Khi nào nhiều như củi,. Cỏ, cây leo, thân cây, Ta cân nhắc bình đẳng, Những pháp vô lượng này, Nội pháp và ngoại pháp, Khi nào ta sẽ vậy? |
1106. Khi nào tôi có thể xem các nhánh củi, các cọng cỏ, các dây leo, các uẩn này, và vô lượng các pháp, thuộc về nội phần luôn cả ngoại phần, là như nhau? Khi nào điều này đây đối với tôi (sẽ trở thành hiện thực)? |
1105‘‘Kadā. nu maṃ pāvusakālamegho, navena toyena sacīvaraṃ vane; Isippayātamhi pathe vajantaṃ, ovassate taṃ nu kadā bhavissati. |
1103. Khi nào mây đem mưa,. Với nước mới trong rừng, Làm ướt y áo ta, Ta đi trên đường ướt, Con đường ẩn sĩ đi. Khi nào sẽ là vậy? |
1107. Khi nào đám mây đen thuộc mùa mưa với nước mới sẽ đổ mưa xuống tôi cùng với y áo trong khi tôi đang ở trong rừng bước đi trên đạo lộ đã được các bậc ẩn sĩ tiến bước? Khi nào điều ấy sẽ trở thành hiện thực? |
1106‘‘Kadā. mayūrassa sikhaṇḍino vane, dijassa sutvā girigabbhare rutaṃ; Paccuṭṭhahitvā amatassa pattiyā, saṃcintaye taṃ nu kadā bhavissati. |
1104. Khi nào nghe trong rừng,. Tiếng kêu của loài chim, Chim công, có mào đầu. Trong hang động núi rừng, Ta an trú suy tư, Để đạt quả bất tử, Khi nào ta sẽ vậy? |
1108. Khi nào, sau khi nghe được tiếng kêu của chim công ở trong hang núi, loài chim có mào ở trong rừng, tôi sẽ thức dậy và tự suy nghiệm về sự chứng đạt Bất Tử? Khi nào điều ấy sẽ trở thành hiện thực? |
1107‘‘Kadā. nu gaṅgaṃ yamunaṃ sarassatiṃ, pātālakhittaṃ vaḷavāmukhañca [balavāmukhañca (ka.)]; Asajjamāno patareyyamiddhiyā, vibhiṃsanaṃ taṃ nu kadā bhavissati. |
1105. Khi nào với thần thông,. Ta có thể vượt qua, Không chìm, không sợ hãi, Sông Hằng, Yamunà, Sông Sarasvati, Với cửa sông hãi hùng, Với nước ào vực sâu, Khi nào sẽ là vậy? |
1109. Khi nào tôi sẽ vượt qua sông Gaṅgā, sông Yamunā, sông Sarassatī, vực thẳm của trái đất, và cửa ngõ vào địa ngục bằng thần thông, không bị trở ngại, không có hãi sợ? Khi nào điều ấy sẽ trở thành hiện thực? |
1108‘‘Kadā. nu nāgova asaṅgacārī, padālaye kāmaguṇesu chandaṃ; Nibbajjayaṃ sabbasubhaṃ nimittaṃ, jhāne yuto taṃ nu kadā bhavissati. |
1106. Khi nào, như con voi,. Trên chiến trường tấn công, Ta sẽ phá tan tành, Lòng dục đối dục cảnh, Chuyên chú trong thiền định, Từ bỏ mọi tịnh tướng, Khi nào sẽ là vậy? |
1110. Khi nào, trong khi xa lánh tất cả hiện tướng mỹ miều, được gắn bó với thiền, tôi sẽ phá tan lòng ham muốn ở năm loại dục, tựa như con voi có sự di chuyển không bị ràng buộc? Khi nào điều ấy sẽ trở thành hiện thực? |
1109‘‘Kadā. iṇaṭṭova daliddako [daḷiddako (sī.)] nidhiṃ, ārādhayitvā dhanikehi pīḷito; Tuṭṭho bhavissaṃ adhigamma sāsanaṃ, mahesino taṃ nu kadā bhavissati. |
1107. Khi nào như người nghèo. Mắc nợ chưa trả được, Bị kẻ giàu thúc bách, Tìm ra được của chôn, Ta sẽ được thoải mái, Họ được lời giảng dạy, Của vị Đại ẩn sĩ, Khi nào sẽ được vậy? |
1111. Khi nào tôi sẽ được vui mừng sau khi đã chứng đắc Giáo Pháp của bậc Đại Ẩn Sĩ, tựa như người nghèo khó, bị mắc nợ, bị áp bức bởi những kẻ có tài sản, sẽ được vui mừng sau khi tìm ra của cất giấu? Khi nào điều ấy sẽ trở thành hiện thực? |
1110‘‘Bahūni. vassāni tayāmhi yācito, ‘agāravāsena alaṃ nu te idaṃ’; Taṃ dāni maṃ pabbajitaṃ samānaṃ, kiṃkāraṇā citta tuvaṃ na yuñjasi. |
1108. Nhiều năm ta được ngươi,. Yêu cầu làm như sau: Như vậy là vừa rồi, Ngươi sống đời gia đình, Nay ta đã xuất gia, Do vậy, hỡi này tâm, Do vì lý do gì, Ngươi không có chuyên tâm? |
1112. Trong nhiều năm, ta đã được ngươi yêu cầu rằng: ‘Điều này đối với ngài là quá đủ về việc sống ở gia đình!’ Việc ấy, giờ đây, trong khi ta đã xuất gia, này tâm, vì lý do gì mà ngươi không khích lệ? |
1111‘‘Nanu. ahaṃ citta tayāmhi yācito, ‘giribbaje citrachadā vihaṅgamā’; Mahindaghosatthanitābhigajjino, te taṃ ramessanti vanamhi jhāyinaṃ. |
1109. Này tâm, phải chăng ngươi,. Yêu cầu ta như sau: Tại Giribbaje Loài chim có lông sáng, Đón chào với tiếng kêu, Sấm của Đại In-da. Hãy làm vị ấy vui, Đang tu thiền trong rừng. |
1113. Này tâm, không phải là ta đã được ngươi yêu cầu rằng: ‘Ở Giribbaja, những con chim có cánh nhiều màu sắc, có sự kêu gào bởi tiếng sấm của vị Thần Inda vĩ đại, chúng sẽ làm ngài vui thích, khi ngài tham thiền ở trong rừng?’ |
1112‘‘Kulamhi. mitte ca piye ca ñātake, khiḍḍāratiṃ kāmaguṇañca loke; Sabbaṃ pahāya imamajjhupāgato, athopi tvaṃ citta na mayha tussasi. |
1110. Trong gia đình, bạn bè,. Người yêu và bà con, Các du hí ở đời, Các đối tượng của dục, Tất cả đều từ bỏ, Ta chấp nhận thế này. Hỡi này tâm, ngươi không Bằng lòng với ta chăng? |
1114. Sau khi đã lìa bỏ tất cả, bạn bè, các người yêu quý, và các thân quyến ở gia đình, thú vui và ngũ dục ở thế gian, ta đã đi đến nơi này; này tâm, như thế ngươi cũng chưa được hài lòng đối với ta sao? |
1113‘‘Mameva. etaṃ na hi tvaṃ paresaṃ, sannāhakāle paridevitena kiṃ; Sabbaṃ idaṃ calamiti pekkhamāno, abhinikkhamiṃ amatapadaṃ jigīsaṃ. |
1111. Việc này chỉ vì ta,. Đây không vì người khác, Khi đến thời vũ trang, Sao lại còn than khóc? Thế giới này toàn động, Chờ đợi là như vậy. Nên ta đã ra đi, Tìm cầu đạo bất tử. |
1115. Việc này chỉ liên quan đến ta, do đó không có ngươi và các thứ khác. Vào thời điểm mặc áo giáp, việc gì với sự than vãn? Trong khi xem xét rằng: ‘Mọi thứ này là dao động,’ ta đã ra đi tầm cầu vị thế Bất Tử. |
1114‘‘Suyuttavādī. dvipadānamuttamo, mahābhisakko naradammasārathi [sārathī (sī.)]; ‘Cittaṃ calaṃ makkaṭasannibhaṃ iti, avītarāgena sudunnivārayaṃ’. |
1112. Vị nói điều khó nói,. Tối thượng loài hai chân, Bậc Y vương vĩ đại, Đánh xe điều ngự người, Với tâm không tham dục, Ngài khéo chế ngự được, Người khó lòng chế ngự, Chế ngự được tâm người, Vọng động như con vượn. |
1116. Vị tuyên thuyết về lời đã khéo được thuyết giảng, bậc tối thượng của loài hai chân, vị thầy thuốc vĩ đại, đấng Điều Ngự Trượng Phu (đã nói rằng): ‘Tâm thì dao động tương tự con khỉ, với người có sự luyến ái chưa được xa lìa thì việc chế ngự vô cùng khó khăn.’ |
1115‘‘Kāmā. hi citrā madhurā manoramā, aviddasū yattha sitā puthujjanā; Te dukkhamicchanti punabbhavesino, cittena nītā niraye nirākatā. |
1113. Các dục có nhiều vẻ.. Dịu ngọt, rất khả ý, Ở đây, hàng phàm phu, Vô trí, bị trói buộc. Họ muốn chịu đau khổ, Khi họ tìm tái sanh, Dắt dẫn bởi tâm họ, Họ chết trong địa ngục. |
1117. Bởi vì các dục là đa dạng, ngọt ngào, làm thích ý, các phàm nhân ngu si bị dính chặt vào chúng. Những kẻ ấy mong muốn khổ đau, có sự tầm cầu việc tái sanh, bị tâm dẫn dắt, xô đẩy vào địa ngục. |
1116‘‘‘Mayūrakoñcābhirutamhi. kānane, dīpīhi byagghehi purakkhato vasaṃ; Kāye apekkhaṃ jaha mā virādhaya’, itissu maṃ citta pure niyuñjasi. |
1114. Trong khu rừng vang lên,. Tiếng chim công, chim cò, Chỗ trú xứ ưu tiên, Của loài beo, loài cọp, Ngươi sống tại chỗ ấy, Chớ chờ đợi về thân, Chớ có quá đam mê, Này tâm, hãy khích lệ, Hãy khuyên ta như trước, |
1118. ‘Ở khu rừng được kêu vang bởi các loài chim công, chim cò, trong khi sống được tôn vinh bởi những con báo, bởi những con hổ, ngài hãy từ bỏ sự mong mỏi ở thân, chớ lơi lỏng,’ này tâm, ngươi thường khích lệ ta trước đây như thế. |
1117‘‘‘Bhāvehi. jhānāni ca indriyāni ca, balāni bojjhaṅgasamādhibhāvanā; Tisso ca vijjā phusa buddhasāsane’, itissu maṃ citta pure niyuñjasi. |
1115. Hãy tu thiền, căn, lực. Hãy tu định giác chi, Hãy giác chứng ba minh, Trong lời dạy đức Phật, Này tâm, hãy khích lệ, Hãy khuyên ta như trước. |
1119. ‘Ngài hãy tu tập các thiền và các quyền, các lực, các chi phần đưa đến giác ngộ, các sự tu tập về định, và hãy chạm đến ba Minh trong Giáo Pháp của đức Phật,’ này tâm, ngươi thường khích lệ ta trước đây như thế. |
1118‘‘‘Bhāvehi. maggaṃ amatassa pattiyā, niyyānikaṃ sabbadukhakkhayogadhaṃ; Aṭṭhaṅgikaṃ sabbakilesasodhanaṃ’, itissu maṃ citta pure niyuñjasi. |
1116. Hãy tu tập con đường. Để đạt được bất tử, Đường đưa đến thể nhập, Chỗ đoạn diệt mọi khổ. Con đường có tám ngành, Rửa sạch mọi uế nhiễm. Này tâm, hãy khích lệ, Hãy khuyên ta như trước. |
1120. ‘Ngài hãy tu tập đạo lộ đưa đến sự đạt được Bất Tử, có sự dẫn dắt ra khỏi, có sự đi sâu vào việc cạn kiệt tất cả khổ đau, có tám chi phần, có sự rửa sạch tất cả phiền não,’ này tâm, ngươi thường khích lệ ta trước đây như thế. |
1119‘‘‘Dukkhanti. khandhe paṭipassa yoniso, yato ca dukkhaṃ samudeti taṃ jaha; Idheva dukkhassa karohi antaṃ’, itissu maṃ citta pure niyuñjasi. |
1117. Hãy như lý quán sát,. Các uẩn là đau khổ, Hãy từ bỏ xa ngươi, Những nguyên nhân đau khổ. Ngay trong thời hiện tại, Hãy chấm dứt đau khổ, Này tâm, hãy khích lệ, Hãy khuyên ta như trước. |
1121. ‘Ngài hãy xem xét theo đúng đường lối rằng các uẩn là khổ đau, và từ đó khổ đau sanh lên, ngài hãy từ bỏ nó; ngay tại nơi đây, ngài hãy thực hiện việc chấm dứt khổ đau,’ này tâm, ngươi thường khích lệ ta trước đây như thế. |
1120‘‘‘Aniccaṃ. dukkhanti vipassa yoniso, suññaṃ anattāti aghaṃ vadhanti ca; Manovicāre uparundha cetaso’, itissu maṃ citta pure niyuñjasi. |
1118. Hãy như lý tuệ quán,. Là vô thường, là khổ, Là không, là vô ngã, Là tà ác, sát hại, Hãy chế ngự tâm ngươi, Chớ để nó chạy loạn. Này tâm, hãy khích lệ, Hãy khuyên ta như trước. |
1122. ‘Ngài hãy nhìn thấy rõ theo đúng đường lối là vô thường, là khổ đau, là không, là vô ngã, là bất hạnh, là hủy hoại; ngài hãy ngưng lại các sự lang thang của ý thuộc về tâm,’ này tâm, ngươi thường khích lệ ta trước đây như thế. |
1121‘‘‘Muṇḍo. virūpo abhisāpamāgato, kapālahatthova kulesu bhikkhasu; Yuñjassu satthuvacane mahesino’, itissu maṃ citta pure niyuñjasi. |
1119. Trọc đầu và xấu sắc,. Đi đến bị nguyền rủa, Khi khất thực gia đình, Tay cầm hình đầu lâu, Nay ngươi có chú tâm, Vào lời dạy Bổn Sư, Vào lời Đại ẩn sĩ, Này tâm, hãy khích lệ Hãy khuyên ta như trước. |
1123. ‘Đầu cạo, có sự hủy tướng, đã đi đến với sự mắng nhiếc, chỉ có cái bát ở bàn tay, ngài hãy khất thực ở những gia đình; ngài hãy gắn bó với lời dạy của bậc Đạo Sư, của vị Đại Ẩn Sĩ,’ này tâm, ngươi thường khích lệ ta trước đây như thế. |
1122‘‘‘Susaṃvutatto. visikhantare caraṃ, kulesu kāmesu asaṅgamānaso; Cando yathā dosinapuṇṇamāsiyā’, itissu maṃ citta pure niyuñjasi. |
1120. Hãy đi trên con đường,. Tự ngã khéo chế ngự, Giữa các nhà, tâm ý Không ái luyến các dục, Như trăng vào tháng tròn, Không có bợn mây mù. Này tâm, hãy khích lệ, Hãy khuyên ta như trước. |
1124. ‘Có bản thân đã khéo được thu thúc, trong khi đi giữa đường ở nơi các gia đình, với tâm ý không bám víu ở các dục, giống như mặt trăng ở vào tháng sáng lạng và đầy đặn,’ này tâm, ngươi thường khích lệ ta trước đây như thế. |
1123‘‘‘Āraññiko. hohi ca piṇḍapātiko, sosāniko hohi ca paṃsukūliko; Nesajjiko hohi sadā dhute rato’, itissu maṃ citta pure niyuñjasi. |
1121. Hãy sống trong rừng núi,. Ăn đồ ăn khất thực, Sống tại chỗ nghĩa địa, Mặc y lượm đống rác. Chỉ có ngồi không nằm Luôn vui hạnh Đầu-đà, Này tâm, hãy khích lệ, Hãy khuyên ta như trước. |
1125. ‘Ngài hãy là vị ngụ ở rừng và chuyên đi khất thực, hãy là vị ngụ ở mộ địa và mặc y may bằng vải bị quăng bỏ, hãy là vị chuyên về oai nghi ngồi (không nằm), luôn luôn được vui thích ở hạnh từ khước,’ này tâm, ngươi thường khích lệ ta trước đây như thế. |
1124‘‘Ropetva. rukkhāni yathā phalesī, mūle taruṃ chettu tameva icchasi; Tathūpamaṃ cittamidaṃ karosi, yaṃ maṃ aniccamhi cale niyuñjasi. |
1122. Như người đã trồng cây,. Liền tìm cho được trái, Nay ngươi ước muốn trái, Há chặt rễ cây sao? Này tâm, thật giống như, Ví dụ ngươi đã làm, Khi ngươi khích lệ ta, Trong vô thường dao động. |
1126. Giống như người tầm cầu trái cây, sau khi gieo trồng các cây, có phải ngươi muốn chặt chính cái cây ấy ở gốc rễ? Này tâm, ngươi đã làm điều tương tự như thế, là việc ngươi khích lệ ta về vô thường, về dao động. |
1125‘‘Arūpa. dūraṅgama ekacāri, na te karissaṃ vacanaṃ idānihaṃ; Dukkhā hi kāmā kaṭukā mahabbhayā, nibbānamevābhimano carissaṃ. |
1123. Ngươi, vô sắc, cô độc,. Kẻ lữ hành từ xa, Nay ta sẽ không làm, Theo lời nói của ngươi. Các dục là khổ đau, Cay đắng, sợ hãi lớn, Tâm hướng vọng Niết-bàn, Ta sẽ bước, đi tới. |
1127. Này kẻ vô hình, kẻ đi xa, kẻ bước đi một mình, giờ đây ta sẽ không làm theo lời nói của ngươi, bởi vì các dục là khổ đau, cay đắng, có nỗi sợ hãi lớn lao, ta sẽ sống, có tâm hướng đến chỉ mỗi Niết Bàn. |
1126‘‘Nāhaṃ. alakkhyā ahirikkatāya vā, na cittahetū na ca dūrakantanā; Ājīvahetū ca ahaṃ na nikkhamiṃ, kato ca te citta paṭissavo mayā. |
1124. Ta đi tới xuất gia,. Không phải vì bất hạnh, Không đùa vô liêm sỉ, Không vì duyên tâm hứng, Không bị đày đi xa, Không vì nhân mạng sống, Khi ta đã bằng lòng, Này tâm, đối với ngươi. |
1128. Ta đã ra đi, không phải vì bất hạnh hoặc vì đã làm điều vô liêm sỉ, không phải vì lý do (bốc đồng) của tâm, không phải vì bị đày đi xa, không phải vì lý do nuôi mạng, này tâm, ta đã thực hiện lời hứa đối với ngươi. |
1127‘‘‘Appicchatā. sappurisehi vaṇṇitā, makkhappahānaṃ vūpasamo dukhassa’; Itissu maṃ citta tadā niyuñjasi, idāni tvaṃ gacchasi pubbaciṇṇaṃ. |
1125. Ít dục được tán dương,. Bởi những bậc chân nhân, Kể cả đoạn giả dối, Và an tịnh đau khổ. Như vậy, hỡi này tâm, Khi ngươi khích lệ ta, Còn nay ngươi đi ngược, Điều ngươi trước quen làm. |
1129. ‘Tánh ít ham muốn, việc dứt bỏ sự gièm pha, sự lắng dịu của khổ đau là được ca ngợi bởi các bậc thiện nhân,’ này tâm, vào lúc đó ngươi khích lệ ta như thế, giờ đây ngươi đi theo lối đã thực hành trước đây. |
1128‘‘Taṇhā. avijjā ca piyāpiyañca, subhāni rūpāni sukhā ca vedanā; Manāpiyā kāmaguṇā ca vantā, vante ahaṃ āvamituṃ na ussahe. |
1126. Khát ái và vô minh,. Đáng thương và đáng ghét, Sắc đẹp và lạc thọ, Dục trưởng dưỡng hấp dẫn, Tất cả đã quăng bỏ, Ta không có cố gắng, Đi đến một lần nữa, Những đồ đã quăng bỏ. |
1130. Tham ái và vô minh, đáng yêu và không đáng yêu, các sắc mỹ miều và các cảm thọ khoái lạc, và các loại dục làm thích ý đã được ói mửa ra, ta không thể ra sức nuốt vào các thứ đã được ói mửa ra. |
1129‘‘Sabbattha. te citta vaco kataṃ mayā, bahūsu jātīsu na mesi kopito; Ajjhattasambhavo kataññutāya te, dukkhe ciraṃ saṃsaritaṃ tayā kate. |
1127. Này tâm, khắp mọi nơi,. Ta làm theo lời ngươi, Trải qua nhiều đời sống, Ngươi không tức giận ta, Và thân nội sanh này, Là lòng ngươi biết ơn! Trên đường luân hồi dài, Khổ do chính ngươi tạo. |
1131. Này tâm, lời nói của ngươi đã được ta thực hiện khắp mọi nơi, ngươi đã không bị tức giận với ta trong nhiều kiếp sống, sự hình thành nội tâm là nhờ vào lòng biết ơn của ngươi, trong khi (ta) bị luân hồi dài lâu, khổ đau đã được tạo ra là do ngươi. |
1130‘‘Tvaññeva. no citta karosi brāhmaṇo [brāhmaṇe (sī.), brāhmaṇaṃ (?) bhāvalopa-tappadhānatā gahetabbā], tvaṃ khattiyo rājadasī [rājadisī (syā. ka.)] karosi; Vessā ca suddā ca bhavāma ekadā, devattanaṃ vāpi taveva vāhasā. |
1128. Này tâm, chính ngươi làm. Tác thành con người ta, Chính ngươi làm, ta thành, Thành một Bà-la-môn, Thành vua chúa hoàng tộc, Một ngày là người buôn, Ngày kia thành nô tỳ, Hoặc thành loại chư Thiên. Tất cả đều do ngươi, Chính do ngươi tác thành. |
1132. Này tâm, chính ngươi làm chúng ta trở thành Bà-la-môn, ngươi làm cho trở thành vị Sát-đế-lỵ, hoặc ẩn sĩ của hoàng gia, một thời chúng ta là các thương buôn và các nô lệ, hoặc thậm chí bản thể chư Thiên cũng do chính ngươi thôi. |
1131‘‘Taveva. hetū asurā bhavāmase, tvaṃmūlakaṃ nerayikā bhavāmase; Atho tiracchānagatāpi ekadā, petattanaṃ vāpi taveva vāhasā. |
1129. Chính do nhân nhà ngươi,. Chúng ta thành Tu-la, Chính do ngươi tác thành, Ta rơi đáy địa ngục; Một thời thành súc sanh, Một thời thành ngạ quỷ, Tất cả đều do ngươi, Chính do ngươi tác thành. |
1133. Với lý do chính vì ngươi, chúng ta trở thành các A-tu-la, có nguồn gốc là ngươi, chúng ta trở thành các người địa ngục, rồi một thời còn là các súc sanh, hoặc thậm chí bản thể ngạ quỷ cũng do chính ngươi thôi. |
1132‘‘Nanu. dubbhissasi maṃ punappunaṃ, muhuṃ muhuṃ cāraṇikaṃva dassayaṃ; Ummattakeneva mayā palobhasi, kiñcāpi te citta virādhitaṃ mayā. |
1130. Ngươi sẽ không lừa ta,. Nhiều lần, nhiều thời nữa, Như những người phù thủy, Bày các trò ảo thuật, Ngươi chơi lừa phỉnh ta, Như chơi với người điên, Này tâm, hãy nói ta, Chỗ nào ta lỗi lầm. |
1134. Không lẽ ngươi sẽ lừa gạt ta lần này lần khác, như là đang phô bày cái mặt nạ vào lúc này lúc khác, ngươi đùa giỡn với ta như là đùa giỡn với kẻ điên khùng, này tâm, ta đã bị sai sót bất cứ điều gì đối với ngươi? |
1133‘‘Idaṃ. pure cittamacāri cārikaṃ, yenicchakaṃ yatthakāmaṃ yathāsukhaṃ; Tadajjahaṃ niggahessāmi yoniso, hatthippabhinnaṃ viya aṅkusaggaho. |
1131. Trước tâm này lang thang,. Chạy chỗ này chỗ khác, Chạy chỗ nó ưa thích, Chạy chỗ nó vui sướng, Nay ta chế ngự tâm, Với như lý tư duy, Như câu móc chế ngự, Nhiếp phục con voi rừng. |
1135. Trước đây, cái tâm này đã du hành lang thang bằng cách nào theo ý thích, đến nơi nào theo ước muốn, một cách thoải mái, giờ đây tôi sẽ chế ngự nó theo đúng đường lối, tựa như người cầm móc câu chế ngự con voi bị phát dục.[21] |
1134‘‘Satthā. ca me lokamimaṃ adhiṭṭhahi, aniccato addhuvato asārato; Pakkhanda maṃ citta jinassa sāsane, tārehi oghā mahatā suduttarā. |
1132. Với ta, bậc Đạo Sư,. Xác định đời vô thường, Đời không có trường cửu, Đời không có kiên thực. Này tâm, hãy đẩy ta, Nhảy vào lời Phật dạy, Khiến ta vượt bộc lưu, Rất khó được vượt qua. |
1136. Và bậc Đạo Sư của ta đã khẳng định thế gian này là vô thường, không trường cửu, không cốt lõi. Này tâm, ngươi hãy lao vào Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, hãy giúp cho ta vượt qua dòng lũ lớn rất khó vượt qua. |
1135‘‘Na. te idaṃ citta yathā purāṇakaṃ, nāhaṃ alaṃ tuyha vase nivattituṃ [vasena vattituṃ (?)]; Mahesino pabbajitomhi sāsane, na mādisā honti vināsadhārino. |
1133. Ta nay đã xuất gia,. Trong pháp Đại ẩn sĩ Những người giống như ta, Không chấp nhận tổn thất. |
1137. Này tâm, điều này đối với ngươi không giống như trước đây, ta không thể quay về trong sự khống chế của ngươi, ta đã xuất gia trong Giáo Pháp của bậc Đại Ẩn Sĩ, những người như ta không gánh chịu sự tổn hại. |
1136‘‘Nagā. samuddā saritā vasundharā, disā catasso vidisā adho divā; Sabbe aniccā tibhavā upaddutā, kuhiṃ gato citta sukhaṃ ramissasi. |
1134. Rừng, biển, sông, đất liền,. Bốn phương, phụ trên dưới, Tất cả là vô thường, Ba hữu là hoạn nạn, Này tâm, hãy đi đâu? Ngươi sẽ hưởng an lạc. |
1138. Các núi, các biển, các dòng sông, trái đất, bốn hướng chính, các hướng phụ, phần bên dưới, các thế giới chư Thiên, tất cả ba cõi đều vô thường, bị áp chế; này tâm, ngươi sẽ đi đến đâu vui thích khoái lạc? |
1137‘‘Dhitipparaṃ. kiṃ mama citta kāhisi, na te alaṃ citta vasānuvattako; Na jātu bhastaṃ ubhatomukhaṃ chupe, dhiratthu pūraṃ nava sotasandaniṃ. |
1135. Kìa, kìa, hỡi này tâm,. Đích ta thật vững chắc, Người sẽ làm được gì, Khiến ta phải quay lại, Này tâm, ta đâu còn, Tùy thuộc thế lực ngươi, Không ai chịu xúc chạm, Cái bị có hai miệng, Gớm ghiếc thay cái vật, Đầy chín dòng chảy nước. |
1139. Này tâm, ta là người có sự vững chãi là mục đích tối hậu, ngươi sẽ làm gì ta? Này tâm, ta không còn là kẻ đi theo sự khống chế của ngươi. Đương nhiên, không nên chạm đến túi da có miệng ở hai đầu, thật ghê tởm cái vật chứa đầy chín dòng chảy! |
1138‘‘Varāhaeṇeyyavigāḷhasevite,. pabbhārakuṭṭe pakateva sundare; Navambunā pāvusasitthakānane, tahiṃ guhāgehagato ramissasi. |
1136. Ôi, ngươi sẽ ưa sống,. Trên đảnh sườn núi cao, Chỗ ở đàn heo nai, Hay cảnh đẹp thiên nhiên, Hay trong núi rừng sâu, Thấm mát mưa nước mới, Tại đấy ngươi sẽ thích, Ngươi lấy hang làm nhà. |
1140. Ở dốc núi và chóp đỉnh rất thiên nhiên và xinh đẹp, bị xâm nhập, lai vãng bởi loài heo rừng và linh dương, ở khu rừng được rưới rắc bởi những con mưa với làn nước mới, được đi đến ngôi nhà hang động ở nơi ấy, ngươi sẽ vui thích. |
1139‘‘Sunīlagīvā. susikhā supekhunā, sucittapattacchadanā vihaṅgamā; Sumañjughosatthanitābhigajjino, te taṃ ramessanti vanamhi jhāyinaṃ. |
1137. Loài chim lông cổ đẹp,. Với mào đẹp, cánh đẹp, Với lông nhiều màu sắc, Đón chào tiếng sấm vang, Với tiếng kêu dịu ngọt, Chúng sẽ làm ngươi thích, Ngươi tu tập thiền định, Trong núi rừng thâm sâu. |
1141. Những con chim có cánh nhiều màu sắc, có cổ màu xanh xinh xinh, có mồng xinh, có lông và cánh được tô màu xinh đẹp, có sự kêu gào bởi tiếng sấm vang dội vô cùng êm dịu, chúng sẽ làm ngươi vui thích, khi ngươi tham thiền ở trong rừng? |
1140‘‘Vuṭṭhamhi. deve caturaṅgule tiṇe, saṃpupphite meghanibhamhi kānane; Nagantare viṭapisamo sayissaṃ, taṃ me mudū hehiti tūlasannibhaṃ. |
1138. Khi trời đổ mưa xuống,. Trên đám cỏ bón phân, Và trong rừng nở hoa. Với đầu hoa như mây, Giữa rừng, ta sẽ nằm, Chẳng khác gì khúc cây, Đối ta, rất mềm dịu, Thật giống như giường bông. |
1142. Khi trời đã đổ mưa, khi cỏ dại dài bốn lóng tay, khi khu rừng đã được nở rộ hoa trông như đám mây, ta sẽ nằm ở giữa các ngọn núi như là loài cây cối, (tấm thảm cỏ) ấy sẽ êm ái đối với ta tương tự bông gòn. |
1141‘‘Tathā. tu kassāmi yathāpi issaro, yaṃ labbhati tenapi hotu me alaṃ; Na tāhaṃ kassāmi yathā atandito, biḷārabhastaṃva yathā sumadditaṃ. |
1139. Như vậy, ta sẽ làm,. Giống như người chủ nhà, Những gì ta nhận được, Ta xem là vừa đủ, Như thợ da không nhác, Khéo làm cho nhuần nhuyễn, Cái bị bằng da mèo. |
1143. Tuy nhiên, ta sẽ hành động thậm chí như là vị chúa tể. Hãy là vừa đủ cho ta với bất cứ vật nào được thọ nhận. Giống như kẻ không bị mệt mỏi, ta sẽ hành động đối với ngươi, giống như đối với cái túi da mèo đã khéo bị nhồi nắn. |
1142‘‘Tathā. tu kassāmi yathāpi issaro, yaṃ labbhati tenapi hotu me alaṃ; Vīriyena taṃ mayha vasānayissaṃ, gajaṃva mattaṃ kusalaṅkusaggaho. |
1140. Như vậy ta sẽ làm,. Giống như người chủ nhà, Những gì ta nhận được, Ta xem là vừa đủ, Tinh tấn ta dẫn ngươi, Rơi vào thế lực ta. Như voi say bị nài, Khéo dùng móc chế ngự. |
1144. Tuy nhiên, ta sẽ hành động thậm chí như là vị chúa tể. Hãy là vừa đủ cho ta với bất cứ vật nào được thọ nhận. Với sự tinh tấn, ta sẽ đưa ngươi vào sự cai quản của ta, tựa như người cầm móc câu thiện xảo (sẽ khống chế) con voi đã bị động dục. |
1143‘‘Tayā. sudantena avaṭṭhitena hi, hayena yoggācariyova ujjunā; Pahomi maggaṃ paṭipajjituṃ sivaṃ, cittānurakkhīhi sadā nisevitaṃ. |
1141. Với ngươi khéo nhiếp phục,. Khéo an trú vững vàng, Như người huấn luyện ngựa, Với con ngựa thuần thục, Ta có thể dấn bước Trên con đường an lành, Con đường được những vị Hộ trì tâm thường dùng. |
1145. Với ngươi đã khéo được thuần phục, đã được vững chãi, tựa như người thầy huấn luyện với con ngựa thuần thục, ta có khả năng để thực hành Đạo Lộ tốt lành, (là đạo lộ) luôn được các vị có sự hộ trì tâm thân cận. |
1144‘‘Ārammaṇe. taṃ balasā nibandhisaṃ, nāgaṃva thambhamhi daḷhāya rajjuyā; Taṃ me suguttaṃ satiyā subhāvitaṃ, anissitaṃ sabbabhavesu hehisi. |
1142. Ta sẽ trói chặt ngươi,. Vào đối tượng cần thiết, Như con voi bị dây Trói chặt vào cây cột. Ta khéo hộ trì ngươi, Khéo luyện với chánh niệm. Nhờ vậy, ngươi sẽ thành, Không dựa mọi sanh hữu. |
1146. Ta sẽ trói buộc ngươi vào đối tượng (của đề mục thiền) bằng sức mạnh, tựa như trói chặt con voi vào cây cột bằng sợi dây thừng chắc chắn. Ngươi sẽ khéo được hộ trì bởi ta, khéo được tu tập nhờ vào niệm, không còn bị lệ thuộc vào tất cả hiện hữu. |
1145‘‘Paññāya. chetvā vipathānusārinaṃ, yogena niggayha pathe nivesiya; Disvā samudayaṃ vibhavañca sambhavaṃ, dāyādako hehisi aggavādino. |
1143. Với tuệ, chặt tà đạo,. Với lực, chận, hướng chánh Thấy tập khởi, diệt sanh, Ngươi sẽ là thừa tự Bậc phát ngôn tối thượng. |
1147. Sau khi cắt đứt việc theo đuổi đạo lộ sai trái bằng tuệ, sau khi chế ngự bằng sự rèn luyện, sau khi đặt vào đạo lộ, sau khi nhìn thấy nhân sanh khởi, sự tan rã và sự tạo thành, ngươi sẽ trở thành người thừa tự của vị giáo chủ tối cao. |
1146‘‘Catubbipallāsavasaṃ. adhiṭṭhitaṃ, gāmaṇḍalaṃva parinesi citta maṃ; Nanu [nūna (sī.)] saṃyojanabandhanacchidaṃ, saṃsevase kāruṇikaṃ mahāmuniṃ. |
1144. Này tâm, ngươi dẫn ta,. Đến ngôi làng thô lỗ, Khiến trú vào thế lực Của bốn tưởng điên đảo, Hãy đến, theo vị ấy Vị chặt đứt kiết sử, Bậc có tâm đại bi, Bậc Mâu-ni vĩ đại. |
1148. Này tâm, do tác động của bốn sự lầm lạc đã được xác định, ngươi đã dẫn ta tựa như dẫn đứa trẻ làng quê đi vòng quanh, sao ngươi không hầu cận đấng Bi Mẫn, bậc Đại Ẩn Sĩ, vị có sự cắt đứt những ràng buộc và trói buộc? |
1147‘‘Migo. yathā seri sucittakānane, rammaṃ giriṃ pāvusaabbhamāliniṃ [māliṃ (?)]; Anākule tattha nage ramissaṃ [ramissasi (syā. ka.)], asaṃsayaṃ citta parā bhavissasi. |
1145. Như loài thú tự do,. Trong ngôi rừng đẹp đẽ. Ngươi vào núi xinh đẹp Có mây làm vòng hoa, Tại đấy, không có người, Trong rừng ngươi sẽ thích, Nay tâm, chắc chắn vậy Ngươi sẽ đến bờ kia. |
1149. Giống như con nai, tự tại, ở khu rừng nhiều màu sắc xinh đẹp, (sau khi đến được) ngọn núi đáng yêu có vòng hoa là đám mây mưa, tại nơi ấy, ở ngọn núi không đông đúc, ta sẽ vui thích. Này tâm, chắc chắn là ngươi sẽ ở lại bên kia. |
1148‘‘Ye. tuyha chandena vasena vattino, narā ca nārī ca anubhonti yaṃ sukhaṃ; Aviddasū māravasānuvattino, bhavābhinandī tava citta sāvakā’’ti. |
1146. Những ai còn rơi vào,. Thế lực ý muốn ngươi, Nam nhân và nữ nhân, Hưởng an lạc ngươi cho Không trí, bị rơi vào Trong thế lực Ác-ma, Ai ưa thích sanh hữu, Sẽ là thuộc hạ ngươi, Hỡi này tâm của ta. Khích lệ các Tỷ-kheo: |
1150. Những người nam và người nữ nào, có sự hoạt động theo ước muốn do sự tác động của ngươi, hưởng thụ lạc thú (thế tục), (những người ấy) là ngu si, có sự xoay chuyển theo quyền lực của Ma Vương. Này tâm, những kẻ có sự thích thú với hiện hữu là các đệ tử của ngươi.” |
… Tālapuṭo thero…. Paññāsanipāto niṭṭhito. |
|
Đại đức trưởng lão Tālapuṭa đã nói những lời kệ như thế. |
Tatruddānaṃ – |
|
TÓM LƯỢC NHÓM NÀY |
Paññāsamhi nipātamhi, eko tālapuṭo suci; |
|
“Ở nhóm Năm Mươi có một vị Tālapuṭa trong sạch, ở đó các câu kệ là năm mươi và còn thêm năm nữa.” |
Gāthāyo tattha paññāsa, puna pañca ca uttarīti. |
|
Nhóm Năm Mươi được chấm dứt. |