18. Cattālīsanipāto
Chương XVIII – Phẩm Bốn Mươi Kệ
18. Nhóm bốn mươi
Tipitaka.org Việt dịch: HT. Thích Minh Châu Việt dịch: TK. Indacanda
1. Mahākassapattheragāthā (CCLXI) Mahà-Kassapa (Thera. 94) Kệ ngôn của trưởng lão Mahākassapa.
  Bậc Đạo Sư đã ra đời, đang chuyển pháp luân và ở tại Ràjagaha (Vương Xá), khi ấy tại làng Bà-la-môn Mahàtittha ở Ràjagaha, ngài ra đời tên Pippali-mànava, con bà vợ chính của Bà-la-môn Kapila. Pippali-mànava, không chịu lập gia đình, xin ở nhà để hầu hạ cha mẹ, sau khi cha mẹ chết, sẽ xuất gia. Để làm cho bà mẹ bằng lòng, ngài cho làm tượng một thiếu nữ trẻ đẹp, mặc áo đỏ và đeo đồng trang sức, và nói với bà mẹ rằng nếu bà tìm cho được một thiếu nữ như vậy, ngài sẽ chịu lập gia đình. Bà mẹ sai các người Bà-la-môn đem theo tượng ấy và tìm cho được một thiếu nữ giống như vậy. Họ đến Sàgala, đặt tượng trên bờ sông và ngồi xuống xa bức tượng. Người vú của Bhaddà, sau khi tắm cho Bhaddà lại xuống sông tắm cho mình, thấy bức tượng, tưởng là Bhaddà và nói Bhaddà sao lại thiếu giáo dục như vậy, đánh nàng nơi má và biết được đó không phải là Bhaddà mà chỉ là một bức tượng bằng vàng. Các Bà-la-môn được đưa về nhà, được thấy Bhaddà, nhận Bhaddà giống như bức tượng và đưa tin về Kapila. Nhưng cả hai Pippali-mànava và Bhaddà đều không muốn lập gia đình, nên cả hai viết thư cho nhau nói rõ quyết định của mình. Hai người đưa thư gặp nhau giữa đường, đưa thư cho nhau coi, đánh tráo hai bức thư khác, và do vậy đám cưới được cử hành. Nhưng đêm tân hôn, hai người nằm cách nhau với một giấy hoa. Khi cha mẹ mệnh chung, cả hai quyết định cùng nhau xuất gia.  
  Hai người cùng mặc áo vàng, cắt tóc, mang bình bát, trước cùng đi với nhau, sau thấy bất tiện nên từ giã nhau, Pippali-mànava đi phía mặt, Bhaddà đi phía đường bên phía trái. Trước giới đức như vậy, quả đất rung động, và Thế Tôn biết được nguyên nhân nên ra ngồi giữa đường từ Nalandà đến Ràjagaha. Gặp Thế Tôn Mahà Kassapa đảnh lễ Thế Tôn, tôn Thế Tôn là bậc Thầy, tự nhận mình làm đệ tử. Cả hai về lại Magadha và Mahà Kassapa tu tập mười ba hạnh đầu đà. Đến ngày thứ tám, ngài chứng quả A-la-hán. Bậc Đạo Sư tuyên dương ngài là đầu đà thứ nhất. Và ngài nói lên kinh nghiệm của mình để giáo huấn các vị Tỷ-kheo.  
  Thấy các Tỷ-kheo ưa sống với quần chúng, và hay đến các nhà cư sĩ, ngài nói:  
1054‘‘Na. gaṇena purakkhato care, vimano hoti samādhi dullabho; Nānājanasaṅgaho dukho, iti disvāna gaṇaṃ na rocaye. 1052. Chớ du hành đi đầu,. Do quần chúng tôn xưng, Tâm ý bị loạn động Thiền định khó tu chứng, Quần chúng tụ là khổ, Thấy vậy, tránh quần chúng. 1056. “Không nên sống được tôn vinh bởi đồ chúng; bị bận tâm, định là điều khó đạt được. Sự giao du với nhiều hạng người là khổ sở, sau khi nhìn thấy như thế, không nên ưa thích đồ chúng.
1055‘‘Na. kulāni upabbaje muni, vimano hoti samādhi dullabho; So ussukko rasānugiddho, atthaṃ riñcati yo sukhāvaho. 1053. Bậc ẩn sĩ không đi,. Đi đến các gia đình, Tâm ý bị loạn động, Thiền định khó tu chứng, Ai hăng say tham vị, Bỏ đích đem an lạc. 1057. Vị hiền trí không nên đi đến các gia đình; bị bận tâm, định là điều khó đạt được. Là người năng nổ, bị tham đắm ở vị nếm, vị ấy bỏ bê mục đích, nguồn đem lại sự an lạc.
1056‘‘Paṅkoti. hi naṃ avedayuṃ, yāyaṃ vandanapūjanā kulesu; Sukhumaṃ salla durubbahaṃ, sakkāro kāpurisena dujjaho. 1054. Đảnh lễ cúng dường này,. Xuất phát từ gia đình Nên biết họ thực sự, Là đám bùn sa lầy. Như mũi tên tế nhị Rất khó rút ra khỏi, Kẻ xấu rất khó lòng.. Từ bỏ sự cung kính.     1058. Các vị đã tuyên bố việc đảnh lễ và cúng dường ở các gia đình chỉ là ‘bùn lầy.’ Mũi tên mảnh mai thì khó rút ra, sự tôn vinh là khó từ bỏ đối với người ti tiện.[17]
  Một lời khuyên các Tỷ-kheo hãy biết đủ với bốn vật dụng cần thiết:  
1057‘‘Senāsanamhā. oruyha, nagaraṃ piṇḍāya pāvisiṃ; Bhuñjantaṃ purisaṃ kuṭṭhiṃ, sakkaccaṃ taṃ upaṭṭhahiṃ. 1055. Từ trú xứ bước xuống,. Ta vào thành khất thực, Ta cẩn thận đến gần, Một người cùi đang ăn. 1059. Sau khi từ chỗ trú ngụ đi xuống, tôi đã đi vào làng để khất thực. Có người đàn ông bị cùi đang ăn, một cách nghiêm chỉnh tôi đã đứng gần gã ấy.
1058‘‘So. me [taṃ (sī. ka.)] pakkena hatthena, ālopaṃ upanāmayi; Ālopaṃ pakkhipantassa, aṅguli cettha [pettha (sī. ka.)] chijjatha. 1056. Với bàn tay lở loét,. Nó bỏ vào một muỗng, Khi bỏ vào muỗng ấy, Ngón tay rời rơi vào. 1060. Người ấy với bàn tay bị lở loét đã dâng vắt cơm cho tôi. Trong khi người ấy để vắt cơm vào, ngón tay của gã cũng đã bị rụng xuống ở nơi ấy.
1059‘‘Kuṭṭamūlañca. [kuḍḍamūlañca (sī. syā.)] nissāya, ālopaṃ taṃ abhuñjisaṃ; Bhuñjamāne vā bhutte vā, jegucchaṃ me na vijjati. 1057. Dựa vào một chân tường,. Ta ăn miếng ăn ấy, Đang ăn và ăn xong, Ta không cảm ghê tởm. 1061. Và tôi đã dựa vào chân của vách tường, rồi thọ dụng vắt cơm ấy. Ngay trong khi đang ăn, hoặc đã ăn xong, sự ghê tởm không có ở nơi tôi.
1060‘‘Uttiṭṭhapiṇḍo. āhāro, pūtimuttañca osadhaṃ; Senāsanaṃ rukkhamūlaṃ, paṃsukūlañca cīvaraṃ;. Yassete abhisambhutvā [abhibhuñjati (?)], sa ve cātuddiso naro. 1058. Miếng ăn đứng nhận được. Xem như thuốc tiêu hôi, Chỗ nằm dưới gốc cây, Và y từ đống rác, Ai thọ dụng chúng được,. Được gọi người bốn phương.   1062. Vị nào có vắt cơm do đã đứng (khất thực) là thức ăn, và nước tiểu hôi thối là phương thuốc, chỗ nằm ngồi là gốc cây, và vải bị quăng bỏ là y phục, sau khi thọ hưởng các thứ này, chính vị ấy là người của bốn phương.
  Về sau, khi được hỏi, sao ngài già như vậy, lại có thể hằng ngày leo lên đồi núi, ngài trả lời:  
1061‘‘Yattha. eke vihaññanti, āruhantā siluccayaṃ; Tassa buddhassa dāyādo, sampajāno patissato; Iddhibalenupatthaddho, kassapo abhirūhati. 1059. Khi họ leo núi đá,. Một số bị mạng chung, Thừa tự bậc Giác ngộ Tỉnh giác và chánh niệm, Dựa trên sức thần lực Kassapa leo núi. 1063. Nơi nào nhiều người bị khổ nhọc trong khi leo lên ngọn núi, nơi ấy vị Kassapa, người thừa tự của đức Phật, có sự nhận biết rõ, có niệm, được hỗ trợ bởi năng lực của thần thông, leo lên.
1062‘‘Piṇḍapātapaṭikkanto,. selamāruyha kassapo;. Jhāyati anupādāno, pahīnabhayabheravo. 1060. Đi khất thực trở về. Ca-diếp leo tảng đá, Ngồi thiền, không chấp thủ, Đoạn sợ hãi kinh hoàng.  1064. Trong khi trở về sau khi khất thực, vị Kassapa trèo lên tảng đá, tham thiền, không còn chấp thủ, sự sợ hãi và khiếp đảm đã được dứt bỏ.
1063‘‘Piṇḍapātapaṭikkanto,. selamāruyha kassapo; Jhāyati anupādāno, ḍayhamānesu nibbuto. 1061. Đi khất thực trở về, Ca-diếp leo tảng đá, Ngồi thiền, không chấp thủ,. Đã đốt cháy, thanh lương.  1065. Trong khi trở về sau khi khất thực, vị Kassapa trèo lên tảng đá, tham thiền, không còn chấp thủ, được tịch tịnh giữa những kẻ đang bị thiêu đốt.
1064‘‘Piṇḍapātapaṭikkanto,. selamāruyha kassapo;. Jhāyati anupādāno, katakicco anāsavo. 1062. Đi khất thực trở về Ca-diếp leo tảng đá Ngồi thiền, không chấp thủ, Xong việc, không lậu hoặc. 1066. Trong khi trở về sau khi khất thực, vị Kassapa trèo lên tảng đá, tham thiền, không còn chấp thủ, có phận sự đã được làm xong, không còn lậu hoặc.
  Sau khi được hỏi thêm, vì sao khi lớn tuổi ngài vẫn ở trên núi rừng? Trúc Lâm hay các tịnh xá không làm cho ngài thích ý chăng? Ngài trả lời:  
1065‘‘Karerimālāvitatā,. bhūmibhāgā manoramā; Kuñjarābhirudā rammā, te selā ramayanti maṃ. 1063. Khu đất thật khả ái,. Với những vòng tràng hoa, Hoa tên Ka-rê-ri, Trải rộng ra cùng khắp, Với voi rú khả ý, Đồi núi ấy ta thích 1067. Những thửa đất, được trải rộng với những tràng hoa kareri, làm thích ý, những tảng núi đá đáng yêu ấy, vang dội tiếng rống của loài voi, khiến tôi thích thú.
1066‘‘Nīlabbhavaṇṇā. rucirā, vārisītā sucindharā;. Indagopakasañchannā, te selā ramayanti maṃ. 1064. Những hồ nước trong mát,. Tuyệt đẹp, màu mây xanh, Che kín bởi loài bọ, Tên ‘kẻ chăn In-đa’ Những ngọn núi đá ấy, Làm tâm ta thích thú. 1068. Có màu sắc của những đám mây xanh, những dòng chảy tinh khiết, được ưa thích, mát lạnh nhờ vào nước, những tảng núi đá ấy, được che kín bởi những con mối đỏ, khiến tôi thích thú.
1067‘‘Nīlabbhakūṭasadisā,. kūṭāgāravarūpamā; Vāraṇābhirudā rammā, te selā ramayanti maṃ.  1065. Giống đồi mây xanh biếc, Ví tháp đẹp lâu đài, Với vượn hú khả ý, Đồi núi ấy, ta thích. 1069. Tương tự đỉnh chóp của đám mây xanh, tương đương với ngôi nhà mái nhọn cao quý, những tảng núi đá đáng yêu ấy, vang dội tiếng kêu của loài voi, khiến tôi thích thú.
1068‘‘Abhivuṭṭhā. rammatalā, nagā isibhi sevitā;. Abbhunnaditā sikhīhi, te selā ramayanti maṃ.  1066. Đất bằng thật khả ái, Được mưa ướt thấm nhuần, Đồi núi được ẩn sĩ, Làm thành nơi trú xứ. Vang lên tiếng chim công, Đồi núi ấy ta thích. 1070. Mặt đất bằng đáng yêu được đổ cơn mưa lớn, các hòn núi được các vị ẩn sĩ lai vãng, những tảng núi đá ấy, vang dội tiếng kêu bởi những con chim công, khiến tôi thích thú.
1069‘‘Alaṃ. jhāyitukāmassa, pahitattassa me sato; Alaṃ me atthakāmassa [attakāmassa (?)], pahitattassa bhikkhuno. 1067. Vừa đủ ta chánh niệm,. Hăng hái muốn tu thiền, Vừa đủ ta Tỷ-kheo Hăng hái muốn phước lợi. 1071. Vừa đủ cho tôi, người có ước muốn tham thiền, có bản tính cương quyết, có niệm. Vừa đủ cho tôi, vị tỳ khưu có ước muốn về mục đích, có bản tính cương quyết.
1070‘‘Alaṃ. me phāsukāmassa, pahitattassa bhikkhuno; Alaṃ me yogakāmassa, pahitattassa tādino. 1068. Vừa đủ ta Tỷ-kheo,. Hăng hái muốn an lạc, Vừa đủ ta Tỷ-kheo, Hăng hái tu Du-già. 1072. Vừa đủ cho tôi, vị tỳ khưu có ước muốn về sự thoải mái, có bản tính cương quyết. Vừa đủ cho tôi, người có ước muốn rèn luyện, có bản tính cương quyết như thế ấy.
1071‘‘Umāpupphena. samānā, gaganāvabbhachāditā; Nānādijagaṇākiṇṇā, te selā ramayanti maṃ. 1069. Tràn đầy hoa cây gai,. Như trời phủ làn mây, Đầy mọi loài chim chóc, Đồi núi ấy ta thích. 1073. Tương tự như những đóa hoa của cây sợi gai, giống như bầu trời được bao phủ bởi những đám mây, những tảng núi đá ấy, được đông đúc các giống chim nhiều loại, khiến tôi thích thú.
1072‘‘Anākiṇṇā. gahaṭṭhehi, migasaṅghanisevitā;. Nānādijagaṇākiṇṇā, te selā ramayanti maṃ. 1070. Không đông chúng gia chủ. Chỗ trú xứ đoàn thú, Đầy mọi loài chim chóc, Đồi núi ấy ta thích. 1074. Không đông đảo những người tại gia, được lai vãng bởi những bầy nai, những tảng núi đá ấy, được đông đúc với các giống chim nhiều loại, khiến tôi thích thú.
1073‘‘Acchodikā. puthusilā, gonaṅgulamigāyutā; Ambusevālasañchannā, te selā ramayanti maṃ.  1071. Dưới tảng đá, băng đá, Có nước suối trong chảy, Có khỉ và có nai, Lai vãng sống gần bên, Cỏ cây bao trùm nước, Đồi núi ấy ta thích. 1075. Với nước trong vắt, với những tảng đá lớn, được lai vãng bởi các con khỉ và nai, được bao phủ bởi rong rêu ẩm ướt, những tảng núi đá ấy khiến tôi thích thú.[18]
1074‘‘Na. pañcaṅgikena turiyena, rati me hoti tādisī; Yathā ekaggacittassa, sammā dhammaṃ vipassato.  1072. Người vậy không ưa thích, Cả năm loại nhạc khí, Khi đã được nhất tâm, Chơn chán thiền quán pháp. 1076. Theo tôi, sự thích thú đối với năm loại nhạc cụ là không phải thế ấy, giống như (sự thích thú) của vị có tâm chuyên nhất đang nhìn thấy rõ Giáo Pháp một cách đúng đắn.[19]
  Khi khuyên bảo các Tỷ-kheo thích thú các tục sự, và tham các vật cúng dường cần thiết cho sự sống, ngài nói:  
1075‘‘Kammaṃ. bahukaṃ na kāraye, parivajjeyya janaṃ na uyyame; Ussukko so rasānugiddho, atthaṃ riñcati yo sukhāvaho. 1073. Chớ làm quá nhiều việc,. Tránh quần chúng đua tranh, Người siêng tham đắm vị, Bỏ đích đem an lạc. 1077. Không nên làm việc nhiều, nên tránh xa mọi người, không nên gắng sức. Là người năng nổ, bị tham đắm ở vị nếm, vị ấy bỏ bê mục đích, nguồn đem lại sự an lạc.
1076‘‘Kammaṃ. bahukaṃ na kāraye, parivajjeyya anattaneyyametaṃ; Kicchati kāyo kilamati, dukkhito so samathaṃ na vindati. 1074. Chớ làm nhiều công việc,. Tránh việc không lợi này, Thân cực nhọc mệt mỏi, Người khổ không an chỉ. 1078. Không nên làm việc nhiều, nên tránh xa việc không đưa đến mục đích. Thân thể bị kiệt quệ, mệt mỏi; bị khổ nhọc, vị ấy không tìm thấy sự vắng lặng.
  Các câu kệ sau được nói lên để khuyên bảo trong một vài trường hợp:  
1077‘‘Oṭṭhappahatamattena,. attānampi na passati;. Patthaddhagīvo carati, ahaṃ seyyoti maññati. 1075. Chỉ lắp bắp cái môi,. Không thấy được tự ngã, Cổ cứng đờ nó đi, Nó nghĩ: ta tốt hơn. 1079. Chỉ với việc mấp máy đôi môi, cũng không nhìn thấy được bản ngã. Kẻ có cái cổ cứng cỏi bước đi, nghĩ rằng: ‘Ta là tốt hơn.’
1078‘‘Aseyyo. seyyasamānaṃ, bālo maññati attānaṃ; Na taṃ viññū pasaṃsanti, patthaddhamānasaṃ naraṃ. 1076. Không hơn nghĩ tốt hơn,. Kẻ ngu nghĩ tự ngã, Bậc trí không tán thán, Người có trí cứng đờ. 1080. Không tốt hơn, kẻ ngu dốt nghĩ rằng bản thân là tốt hơn. Những người hiểu biết không khen ngợi con người có tâm ý cứng cỏi ấy.
1079‘‘Yo. ca seyyohamasmīti, nāhaṃ seyyoti vā pana;. Hīno taṃsadiso [tīnohaṃ sadiso (syā.)] vāti, vidhāsu na vikampati.  1077. Ta tốt hơn, hay là Ta không được tốt hơn, Hay ta là dở hơn, Ta cũng tốt như vậy, Ai không có dao động Trong các loại mạn này. 1081. Người nào không dao động ở các trạng thái tự phụ (nghĩ rằng): ‘Ta là tốt hơn,’ hoặc là ‘Ta không là tốt hơn,’ ‘Ta là kém cỏi hoặc tương đương,’ …
1080‘‘Paññavantaṃ. tathā tādiṃ, sīlesu susamāhitaṃ; Cetosamathamanuttaṃ, tañce viññū pasaṃsare.  1078. Có tuệ, nói như thật,. Khéo định tĩnh trong giới, Đạt được tâm an chỉ, Người ấy kẻ trí khen. 1082. … vị tương tự như thế ấy, có trí tuệ, khéo chuyên chú vào các giới, được gắn bó với sự vắng lặng của tâm; quả vậy, những người hiểu biết khen ngợi vị ấy.
1081‘‘Yassa. sabrahmacārīsu, gāravo nūpalabbhati;. Ārakā hoti saddhammā, nabhato puthavī yathā. 1079. Ai giữa đồng Phạm hạnh. Không được có kính trọng, Vị ấy xa diệu pháp, Như đất xa bầu trời. 1083. Kẻ nào không có sự kính trọng đối với các vị đồng Phạm hạnh, (kẻ ấy) bị cách xa khỏi Chánh Pháp, giống như trái đất so với bầu trời.[20]
1082‘‘Yesañca. hiri ottappaṃ, sadā sammā upaṭṭhitaṃ; Virūḷhabrahmacariyā te, tesaṃ khīṇā punabbhavā. 1080. Những ai có tàm quý,. Thường chơn chánh an trú, Phạm hạnh được tăng trưởng, Họ đoạn được tái sanh. 1084. Còn đối với những vị nào, sự hổ thẹn và ghê sợ (tội lỗi) luôn được thiết lập một cách đúng đắn, Phạm hạnh được tiến triển, đối với những vị ấy việc tái sanh lần nữa được cạn kiệt.
1083‘‘Uddhato. capalo bhikkhu, paṃsukūlena pāruto;. Kapīva sīhacammena, na so tenupasobhati. 1081. Tỷ-kheo cống cao động. Dầu đắp y đống rác, Như con khỉ đội lốt, Với da con sư tử, Người vậy không có thể, Chói sáng nhờ y ấy. 1085. Vị tỳ khưu tự kiêu, chao đảo, đã khoác lên với tấm vải bị quăng bỏ, tựa như con khỉ với tấm da sư tử, vị ấy không chói sáng với y ấy.
1084‘‘Anuddhato. acapalo, nipako saṃvutindriyo; Sobhati paṃsukūlena, sīhova girigabbhare. 1082. Không cống cao, không động,. Thận trọng, căn chế ngự, Chói sáng với tấm y Được lượm từ đống rác, Chẳng khác con sư tử, Trong hang động núi rừng. 1086. Vị không tự kiêu, không chao đảo, thận trọng, có giác quan đã được thu thúc, chói sáng với tấm vải bị quăng bỏ, tựa như con sư tử ở trong hang núi.
  Khi thấy chư Phạm thiên đảnh lễ ngài Sàriputta, và thấy Trưởng lão Kappina mỉm cười, ngài nói:  
1085‘‘Ete. sambahulā devā, iddhimanto yasassino;. Dasadevasahassāni, sabbe te brahmakāyikā. 1083. Rất nhiều chư Thiên này. Có thần thông, lừng danh, Cả mười ngàn chư Thiên, Tất cả Phạm hạnh chúng thiên. 1087. Nhiều vị Thiên nhân này, có thần thông, có danh tiếng, tất cả mười ngàn vị Thiên nhân ấy là thuộc về tập thể của đấng Phạm Thiên.
1086‘‘Dhammasenāpatiṃ. vīraṃ, mahājhāyiṃ samāhitaṃ; Sāriputtaṃ namassantā, tiṭṭhanti pañjalīkatā. 1084. Đứng đảnh lễ, chấp tay. Đối ngài Xá-lợi-phất, Vị tướng quân Chánh pháp Sáng suốt, đại thiền định.  1088. Các vị đứng, chắp tay lại, đang lễ bái vị Tướng Quân Chánh Pháp Sāriputta, bậc anh hùng, có thiền chứng lớn lao, được định tĩnh.
1087‘‘‘Namo. te purisājañña, namo te purisuttama; Yassa te nābhijānāma, yampi nissāya jhāyati [jhāyasi (ka. aṭṭha.)].  1085. Đảnh lễ bậc Thượng sanh, Đảnh lễ bậc Tối thượng. Dựa vào gì, thiền tu, Chúng tôi không thắng trí. 1089. ‘Thưa bậc siêu nhân, xin kính lễ ngài. Thưa bậc tối thượng nhân, xin kính lễ ngài. Chúng tôi không thấu hiểu về việc ngài tham thiền nương vào đề mục nào.
1088‘‘‘Accheraṃ. vata buddhānaṃ, gambhīro gocaro sako; Ye mayaṃ nābhijānāma, vālavedhisamāgatā’.  1086. Kỳ diệu thay chư Phật, Hành xứ ngài thâm sâu, Chúng con không nghĩ được Dầu chúng con hội đủ Tài nghệ người bắn cung, Có thể chẻ sợi tóc. 1090. Quả là điều kỳ diệu về việc chư Phật có hành xứ thâm sâu của bản thân, chúng tôi không thấu hiểu được các Ngài, (mặc dầu) được hội tụ sự (tinh tế như người bắn tên) xuyên thủng cọng tóc.’
1089‘‘Taṃ. tathā devakāyehi, pūjitaṃ pūjanārahaṃ; Sāriputtaṃ tadā disvā, kappinassa sitaṃ ahu.  1087. Khi thấy Xá-lợi-phất Xứng đáng được đảnh lễ, Được Phạm thiên chúng ấy, Đảnh lễ, kính như vậy, Tôn giả Kappina, Liền mỉm cười vui vẻ. 1091. Khi ấy, sau khi nhìn thấy vị Sāriputta ấy, vị xứng đáng sự tôn vinh, được tập thể chư Thiên tôn vinh như thế ấy, nụ cười đã hiện ra ở vị Kappina.
  Trưởng lão Kassapa rống lên tiếng rống sư tử của mình:  
1090‘‘Yāvatā. buddhakhettamhi, ṭhapayitvā mahāmuniṃ; Dhutaguṇe visiṭṭhohaṃ, sadiso me na vijjati.  1088. Trong đám ruộng đệ tử Những vị theo đức Phật, Ngoại trừ bậc Tối tôn, Đại ẩn sĩ Mâu-ni, Ta ưu việt Đầu đà. Không ai bằng ta được. 1092. So sánh ở lãnh vực của chư Phật, ngoại trừ bậc Đại Hiền Trí, tôi được nổi bật về đức hạnh của các pháp từ khước, người tương tự như tôi không tìm thấy.
1091‘‘Pariciṇṇo. mayā satthā, kataṃ buddhassa sāsanaṃ; Ohito garuko bhāro, natthi dāni punabbhavo.  1089. Ta hầu hạ Bổn Sư, Lời Phật dạy làm xong, Gánh nặng đã đặt xuống, Gốc sanh hữu nhổ sạch. 1093. Bậc Đạo Sư đã được tôi hầu hạ, lời dạy của đức Phật đã được thực hành, vật mang nặng đã được đặt xuống, giờ đây không còn tái sanh nữa.
1092‘‘Na. cīvare na sayane, bhojane nupalimpati; Gotamo anappameyyo, muḷālapupphaṃ vimalaṃva; Ambunā nekkhammaninno, tibhavābhinissaṭo.  1090. Không nhiễm dính y phục Chỗ nằm và đồ ăn, Không thể trắc lường được Là con bậc Gotama! Như hoa sen trong sạch, Không thể dính nước vào, Ý thiên về xuất ly, Thoát ly cả ba giới. 1094. Đấng Gotama, bậc không thể đo lường, không bị vướng bận về y phục, về chỗ nằm, về vật thực, tựa như hoa sen là không lấm lem bởi nước, đã thiên về việc xuất gia, đã được thoát ra khỏi tam giới.
1093‘‘Satipaṭṭhānagīvo. so, saddhāhattho mahāmuni; Paññāsīso mahāñāṇī, sadā carati nibbuto’’ti.  1091. Với bậc Đại ẩn sĩ, Cổ dựng trên niệm xứ, Tay dựa trên đức tin, Với đầu là Trí tuệ Bậc Đại trí luôn luôn, Hành trì thật thanh lương. 1095. Bậc Đại Hiền Trí có sự thiết lập niệm là cái cổ, có đức tin là cánh tay, có tuệ là cái đầu. Bậc có đại trí, luôn luôn du hành, được tịch tịnh.”
…  Mahākassapo thero…. Cattālīsanipāto niṭṭhito.   Đại đức trưởng lão Mahākassapa đã nói những lời kệ như thế.
Tatruddānaṃ –   TÓM LƯỢC NHÓM NÀY
Cattālīsanipātamhi, mahākassapasavhayo;   “Ở nhóm Bốn Mươi, vị tên Mahākassapa là vị trưởng lão độc nhất, và các câu kệ là bốn mươi hai.”
Ekova thero gāthāyo, cattāsīla duvepi cāti.   Nhóm Bốn Mươi được chấm dứt.