Tipitaka.org |
Việt dịch: HT. Thích Minh Châu |
Việt dịch: TK. Indacanda |
1. Adhimuttattheragāthā |
(CCXLVIII) Adhimutta (Thera. 71) |
Kệ ngôn của trưởng lão Adhimutta. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh là con người chị của Trưởng lão Sankicca. Ngài xuất gia dưới sự hướng dẫn của cậu ngài, và khi còn là Sa-di, đã chứng quả A-la-hán. Sống hưởng an lạc giải thoát, ngài muốn thọ Đại giới và đi về nhà để xin phép bà mẹ. Khi ngài đi, ngài bị các kẻ cướp bắt ngài và muốn dâng ngài để tế thần. Các tên cướp tấn công ngài nhưng ngài đứng, không khuất phục. Tên tướng cướp lấy làm ngạc nhiên, tán thán ngài và nói: |
|
705. ‘‘Yaññatthaṃ vā dhanatthaṃ vā, ye hanāma mayaṃ pure; Avasesaṃ [avase taṃ (sī. aṭṭha. mūlapāṭho), avasesānaṃ (aṭṭha.?)] bhayaṃ hoti, vedhanti vilapanti ca. |
705. Vì mục đích tế đàn,. Hoặc vì đích tài sản, Những người chúng tôi giết, Từ trước cho đến nay, Không ai không sợ hãi, Họ run sợ, rên xiết. |
705. “‘Những kẻ mà chúng tôi (đã) giết trước đây vì mục đích cúng tế hay vì mục đích tài sản đều không còn sự tự chủ, có sự sợ hãi; chúng run rẩy, than khóc. |
706. ‘‘Tassa te natthi bhītattaṃ, bhiyyo vaṇṇo pasīdati; Kasmā na paridevesi, evarūpe mahabbhaye. |
706. Nhưng ngài không khiếp sợ,. Dung sắc càng hòa duyệt, Vì sao ngài không than, Trong đại nạn như vậy. Adhimutta trả lời: |
706. Đối với ngươi đây, không có trạng thái sợ hãi, sắc diện còn thêm tươi tỉnh. Tại sao ngươi lại không than van trong trường hợp kinh hãi lớn lao như thế này?’ |
707. ‘‘Natthi cetasikaṃ dukkhaṃ, anapekkhassa gāmaṇi; Atikkantā bhayā sabbe, khīṇasaṃyojanassa ve. |
707. Chủ cướp! Tâm không khổ,. Với người không kỳ vọng, Mọi sợ hãi vượt qua, Với người kiết sử đoạn. |
707. ‘Này chúa trùm, đối với người không có sự trông mong, trạng thái tâm khổ đau không có. Đúng vậy, đối với người có sự ràng buộc đã được cạn kiệt, tất cả các sự sợ hãi đã được vượt qua. |
708. ‘‘Khīṇāya bhavanettiyā, diṭṭhe dhamme yathātathe; Na bhayaṃ maraṇe hoti, bhāranikkhepane yathā. |
708. Nhờ đoạn nhân sanh hữu,. Pháp được thấy như thật, Đối chết, không sợ hãi, Nhờ gánh nặng đặt xuống. |
708. Khi lối dẫn đến hiện hữu đã được cạn kiệt, khi các pháp được thấy đúng theo bản thể thật, sự sợ hãi vì cái chết là không có, giống như ở việc đặt xuống gánh nặng (sự sợ hãi là không có). |
709. ‘‘Suciṇṇaṃ brahmacariyaṃ me, maggo cāpi subhāvito; Maraṇe me bhayaṃ natthi, rogānamiva saṅkhaye. |
709. Phạm hạnh ta khéo hành,. Con đường khéo tu tập, Ta không có sợ chết, Khi bệnh hoạn được diệt. |
709. Đối với ta, Phạm hạnh đã khéo được thực hành, và (Thánh) Đạo cũng đã khéo được tu tập. Đối với ta, không có nỗi sợ hãi về cái chết, tựa như (không có nỗi sợ hãi) ở sự hoàn toàn cạn kiệt của các cơn bệnh. |
710. ‘‘Suciṇṇaṃ brahmacariyaṃ me, maggo cāpi subhāvito; Nirassādā bhavā diṭṭhā, visaṃ pitvāva [pītvāva (sī.)] chaḍḍitaṃ. |
710. Phạm hạnh ta khéo hành,. Con đường khéo tu tập, Hũu được thấy không ngọt, Như bỏ độc dược uống. |
710. Đối với ta, Phạm hạnh đã khéo được thực hành, và (Thánh) Đạo cũng đã khéo được tu tập, các hữu đã được nhìn thấy là không có khoái lạc, độc dược ngay sau khi uống vào đã được phun bỏ. |
711. ‘‘Pāragū anupādāno, katakicco anāsavo; Tuṭṭho āyukkhayā hoti, mutto āghātanā yathā. |
711. Bờ kia đến, không thủ,. Việc làm xong, vô lậu, Bằng lòng, thọ mạng diệt, Như thoát lò sát sinh. |
711. Người đã đi đến bờ kia, không còn chấp thủ, có phận sự đã được làm xong, không còn lậu hoặc, được vui mừng do sự cạn kiệt của tuổi thọ, giống như được thoát khỏi nơi hành quyết. |
712. ‘‘Uttamaṃ dhammataṃ patto, sabbaloke anatthiko; Ādittāva gharā mutto, maraṇasmiṃ na socati. |
712. Pháp tánh đạt, tối thượng,. Ở đời, tuyệt sở hữu. Như thoát ngôi nhà cháy, Trong chết không sầu muộn. |
712. Đã đạt đến bản thể pháp tối thượng, là người không có mong mỏi gì ở toàn bộ thế gian, tựa như đã được thoát khỏi ngôi nhà bị cháy rực, không sầu muộn về cái chết. |
713. ‘‘Yadatthi saṅgataṃ kiñci, bhavo vā yattha labbhati; Sabbaṃ anissaraṃ etaṃ, iti vuttaṃ mahesinā. |
713. Phàm có vật tụ họp,. Được sanh hữu chỗ nào, Tuyệt đường mọi xuất ly, Đại ẩn sĩ nói vậy. |
713. Bất cứ điều gì có sự bám víu, hoặc ở nơi nào sự hiện hữu được thành tựu, toàn thể sự việc này không có chủ thể, bậc Đại Ẩn Sĩ đã nói như vậy. |
714. ‘‘Yo taṃ tathā pajānāti, yathā buddhena desitaṃ; Na gaṇhāti bhavaṃ kiñci, sutattaṃva ayoguḷaṃ. |
714. Ai hiểu rõ như vậy,. Như đức Phật đã thuyết, Không còn nắm sanh hữu, Như hòn sắt cháy đỏ. |
714. Người nào nhận biết điều ấy đúng như đã được đức Phật thuyết giảng thì không nắm bắt điều gì ở hiện hữu, tựa như không cầm lấy cục sắt đã được đốt nóng dữ dội. |
715. ‘‘Na me hoti ‘ahosi’nti, ‘bhavissa’nti na hoti me; Saṅkhārā vigamissanti, tattha kā paridevanā. |
715. Quá khứ ta không có,. Tương lai, hiện tại không, Các hành không thực hữu, Ở đây, than khóc gì? |
715. Đối với ta, không có suy nghĩ rằng: ‘Tôi đã là,’ ‘Tôi sẽ là’ không là suy nghĩ của ta. Các hành sẽ tiêu tan, than van gì về việc ấy? |
716. ‘‘Suddhaṃ dhammasamuppādaṃ, suddhaṃ saṅkhārasantatiṃ; Passantassa yathābhūtaṃ, na bhayaṃ hoti gāmaṇi. |
716. Thanh tịnh pháp sanh khởi,. Thanh tịnh hành tiếp tục, Bậc thấy được như thật, Không sợ hãi, thưa ngài. |
716. Này chúa trùm, đối với người đang nhìn thấy đúng theo bản thể sự sanh lên của các pháp một cách rõ rệt, sự liên tục của các hành một cách rõ rệt thì không có sự sợ hãi. |
717. ‘‘Tiṇakaṭṭhasamaṃ lokaṃ, yadā paññāya passati; Mamattaṃ so asaṃvindaṃ, ‘natthi me’ti na socati. |
717. Với tuệ, thấy thế giới,. Giống như cỏ, thân cây, Không có tánh ngã sở, Không sầu muộn, không ngã. |
717. Khi nào bằng trí tuệ nhìn thấy thế gian giống như cỏ và củi, trong khi không tìm thấy trạng thái sở hữu chủ: ‘Không có gì thuộc về tôi,’ vị ấy không sầu muộn. |
718. ‘‘Ukkaṇṭhāmi sarīrena, bhavenamhi anatthiko; Soyaṃ bhijjissati kāyo, añño ca na bhavissati. |
718. Ta nhàm chán thân sắc,. Không ham có sanh hữu, Khi thân này hoại diệt, Sẽ không có thân khác. |
718. Ta không hài lòng với thân xác, ta không có sự mong mỏi với sự hiện hữu, thân này đây sẽ bị rã tan và sẽ không có cái khác nữa. |
719. ‘‘Yaṃ vo kiccaṃ sarīrena, taṃ karotha yadicchatha; Na me tappaccayā tattha, doso pemañca hehiti’’. |
719. Với thân ta, ngươi làm,. Hãy làm như ý muốn, Ta không vì duyên ấy, Sẽ khởi lên sân, ái. |
719. Việc làm nào của ngươi với thân xác (này của ta), ngươi thích điều nào thì ngươi hãy làm điều ấy; đối với ta không vì nguyên nhân ấy mà có sự sân hận hay yêu thích ở trường hợp ấy.’ |
720. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā, abbhutaṃ lomahaṃsanaṃ; Satthāni nikkhipitvāna, māṇavā etadabravuṃ. |
720. Kẻ ấy nghe nói vậy,. Hy hữu, lông dựng ngược, Quăng bỏ cả đao kiếm, Thanh niên nói với ta. |
720. Sau khi lắng nghe lời nói kỳ lạ, có sự nổi da gà ấy của vị ấy, những người thanh niên, sau khi bỏ các gươm đao xuống, đã nói điều này: |
721. ‘‘Kiṃ bhadante karitvāna, ko vā ācariyo tava; Kassa sāsanamāgamma, labbhate taṃ asokatā’’. |
721. Tôn giả hành hạnh gì,. Ai Đạo Sư Tôn giả, Ngài theo lời ai dạy, Được tánh không sầu não? Adhimutta: |
721. ‘Thưa ngài đại đức, sau khi đã hành pháp gì, hoặc ai là thầy của ngài, sau khi đi đến với lời giáo huấn của ai khiến trạng thái không sầu muộn được thành tựu?’ |
722. ‘‘Sabbaññū sabbadassāvī, jino ācariyo mama; Mahākāruṇiko satthā, sabbalokatikicchako. |
722. Bậc toàn trí, toàn kiến,. Thắng giả, giáo sư ta, Đại từ bi Đạo Sư, Y vương toàn thế giới. |
722. ‘Bậc Toàn Tri, có sự nhìn thấy tất cả, đấng Chiến Thắng, bậc Đại Bi Mẫn, đấng Đạo Sư, người thầy thuốc của tất cả thế gian là thầy của ta. |
723. ‘‘Tenāyaṃ desito dhammo, khayagāmī anuttaro; Tassa sāsanamāgamma, labbhate taṃ asokatā’’. |
723. Pháp này vị ấy giảng,. Đưa đến đạt vô thượng, Theo lời dạy vị ấy, Được tánh không sầu não. |
723. Giáo Pháp này, đã được Ngài ấy thuyết giảng, đưa đến sự cạn kiệt (Niết Bàn), là vô thượng, sau khi đi đến với lời giáo huấn của Ngài ấy khiến trạng thái không sầu muộn được thành tựu.’ |
724. Sutvāna corā isino subhāsitaṃ, nikkhippa satthāni ca āvudhāni ca; Tamhā ca kammā viramiṃsu eke, eke ca pabbajjamarocayiṃsu. |
724. Kẻ cướp nghe đại sĩ,. Khéo thuyết giảng như vậy, Chúng liền quăng vất bỏ, Đao gươm và vũ khí, Một số bỏ nghề chúng, Một số xin xuất gia. |
724. Sau khi lắng nghe lời đã được khéo nói của vị ẩn sĩ, những kẻ cướp đã bỏ các gươm đao và vũ khí xuống, và một số đã xa lánh việc làm ấy, một số đã tuyên bố việc xuất gia. |
725. Te pabbajitvā sugatassa sāsane, bhāvetva bojjhaṅgabalāni paṇḍitā; Udaggacittā sumanā katindriyā, phusiṃsu nibbānapadaṃ asaṅkhatanti. |
725. Sau khi chúng xuất gia,. Trong giáo pháp Thiện Thệ, Họ tu tập Giác Chi, Năm lực, thành bậc trí. Tâm hân hoan, ý mãn, Các căn cảm xúc được, Niết-bàn đạo, vô vi. |
725. Những người ấy, sau khi đã xuất gia trong Giáo Pháp của đấng Thiện Thệ, sau khi đã tu tập các chi phần đưa đến giác ngộ và các lực, được sáng suốt, có tâm hướng thượng, có ý tốt đẹp, có các quyền đã được thực hành, đã chạm đến nền tảng của Niết Bàn, pháp vô vi.” |
…Adhimutto thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Adhimutta đã nói những lời kệ như thế. |
2. Pārāpariyattheragāthā |
(CCXLIX) Pàràpariya (Thera. 72) |
Kệ ngôn của trưởng lão Pārāsariya. |
|
Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Sàvatthi, làm một con Bà-la-môn nổi tiếng, và khi lớn lên ngài được gọi theo tên gia tộc Pàrapara là Pàràpariya. Được khéo giáo dục về văn hệ Bà-la-môn, một hôm ngài đi đến tịnh xá Jetavana trong khi Thế Tôn đang thuyết pháp, và đến ngồi nghe, gần phía bên ngoài hội chúng. Bậc Đạo Sư, nhận xét tâm tánh ngài, dạy kinh ‘Căn tu tập Indriyabhàvanà’, nghe xong, ngài khởi lòng tin, xin xuất gia. Sau khi học kinh này thuộc lòng, ngài suy tư trên ý nghĩa, nghĩ rằng: ‘Trong những bài kệ, ý nghĩa được xuất hiện như thế này, thế này’. Sau khi suy tư về vấn đề các căn cảm thọ, ngài phát triển thiền quán và sau một thời gian, ngài chứng quả A-la-hán. Về sau, ngài nói lên thiền định của ngài với những bài kệ như sau: |
|
726. ‘‘Samaṇassa ahu cintā, pārāpariyassa bhikkhuno; Ekakassa nisinnassa, pavivittassa jhāyino. |
726. Khi Tỷ-kheo tên là,. Pàràpariya, Ngồi độc cư một mình, Viễn ly, tu thiền định, Những tâm tư như sau, Được khởi lên nơi ngài: |
726. “Vị Sa-môn tỳ khưu Pārāsariya, ngồi đơn độc một mình, sống tách ly, chứng thiền, đã khởi suy nghĩ rằng: |
727. ‘‘Kimānupubbaṃ puriso, kiṃ vataṃ kiṃ samācāraṃ; Attano kiccakārīssa, na ca kañci viheṭhaye. |
727. Có gì là thứ lớp,. Là giới cấm, động tác? Con người làm phận mình, Không làm hại một ai? |
727. ‘Theo tuần tự nào, phận sự nào, sự thọ trì nào, con người có thể trở thành người thực hành bổn phận của bản thân mà không gây hại bất cứ ai? |
728. ‘‘Indriyāni manussānaṃ, hitāya ahitāya ca; Arakkhitāni ahitāya, rakkhitāni hitāya ca. |
728. Các căn của loài Người,. Làm lợi ích, làm hại, Không hộ trì, làm hại, Có hộ trì, làm lợi. |
728. Các giác quan của loài người đưa đến sự lợi ích và đưa đến sự không lợi ích; không được bảo vệ thì đưa đến sự không lợi ích, và được bảo vệ thì đưa đến sự lợi ích. |
729. ‘‘Indriyāneva sārakkhaṃ, indriyāni ca gopayaṃ; Attano kiccakārīssa, na ca kañci viheṭhaye. |
729. Người chế ngự các căn,. Nguời phòng hộ các căn, Người làm bổn phận mình, Không làm hại một ai. |
729. Trong khi bảo vệ các giác quan và trong khi canh phòng các giác quan như vậy, người ấy có sự thực hành bổn phận của bản thân và không gây hại bất cứ ai. |
730. ‘‘Cakkhundriyaṃ ce rūpesu, gacchantaṃ anivārayaṃ; Anādīnavadassāvī, so dukkhā na hi muccati. |
730. Con mắt đi đến sắc,. Không chế ngự ngăn chận, Không thấy các nguy hiểm, Vị ấy không thoát khổ. |
730. Nếu trong khi nhãn quyền đang đi đến các sắc, người ấy, trong khi không ngăn chặn, không nhìn thấy sự tai hại, hẳn nhiên không được thoát khỏi khổ đau. |
731. ‘‘Sotindriyaṃ ce saddesu, gacchantaṃ anivārayaṃ; Anādīnavadassāvī, so dukkhā na hi muccati. |
731. Lỗ tai đi đến tiếng,. Không chế ngự ngăn chặn, Không thấy sự nguy hiểm, Vị ấy không thoát khổ. |
731. Nếu trong khi nhĩ quyền đang đi đến các thinh, người ấy, trong khi không ngăn chặn, không nhìn thấy sự tai hại, hẳn nhiên không được thoát khỏi khổ đau. |
732. ‘‘Anissaraṇadassāvī, gandhe ce paṭisevati; Na so muccati dukkhamhā, gandhesu adhimucchito. |
732. Không thấy sự xuất ly,. Thọ hưởng các mùi hương, Vị ấy không thoát khổ, Vì tham đắm các hương. |
732. Người không nhìn thấy sự thoát ra, nếu hưởng thụ các mùi hương, người ấy, bị say đắm ở các hương, không được thoát khỏi khổ đau. |
733. ‘‘Ambilaṃ madhuraggañca, tittakaggamanussaraṃ; Rasataṇhāya gadhito, hadayaṃ nāvabujjhati. |
733. Nhớ chua ngọt tối thượng,. Nhớ vị đắng tối thượng, Bị ái vị nô lệ, Tâm không thể giác tỉnh. |
733. Trong khi nhớ lại vị chua, phần tinh túy của vị ngọt, và phần tinh túy của vị chát, người bị cột trói vào sự tham ái ở mùi vị không hiểu được tâm. |
734. ‘‘Subhānyappaṭikūlāni, phoṭṭhabbāni anussaraṃ; Ratto rāgādhikaraṇaṃ, vividhaṃ vindate dukhaṃ. |
734. Tưởng nhớ các cảm xúc,. Đẹp đẽ và khoái cảm, Đam mê, duyên tham ái, Gặp nhiều loại đau khổ. |
734. Trong khi nhớ lại các xúc chạm tốt đẹp, không đáng ghét, người bị luyến ái nhận chịu khổ đau nhiều loại vì lý do luyến ái. |
735. ‘‘Manaṃ cetehi dhammehi, yo na sakkoti rakkhituṃ; Tato naṃ dukkhamanveti, sabbehetehi pañcahi. |
735. Ý đối các pháp này. Tất cả là năm pháp, Không có thể phòng hộ, Khổ đi theo vị ấy. |
735. Và người nào không có khả năng bảo vệ tâm ý đối với các pháp này, vì thế khổ đau theo đuổi người ấy bởi vì tất cả năm loại này. |
736. ‘‘Pubbalohitasampuṇṇaṃ, bahussa kuṇapassa ca; Naravīrakataṃ vagguṃ, samuggamiva cittitaṃ. |
736. Phần lớn các thân xác,. Đầy tràn mủ và máu, Do người thù thắng làm, Thành hộp đẹp tô màu. |
736. (Thân xác) được chứa đầy mủ máu và nhiều vật ghê tởm, tựa như cái hộp xinh xắn đã được tô màu, đã được làm bởi người thợ tài hoa. |
737. ‘‘Kaṭukaṃ madhurassādaṃ, piyanibandhanaṃ dukhaṃ; Khuraṃva madhunā littaṃ, ullihaṃ nāvabujjhati. |
737. Cay đắng như vị ngọt,. Khổ do khả ái buộc, Như dao bén dính mật, Kẻ tham đâu có biết. |
737. Kẻ không biết được sự khoái lạc ở mật ngọt là gay gắt, sự trói buộc với những người yêu dấu là khổ đau, tựa như con dao cạo được liếc xuống liếc lên với mật ngọt. |
738. ‘‘Itthirūpe itthisare, phoṭṭhabbepi ca itthiyā; Itthigandhesu sāratto, vividhaṃ vindate dukhaṃ. |
738. Ai tham đắm nữ sắc,. Nữ vị, nữ xúc chạm, Ai mê say nữ hương, Gặp nhiều loại đau khổ. |
738. Kẻ bị mê mẩn ở sắc của người nữ, ở âm thanh của người nữ, và luôn cả ở xúc của người nữ, ở các hương của người nữ, nhận chịu khổ đau nhiều loại. |
739. ‘‘Itthisotāni sabbāni, sandanti pañca pañcasu; Tesamāvaraṇaṃ kātuṃ, yo sakkoti vīriyavā. |
739. Mọi dòng từ nữ nhân,. Năm loại tràn năm xứ, Người có tinh tấn lực, Có thể ngăn chận chúng. |
739. Tất cả các dòng chảy ở người nữ, năm (cảnh ngoại) chảy tràn ở năm (giác quan). Vị ấy, có sự tinh tấn, có khả năng thực hiện việc ngăn chặn đối với chúng. |
740. ‘‘So atthavā so dhammaṭṭho, so dakkho so vicakkhaṇo; Kareyya ramamānopi, kiccaṃ dhammatthasaṃhitaṃ. |
740. Người có đích, trú pháp,. Người thiện xảo, sáng suốt, Hoan hỷ làm nghĩa vụ, Liên hệ đến pháp, nghĩa. |
740. Vị ấy có mục đích, vị ấy đứng vững trong Giáo Pháp, vị ấy khôn khéo, vị ấy sáng suốt, ngay cả trong khi vui thú, có thể thực hành phận sự liên quan đến Giáo Pháp và mục đích. |
741. ‘‘Atho sīdati saññuttaṃ, vajje kiccaṃ niratthakaṃ; ‘Na taṃ kicca’nti maññitvā, appamatto vicakkhaṇo. |
741. Chìm trong việc lợi tạm,. Hãy bỏ việc không lợi, Nếu nó nghĩ việc ấy, Không phải việc nên làm, Vị ấy không phóng dật, Sáng suốt thấy rõ vậy. |
741. Khi bị chìm đắm trong việc thế sự, người không xao lãng, sáng suốt, sau khi suy nghĩ rằng: ‘Việc ấy không phải là việc cần làm,’ rồi nên xa lánh việc làm không liên quan đến mục đích. |
742. ‘‘Yañca atthena saññuttaṃ, yā ca dhammagatā rati; Taṃ samādāya vattetha, sā hi ve uttamā rati. |
742. Nếu là việc làm tốt,. Hân hoan hành đúng pháp, Hãy nắm việc làm ngay, Đấy thật lạc tối thượng. |
742. Việc nào gắn liền với mục đích và thú vui nào đưa đến Giáo Pháp, thì nên nắm lấy việc ấy và nên vận hành, bởi vì thú vui ấy là tối thượng. |
743. ‘‘Uccāvacehupāyehi, paresamabhijigīsati; Hantvā vadhitvā atha socayitvā, ālopati sāhasā yo paresaṃ. |
743. Với phương tiện cao thấp,. Lừa dối các người khác, Đánh giết, làm sầu khổ, Hung bạo, áp đảo người. |
743. Kẻ mong muốn thâu gom vật thuộc về những người khác bằng nhiều phương cách khác nhau, là kẻ sau khi giết hại, đả thương, rồi gây nên sầu muộn, và cưỡng đoạt bằng bạo lực vật thuộc về những người khác. |
744. ‘‘Tacchanto āṇiyā āṇiṃ, nihanti balavā yathā; Indriyānindriyeheva, nihanti kusalo tathā. |
744. Như người mạnh đẽo gỗ, Dùng nêm đánh bật nêm, Cũng vậy là kẻ thiện, Dùng căn đánh bật căn. |
744. Giống như người có sức mạnh, trong khi đục đẽo, đánh bật cái nêm ra bằng cái nêm, tương tự như thế người thiện xảo đánh bật các giác quan bằng chính các giác quan. |
745. ‘‘Saddhaṃ vīriyaṃ samādhiñca, satipaññañca bhāvayaṃ; Pañca pañcahi hantvāna, anīgho yāti brāhmaṇo. |
745. Tu tập tín, tấn, định,. Huấn luyện niệm, trí tuệ, Dùng năm đánh đổ năm, Không tỳ vết bước tới. |
745. Trong khi tu tập tín, tấn, định, niệm, và tuệ, sau khi tiêu diệt năm bằng năm,[1] vị Bà-la-môn ra đi, không bị khổ sở.’ |
746. ‘‘So atthavā so dhammaṭṭho, katvā vākyānusāsaniṃ; Sabbena sabbaṃ buddhassa, so naro sukhamedhatī’’ti. |
746. Là vị Bà-la-môn,. Người có đích, trú pháp, Làm theo giáo huấn Phật, Làm toàn diện, toàn lực, Người ấy hưởng an lạc. |
746. Vị ấy có mục đích, vị ấy đứng vững ở Giáo Pháp, sau khi thực hiện toàn bộ lời giáo huấn của đức Phật bằng mọi cách thức, người ấy thành tựu sự an lạc.” |
…Pārāpariyo thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Pārāsariya đã nói những lời kệ như thế. |
3. Telakānittheragāthā |
(CCL) Kelakàni (Thera. 298) |
Kệ ngôn của trưởng lão Telakāni. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trước đức Phật ở Sàvatthi trong một gia đình Bà-la-môn và đặt tên là Kelakàni. Quá kinh nghiệm về những vấn đề quá khứ, ngài chán nản dục vọng và xuất gia làm người du sĩ ngoại đạo.Tìm sự giải thoát tinh thần, ngài giao du nhiều chỗ, nghĩ rằng ai ở đời này đã đến được bờ bên kia. Ngài hỏi rất nhiều Sa-môn và Bà-la-môn nhưng không được trả lời thỏa đáng. Lúc bấy giờ, Thế Tôn đã ra đời, đang chuyển Pháp Luân, đem lại hạnh phúc cho chúng sanh. Một hôm, Kelakàni nghe đức Phật thuyết pháp, khởi lòng tin, được xuất gia và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Một hôm, ngồi với các Tỷ-kheo, nhớ đến sự khó nhọc tìm đạo và chứng đạo của mình, ngài tuyên bố với chúng Tỷ-kheo như sau: |
|
747. ‘‘Cirarattaṃ vatātāpī, dhammaṃ anuvicintayaṃ; Samaṃ cittassa nālatthaṃ, pucchaṃ samaṇabrāhmaṇe. |
747. Lâu ngày, đầy nhiệt tình,. Ta suy tư Chánh pháp, Hỏi Sa-môn, Phạm chí, Nhưng tâm không an tịnh. |
747. “Quả thật, có sự tinh cần một thời gian dài, trong khi suy tư về Giáo Pháp, trong khi học hỏi các vị Sa-môn và Bà-la-môn, tôi đã không đạt được sự bình lặng của tâm. |
748. ‘‘‘Ko so pāraṅgato loke, ko patto amatogadhaṃ; Kassa dhammaṃ paṭicchāmi, paramatthavijānanaṃ’. |
748. Ở đời, ai đã đến,. Đến được bờ bên kia, Ai đã chứng đạt được, Lặn sâu vào bất tử, Pháp ai ta chấp nhận, Pháp thông đệ nhất nghĩa. |
748. Ở thế gian, ai là người đã đi đến bờ kia? Ai đã đạt được sự thể nhập vào Bất Tử? Giáo Pháp tuyên bố về mục đích tối hậu của vị nào mà tôi chấp nhận? |
749. ‘‘Antovaṅkagato āsi, macchova ghasamāmisaṃ; Baddho mahindapāsena, vepacityasuro yathā. |
749. Mắc lưỡi câu bên trong,. Như cá ăn mồi tục, Ta bị bắt, bị trói, Chẳng khác A-tu-la, Tên Vê-pa-xi-li, Bị lưới Đế Thích trói. |
749. Tôi đã bị vướng lưỡi câu ở bên trong, tựa như con cá ăn miếng mồi, giống như A-tu-la Vepacitti bị vướng bẫy sập của vị thần Inda vĩ đại. |
750. ‘‘Añchāmi naṃ na muñcāmi, asmā sokapariddavā; Ko me bandhaṃ muñcaṃ loke, sambodhiṃ vedayissati. |
750. Ta kéo lê xiềng xích,. Không sao thoát sầu bi, Ai cởi trói cho ta, Giúp ta chứng Chánh giác. |
750. Tôi kéo theo cái ấy, tôi không được thoát khỏi sự sầu muộn và than vãn này. Người nào, trong khi cởi ra sự trói buộc cho tôi, sẽ giúp cho tôi hiểu được sự giác ngộ ở thế gian? |
751. ‘‘Samaṇaṃ brāhmaṇaṃ vā kaṃ, ādisantaṃ pabhaṅgunaṃ. Kassa dhammaṃ paṭicchāmi, jarāmaccupavāhanaṃ. |
751. Sa-môn, Phạm chí nào,. Nói cách hủy hoại chúng, Pháp ai ta chấp nhận, Giúp từ bỏ già chết, |
751. Vị Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào đang chỉ ra sự phá vỡ (các phiền não), Giáo Pháp có sự xua đi già và chết của vị nào mà tôi chấp nhận? |
752. ‘‘Vicikicchākaṅkhāganthitaṃ, sārambhabalasaññutaṃ; Kodhappattamanatthaddhaṃ, abhijappappadāraṇaṃ. |
752. Bị nghi hoặc trói buộc,. Bị hăng say chi phối, Khiến tánh tình phẫn nộ, Khiến tâm tư cứng rắn, Bị xâu xé cắt đứt, Bởi lòng tham mạnh mẽ. |
752. Mũi tên tham ái, bị cột trói chung với sự phân vân và nghi hoặc, bị gắn liền với sức mạnh của sự tự cao, bị cố chấp khi tâm đạt đến sự phẫn nộ. |
753. ‘‘Taṇhādhanusamuṭṭhānaṃ, dve ca pannarasāyutaṃ [dvedhāpannarasāyutaṃ (?)]; Passa orasikaṃ bāḷhaṃ, bhetvāna yadi [yada (sī. aṭṭha.) hadi (?) ‘‘hadaye’’ti taṃsaṃvaṇṇanā] tiṭṭhati. |
753. Bị cung ái bắn trúng,. Ba mươi kiến trói buộc, Xem sức mạnh ngực ta, Bị áp đè, vẫn vững, |
753. Được phát xuất từ cây cung tham ái, và được kết nối với hai lần mười lăm (ba mươi tà kiến), ngươi hãy nhìn xem nó đã chẻ ra lồng ngực chắc chắn, rồi đứng yên. |
754. ‘‘Anudiṭṭhīnaṃ appahānaṃ, saṅkappaparatejitaṃ; Tena viddho pavedhāmi, pattaṃva māluteritaṃ. |
754. Các tùy kiến không đoạn,. Các tư niệm dao động, Bị chúng đâm, ta run, Như lá bị gió thổi, |
754. Việc không từ bỏ các tà kiến phụ thuộc đã được thúc đẩy bởi sự suy tư và ký ức. Bị xuyên thủng bởi nó (mũi tên tà kiến), tôi run rẩy, tựa như chiếc lá bị lay động bởi làn gió. |
755. ‘‘Ajjhattaṃ me samuṭṭhāya, khippaṃ paccati māmakaṃ; Chaphassāyatanī kāyo, yattha sarati sabbadā. |
755. Khởi lên từ nội tâm,. Đốt cháy nhanh ngã sở, Thân với sáu xúc xứ, Ngã hữu từ đấy sanh. |
755. Sau khi sanh khởi ở nội tâm của tôi, bản ngã tức thời được nung nấu. Cái thân thể với sáu xúc xứ là nơi (bản ngã) phát xuất vào mọi lúc. |
756. ‘‘Taṃ na passāmi tekicchaṃ, yo metaṃ sallamuddhare; Nānārajjena satthena [nāraggena na satthena (?)], nāññena vicikicchitaṃ. |
756. Ta không thấy lương y,. Rút mũi tên cho ta, Dùng cách khác dò tìm, Không dùng dao thăm dò. |
756. Tôi không nhìn thấy người thầy thuốc nào có thể nhổ lên mũi tên ấy cho tôi bằng vật dụng các loại, không có dao mổ và dụng cụ khác, là điều còn hoài nghi. |
757. ‘‘Ko me asattho avaṇo, sallamabbhantarapassayaṃ; Ahiṃsaṃ sabbagattāni, sallaṃ me uddharissati. |
757. Có vị lương y nào,. Không dao, không vết thương, Không hại đến tay chân, Rút mũi tên cho ta, Mũi tên đã đâm vào, Trong nội tâm của ta, |
757. Ai không (cầm) dao mổ, không (gây) vết thương, sẽ nhổ lên mũi tên cho tôi, mũi tên có sự cắm sâu bên trong, mà không làm thương tổn mọi bộ phận cơ thể. |
758. ‘‘Dhammappati hi so seṭṭho, visadosappavāhako; Gambhīre patitassa me, thalaṃ pāṇiñca dassaye. |
758. Bậc Pháp chủ tối tôn,. Loại trừ thuốc độc hại, Khi ta rơi vực sâu, Đưa tay giúp đỡ ta, Tới đất liền an toàn. |
758. Chính bậc Pháp Chủ hàng đầu ấy, người lấy đi sự tác hại của chất độc, có thể giúp cho tôi nhìn thấy mặt đất (Niết Bàn) và bàn tay (Thánh Đạo) khi tôi đã bị rơi vào vực sâu. |
759. ‘‘Rahadehamasmi ogāḷho, ahāriyarajamattike; Māyāusūyasārambha, thinamiddhamapatthaṭe. |
759. Ta lặn sâu trong hồ,. Đầy bụi bùn không thoát, Đầy man trá, tật đố, Căng thẳng và hôn ám. |
759. Tôi bị chìm sâu trong hồ chứa bụi bặm và bùn lầy ứ đọng, bị bao trùm bởi sự xảo trá, ganh tỵ, tự cao, và dã dượi buồn ngủ. |
760. ‘‘Uddhaccameghathanitaṃ, saṃyojanavalāhakaṃ; Vāhā vahanti kuddiṭṭhiṃ [duddiṭṭhiṃ (sī. dha. pa. 339)], saṅkappā rāganissitā. |
760. Sấm trạo cử nổ vang,. Mây kiết sử bao phủ, Thác nước tà tư duy, Liên hệ đến tham dục, Chúng lôi cuốn trôi ta, Vào đại dương tà kiến. |
760. Sấm sét từ đám mây phóng dật, đám mây của (mười) sự ràng buộc, các suy tư phụ thuộc vào luyến ái là các dòng chảy cuốn trôi kẻ có tà kiến xấu xa. |
761. ‘‘Savanti sabbadhi sotā, latā ubbhijja tiṭṭhati; Te sote ko nivāreyya, taṃ lataṃ ko hi checchati. |
761. Khắp nơi, dòng suối chảy,. Cây leo đứng, đâm chồi, Ai chận đứng dòng ấy? Ai chặt đứt cây leo? |
761. Các dòng nước chảy tràn khắp mọi nơi, loài dây leo đâm chồi và tồn tại, ai có thể ngăn chặn các dòng nước ấy, ai sẽ chặt đứt loài dây leo ấy? |
762. ‘‘Velaṃ karotha bhaddante, sotānaṃ sannivāraṇaṃ; Mā te manomayo soto, rukkhaṃva sahasā luve. |
762. Tôn giả hãy làm đê,. Ngăn chận những dòng suối, Chớ có để dòng nước, Do ý sanh cuốn ngài, Như dòng nước cuốn gấp, Trôi cây chảy theo dòng. |
762. Thưa ngài đại đức, ngài hãy tạo ra vòng đai ngăn chặn các dòng nước, chớ để dòng nước do tâm tạo nhấn chìm ngài một cách tàn bạo, tựa như khúc cây. |
763. ‘‘Evaṃ me bhayajātassa, apārā pāramesato; Tāṇo paññāvudho satthā, isisaṅghanisevito. |
763. Cũng vậy ta sợ hãi,. Bờ này tìm bờ kia, Khi ấy bậc Đạo Sư, Có Thánh chúng hầu hạ, Với binh khí trí tuệ, Chờ y chỉ cho người. |
763. Tương tự như vậy, đối với tôi, kẻ đã khởi sanh nỗi sợ hãi, từ bờ bên này đang tìm kiếm bờ kia, thì bậc Đạo Sư, được tập thể các vị ẩn sĩ tháp tùng, có vũ khí trí tuệ, là chốn nương tựa của tôi. |
764. ‘‘Sopāṇaṃ sugataṃ suddhaṃ, dhammasāramayaṃ daḷhaṃ; Pādāsi vuyhamānassa, ‘mā bhāyī’ti ca mabravi. |
764. Đưa ta, đang chìm đắm,. Chiếc cầu thang, khéo làm, Phật thanh tịnh, vững chắc, Làm bằng lõi Chánh pháp, Rồi ngài nói với ta, Chớ có sợ hãi gì!. |
764. Trong lúc tôi đang bị cuốn trôi, Ngài đã trao cho tôi chiếc thang đã khéo được thực hiện, trong sạch, làm bằng chất tinh túy của Giáo Pháp, vững chắc, và đã nói rằng: ‘Chớ sợ hãi.’ |
765. ‘‘Satipaṭṭhānapāsādaṃ, āruyha paccavekkhisaṃ; Yaṃ taṃ pubbe amaññissaṃ, sakkāyābhirataṃ pajaṃ. |
765. Leo lên lầu niệm xứ,. Từ đấy ta quán sát, Loài Người ưa thân kiến, Trước đây, ta tự hào. |
765. Sau khi leo lên tòa lâu đài của sự thiết lập niệm, tôi đã quán xét lại về điều mà tôi đã quan niệm trước đây, là loài người thích thú với bản thân của mình. |
766. ‘‘Yadā ca maggamaddakkhiṃ, nāvāya abhirūhanaṃ; Anadhiṭṭhāya attānaṃ, titthamaddakkhimuttamaṃ. |
766. Khi ta thấy con đường,. Con thuyền cần leo lên, Ta không trú tự ngã, Vì thấy bến tối thượng. |
766. Và từ khi tôi đã nhìn thấy Đạo Lộ có sự đưa lên con thuyền, tôi đã không chăm chú về bản thân, và tôi đã nhìn thấy bến tàu tối thượng. |
767. ‘‘Sallaṃ attasamuṭṭhānaṃ, bhavanettippabhāvitaṃ; Etesaṃ appavattāya [appavattiyā (?)], desesi maggamuttamaṃ. |
767. Mũi tên khởi tự ngã,. Sanh do nhân sanh hữu Ngài dạy đường tối thượng, Chấm dứt các pháp ấy. |
767. Mũi tên có nguồn phát xuất ở tự ngã, đã sản sanh ra lối dẫn đến hiện hữu; Ngài đã thuyết giảng Đạo Lộ tối thượng đưa đến sự ngưng vận hành của những việc này. |
768. ‘‘Dīgharattānusayitaṃ, cirarattamadhiṭṭhitaṃ; Buddho mepānudī ganthaṃ, visadosappavāhano’’ti. |
768. Cột gút đã lâu ngày,. ẩn nằm, trú trong da, Đức Phật cởi, quăng đi, Loại bỏ mọi độc hại. |
768. Đức Phật, với việc lấy đi sự tác hại của chất độc, đã cởi bỏ cho tôi mối buộc thắt đã được tiềm ẩn thời gian dài, đã được tồn tại thời gian lâu.” |
…Telakāni thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Telakāni đã nói những lời kệ như thế. |
4. Raṭṭhapālattheragāthā |
(CCLI) Ratthapàla (Thera. 75) |
Kệ ngôn của trưởng lão Raṭṭhapāla. |
|
Trong thời Đức Phật hiện tại, ngài sanh ra ở nước Kuru, trong thành phố Thullakotthita, con của một hội viên hội đồng thành phố tên Ratthapàla và được gọi theo tên gia tộc, ngài được sống trong nhung lụa, lớn lên được gả vợ và sống như một thiên thần. Khi đức Phật đến thuyết pháp ở Thullakotthila, Ratthapàla đến nghe giảng, khởi lòng tin, xin cha mẹ được xuất gia rất khó khăn. Đi đến bậc Đạo Sư, ngài được thọ giới với một Tỷ-kheo theo lời giới thiệu của đức Phật, tu học rất tinh tấn, phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Rồi ngài được phép về thăm cha mẹ, đi đến Thullakotthita và đi khất thực từng nhà. Đến nhà cha mẹ, ngài nhận được cơm chua đã lâu ngày nhưng ngài vẫn ăn như là đồ ăn bất tử. Ngày sau, theo lời mời của người cha, ngài đến thăm nhà và các người vợ trước của ngài, ăn mặc rất đẹp đẽ, hỏi ngài, vì những thiên nữ nào, ngài đã xuất gia. Ngài thuyết pháp cho họ về vô thường v.v… từ khước những hành vi cám dỗ của họ: |
|
769. [ma. ni. 2.302] ‘‘Passa cittakataṃ bimbaṃ, arukāyaṃ samussitaṃ; Āturaṃ bahusaṅkappaṃ, yassa natthi dhuvaṃ ṭhiti. |
769. Hãy xem bóng trang sức,. Nhóm vết thương tích tụ, Bệnh hoạn, nhiều tham tưởng, Nhưng không gì trường cửu. |
769. “Hãy nhìn xem bóng dáng được vẽ màu, nơi hội tụ các vết thương, được dựng lên (bằng ba trăm khúc xương), bệnh hoạn, nhiều suy tư (sái quấy), không có sự tồn tại trường cửu. |
770. ‘‘Passa cittakataṃ rūpaṃ, maṇinā kuṇḍalena ca; Aṭṭhiṃ tacena onaddhaṃ, saha vatthehi sobhati. |
770. Hãy nhìn sắc trang sức,. Với châu báu, vòng tai, Bộ xương, da bảo phủ, Sáng chói nhờ y phục. |
770. Hãy nhìn xem vóc dáng được vẽ màu, với ngọc ma-ni và với bông tai; là xương được bọc lại bởi da, nó rạng rỡ nhờ những vải vóc. |
771. ‘‘Alattakakatā pādā, mukhaṃ cuṇṇakamakkhitaṃ; Alaṃ bālassa mohāya, no ca pāragavesino. |
771. Chân sơn với son, sáp,. Mặt thoa với phấn bột, Chỉ mê hoặc kẻ ngu, Không mẹ bậc cầu giác. |
771. Các bàn chân được sơn màu đỏ, khuôn mặt được bôi phấn bột, là đủ cho sự mê muội đối với kẻ ngu, nhưng không đủ đối với người có sự tầm cầu bờ kia. |
772. ‘‘Aṭṭhapadakatā kesā, nettā añjanamakkhitā; Alaṃ bālassa mohāya, no ca pāragavesino. |
772. Tóc được uốn tám vòng,. Mắt xoa với thuốc son, Chỉ mê hoặc kẻ ngu, Không mê bậc cầu giác. |
772. Các sợi tóc được làm thành tám lớp, các con mắt được bôi thuốc màu, là đủ cho sự mê muội đối với kẻ ngu, nhưng không đủ đối với người có sự tầm cầu bờ kia. |
773. ‘‘Añjanīva navā cittā, pūtikāyo alaṅkato; Alaṃ bālassa mohāya, no ca pāragavesino. |
773. Như hộp thuốc mới sơn,. Uế thân được trang điểm, Chỉ mê hoặc kẻ ngu, Không mẹ bậc cầu giác. |
773. Thân thể hôi thối đã được trang điểm tựa như hộp thuốc bôi đã được vẽ màu, là đủ cho sự mê muội đối với kẻ ngu, nhưng không đủ đối với người có sự tầm cầu bờ kia. |
774. ‘‘Odahi migavo pāsaṃ, nāsadā vāguraṃ migo; Bhutvā nivāpaṃ gacchāma, kandante migabandhake. |
774. Thợ săn bày lưới sập,. Nai khôn không chạm lưới, Ăn mồi xong, ta đi, Mặc kẻ bắt nai khóc. |
774. Thợ săn đã đặt bẫy mồi, con nai đã không đến gần cái lưới bẫy. Sau khi ăn xong mồi nhử, chúng ta hãy ra đi, trong khi kẻ bắt thú đang than vãn. |
775. ‘‘Chinno pāso migavassa, nāsadā vāguraṃ migo; Bhutvā nivāpaṃ gacchāma, socante migaluddake. |
775. Bẫy thợ săn bị cắt,. Nai khôn không chạm lưới, Ăn mồi xong, ta đi, Mặc kẻ săn nai sầu. |
775. Cái bẫy mồi của gã thợ săn đã bị đứt lìa, con nai đã không đến gần cái lưới bẫy. Sau khi ăn xong mồi nhử, chúng ta hãy ra đi, trong khi kẻ săn thú sầu muộn. |
|
Rồi Ratthapàla đi ngang qua hư không đến vườn nai của vua Koravya và ngồi trên một phiến đá. Người cha của ngài cho đóng chốt then cài cả bảy cái cửa, và cắt người giữ ngài không cho đi, lại lấy chiếc y vàng của ngài và choàng vào ngài y trắng của người cư sĩ. Do vậy ngài phải đi ngang qua hư không. Rồi vua Koravya, nghe ngài đã đến vườn nai, liền chào ngài và hỏi: ‘Thưa Tôn giả, ở đời người ta xuất gia vì một vài tai họa, như bệnh hoạn, như tai họa từ nhà vua, về tài sản, về gia đình. Ngài không có một tai họa gì, sao ngài lại xuất gia?’. Vị trưởng lão trả lời: ‘Thế giới là vô thường, không có gì trường cửu. Thế giới không có nơi nương tựa, thiếu thốn, không có thỏa mãn, làm nô lệ cho khát ái’. Rồi ngài nói lên những bài kệ như sau: |
|
776. ‘‘Passāmi loke sadhane manusse, laddhāna vittaṃ na dadanti mohā; Luddhā dhanaṃ sannicayaṃ karonti, bhiyyova kāme abhipatthayanti. |
776. Ta thấy người đời giàu,. Được tiền, si không cho, Vì tham, cất chứa tiền, Chạy theo dục càng nhiều. |
776. Tôi nhìn thấy ở thế gian những người có tài sản, sau khi thâu vào của cải thì không cho ra bởi vì si mê. Những kẻ tham lam thực hiện việc tích lũy tài sản, rồi mong mỏi các dục nhiều thêm hơn nữa. |
777. ‘‘Rājā pasayhappathaviṃ vijetvā, sasāgarantaṃ mahimāvasanto; Oraṃ samuddassa atittarūpo, pāraṃ samuddassapi patthayetha. |
777. Vua dùng lực chiếm đất,. Chiếm ở đến bờ biên, Biên bên này chưa thỏa, Còn muốn biên bờ kia. |
777. Vị vua sau khi chiếm cứ đất đai bằng vũ lực, trong khi cai trị trái đất có biển bao bọc, có vẻ không được thỏa mãn đối với bờ bên này của đại dương, còn mong mỏi thêm bờ bên kia của đại dương. |
778. ‘‘Rājā ca aññe ca bahū manussā, avītataṇhā maraṇaṃ upenti; Ūnāva hutvāna jahanti dehaṃ, kāmehi lokamhi na hatthi titti. |
778. Vua và rất nhiều người,. Ai chưa chết, đã chết, Tái sanh, bị thiếu thốn, Chúng từ bỏ thân này, Nhưng ở đời lòng dục, Không bao giờ thỏa mãn. |
778. Vua và nhiều người khác tiến đến gần cái chết, với tham ái chưa được xa lìa. Họ từ bỏ xác thân, luôn bị thiếu thốn, bởi vì ở thế gian không có sự thỏa mãn về các dục. |
779. ‘‘Kandanti naṃ ñātī pakiriya kese, aho vatā no amarāti cāhu; Vatthena naṃ pārutaṃ nīharitvā, citaṃ samodhāya tato ḍahanti. |
779. Bà con than khóc nó,. Tóc xõa, rối tơ vò, Chúng nói: Ôi chúng ta, Không có được bất tử, Thân trùm vải, chúng mang, Dựng giàn hỏa, chúng thiêu. |
779. Các thân quyến, xổ tung đầu tóc, than khóc cho kẻ ấy, và họ đã nói rằng: ‘Ôi, thật rồi! Có thể nào thân quyến của chúng tôi không chết!’ Rồi họ quấn kẻ ấy bằng vải, mang ra ngoài, đặt ở giàn hỏa thiêu, sau đó đốt cháy. |
780. ‘‘So ḍayhati sūlehi tujjamāno, ekena vatthena [etena gatthena (ka.)] pahāya bhoge; Na mīyamānassa bhavanti tāṇā, ñātī ca mittā atha vā sahāyā. |
780. Bị cây đâm, cây thọc,. Nó bị thiêu bị cháy, Chỉ với một tấm vải, Từ bỏ mọi tài sản, Kẻ chết không nương tựa, Bà con, bạn láng giềng. |
780. Trong khi bị đâm thọc bởi những cọc nhọn, kẻ ấy bị đốt cháy với một tấm vải, sau khi đã bỏ lại các của cải. Đối với người bị chết, các bà con, bạn bè, hoặc là thân hữu, không phải là chốn nương nhờ. |
781. ‘‘Dāyādakā tassa dhanaṃ haranti, satto pana gacchati yena kammaṃ; Na mīyamānaṃ dhanamanveti [manviti (ka.)] kiñci, puttā ca dārā ca dhanañca raṭṭhaṃ. |
781. Kẻ thừa tự mang đi,. Tài sản gia nghiệp nó. Riêng con người phải đi, Theo chỗ, nghiệp nó tạo, Tài sản không có đi, Đi theo người đã chết, Không con trai, không vợ, Không tài sản, quốc độ. |
781. Những người thừa tự mang đi tài sản của kẻ ấy, còn chúng sanh đi theo nghiệp. Không có bất cứ tài sản nào đi theo kẻ bị chết, luôn cả các con trai, các người vợ, tài sản, và xứ sở. |
782. ‘‘Na dīghamāyuṃ labhate dhanena, na cāpi vittena jaraṃ vihanti; Appappaṃ hidaṃ jīvitamāhu dhīrā, asassataṃ vippariṇāmadhammaṃ. |
782. Tài sản không làm sao,. Mua được tuổi trường thọ; Phú quý nào có thể, Tránh khỏi được già suy. Bậc có trí nói rằng: Mạng sống này ít ỏi, Thật sự là vô thường, Luôn luôn bị biến hoại. |
782. Không thể đạt được tuổi thọ dài lâu nhờ vào tài sản, và cũng không tiêu diệt được tuổi già nhờ vào của cải, bởi vì các bậc sáng trí đã nói rằng, mạng sống này là ít ỏi, không trường tồn, là pháp có sự tiêu hoại. |
783. ‘‘Aḍḍhā daliddā ca phusanti phassaṃ, bālo ca dhīro ca tatheva phuṭṭho; Bālo hi bālyā vadhitova seti, dhīro ca no vedhati phassaphuṭṭho. |
783. Giàu, nghèo đều cảm xúc,. Ngu, trí đồng cảm thọ, Kẻ ngu bị ngu đánh, Ngã quỵ, nằm dài xuống. Còn bậc trí không sợ, Đối với mọi cảm xúc. |
783. Những người giàu có và nghèo khó đều chạm đến xúc, tương tự y như thế các kẻ ngu dốt và sáng suốt đều bị xúc chạm. Chính kẻ ngu dốt nằm dài tựa như bị đả thương vì sự ngu dốt, còn người sáng suốt, bị chạm đến bởi xúc, vẫn không xao động. |
784. ‘‘Tasmā hi paññāva dhanena seyyā, yāya vosānamidhādhigacchati; Abyositattā hi bhavābhavesu, pāpāni kammāni karoti mohā. |
784. Do vậy tuệ thắng tài,. Nhờ tuệ đạt viên mãn, Chưa đạt được cứu cánh, Đối với hữu, phi hữu, Kẻ ngu làm các nghiệp, Ác độc và bất thiện. |
784. Chính vì điều ấy, trí tuệ là tốt hơn tài sản, nhờ vào trí tuệ mà chứng đạt sự kết thúc ở nơi đây. Chính vì tình trạng chưa được kết thúc ở các cõi hữu và phi hữu, chúng làm các hành động ác xấu do sự si mê. |
785. ‘‘Upeti gabbhañca parañca lokaṃ, saṃsāramāpajja paramparāya; Tassappapañño abhisaddahanto, upeti gabbhañca parañca lokaṃ. |
785. Nhập thai, sanh đời khác,. Luân hồi, tiếp tục sanh, Kẻ ít trí, tin tưởng, Nhập thai, sanh đời khác. |
785. Kẻ vướng vào luân hồi theo tuần tự đi đến thai bào và thế giới khác, kẻ có chút ít trí tuệ, trong khi tin chắc về điều ấy, đi đến thai bào và thế giới khác. |
786. ‘‘Coro yathā sandhimukhe gahīto, sakammunā haññati pāpadhammo; Evaṃ pajā pecca paramhi loke, sakammunā haññati pāpadhammo. |
786. Như kẻ trộm bị bắt,. Quả tang, khi ăn trộm, Do nghiệp tự chính nó, Bị hại theo ác tội, Cũng vậy sau khi chết, Quần chúng trong đời sau, Do nghiệp tự chính nó, Bị hại theo ác tội. |
786. Giống như kẻ trộm cướp, có bản chất xấu xa, bị bắt giữ lúc khởi sự xâm nhập vào ngôi nhà, rồi bị hành hạ do việc làm của chính mình, tương tự như thế loài người, có bản chất xấu xa, sau khi đi đến thế giới khác bị hành hạ do việc làm của chính mình. |
787. ‘‘Kāmā hi citrā madhurā manoramā, virūparūpena mathenti cittaṃ; Ādīnavaṃ kāmaguṇesu disvā, tasmā ahaṃ pabbajitomhi rāja. |
787. Các dục thật đẹp đẽ,. Vị ngọt và khả ái, Chúng làm tâm đắm say, Với sắc và phi sắc, Do thấy sự nguy hiểm, Trong các dục công đức, Do vậy tôi xuất gia, Như vậy thưa Đại vương, |
787. Bởi vì các dục là đa dạng, ngọt ngào, làm thích ý, khuấy động tâm theo nhiều hình thức, sau khi nhìn thấy sự tai hại ở các loại dục, vì thế, tâu đức vua, tôi đã xuất gia. |
788. ‘‘Dumapphalānīva patanti māṇavā, daharā ca vuḍḍhā ca sarīrabhedā; Etampi disvā pabbajitomhi rāja, apaṇṇakaṃ sāmaññameva seyyo. |
788. Như trái cây rụng xuống,. Cũng vậy tuổi thanh niên, Lớn lên và già yếu, Rồi thân hoại mạng chung, Thấy vậy tôi xuất gia, Như vậy thưa Đại vương, Đời sống Sa-môn hạnh, Chơn thật, tốt đẹp hơn. |
788. Tựa như các trái cây rụng xuống, những người thanh niên, còn trẻ, và trưởng thành, rơi xuống do sự tan rã của thể xác, cũng sau khi nhìn thấy điều này, tâu đức vua, tôi đã xuất gia, chỉ riêng đời sống Sa-môn không lỗi lầm là tốt hơn. |
789. ‘‘Saddhāyāhaṃ pabbajito, upeto jinasāsane; Avajjhā mayhaṃ pabbajjā, anaṇo bhuñjāmi bhojanaṃ. |
789. Tín tâm tôi xuất gia,. Vào giáo hội bậc thánh, Tôi xuất gia không tội, Không nợ, tôi thọ thực. |
789. Vì lòng tin, tôi đã xuất gia, tôi đã đi đến Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, sự xuất gia của tôi là không vô ích, tôi thọ dụng thức ăn không phải nợ nần. |
790. ‘‘Kāme ādittato disvā, jātarūpāni satthato; Gabbhavokkantito dukkhaṃ, nirayesu mahabbhayaṃ. |
790. Thấy dục như lửa hừng,. Thấy vàng như dao đâm, Xem nhập thai là khổ, Họa lớn trong địa ngục. |
790. Sau khi nhìn thấy các dục là vật bị thiêu đốt, các loại vàng (bạc) là con dao, nỗi khổ đau do việc nhập vào bào thai, nỗi sợ hãi lớn lao ở các địa ngục. |
791. ‘‘Etamādīnavaṃ ñatvā, saṃvegaṃ alabhiṃ tadā; Sohaṃ viddho tadā santo, sampatto āsavakkhayaṃ. |
791. Thấy nguy hiểm như vậy,. Ta cảm thấy hoảng sợ, Khi bị đâm, bị thương, Ta đạt được tịch tịnh, Và ta tận diệt được, Cả ba loại lậu hoặc. |
791. Sau khi biết được sự tai hại này, khi ấy tôi đã cảm nhận sự chấn động, khi ấy tôi đây đã được thấu triệt, an tịnh, tôi đã đạt được sự cạn kiệt của các lậu hoặc. |
792. ‘‘Pariciṇṇo mayā satthā, kataṃ buddhassa sāsanaṃ; Ohito garuko bhāro, bhavanetti samūhatā. |
792. Đạo Sư, ta hầu hạ,. Lời Phật dạy, làm xong, Gánh nặng, đặt xuống thấp, Gốc sanh hữu, nhổ sạch. |
792. Bậc Đạo Sư đã được tôi hầu hạ, lời dạy của đức Phật đã được thực hành, vật mang nặng đã được đặt xuống, lối dẫn đến hiện hữu đã được xóa sạch. |
793. ‘‘Yassatthāya pabbajito, agārasmānagāriyaṃ; So me attho anuppatto, sabbasaṃyojanakkhayo’’ti. |
793. Vì đích gì xuất gia,. Bỏ nhà, sống không nhà, Mục đích ấy ta đạt, Mọi kiết sử tận diệt. |
793. Và vì mục đích nào mà tôi đã xuất gia, rời nhà sống không nhà, mục đích ấy của tôi, sự cạn kiệt tất cả các điều ràng buộc, đã được thành tựu.” |
… Raṭṭhapālo thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Raṭṭhapāla đã nói những lời kệ như thế. |
5. Mālukyaputtattheragāthā |
(CCLII) Màlunkyaputta (Thera. 77). |
Kệ ngôn của trưởng lão Māluṅkyaputta. |
|
Đời sống của ngài được ghi trong chương VI (CCXIV) khi bậc Trưởng lão đã chứng quả A-la-hán, nói lên bài kệ để dạy cho các bà con về con đường. Nhưng trong những bài kệ này, bậc Trưởng lão chưa chứng quả A-la-hán, hỏi Thế Tôn về giáo lý vắn tắt, và được Thế Tôn trả lời: |
|
|
– Này Màlunkyaputta, Ông nghĩ thế nào? Những pháp mà Ông chưa bao giờ thấy nghe, ngửi, nếm, cảm xúc, và nhận thức, hiện tại Ông không có lãnh thọ và đối với chúng, Ông cũng không muốn có cảm thọ và suy tưởng, vậy Ông có ước muốn, tha thiết được chúng hay không?’. |
|
|
– Thưa không, bạch Thế Tôn. |
|
|
– Ở đây, này Màlunkyaputta, khi Ông không có cảm thọ, cảm tưởng chúng,Ông chỉ có thọ và tưởng thuần túy. Nếu là như vậy, thời Ông không có tham, sân, si. Do vậy, ở đây hay tại chỗ nào, hay đời sau chính như vậy, như vậy là sự chấm dứt đau khổ. Rồi Màlunkyaputta, nêu rõ ngài đã thâu nhận giáo lý được giảng dạy này, ngài nói lên trong những bài kệ như sau: |
|
794. [saṃ. ni. 4.95] ‘‘Rūpaṃ disvā sati muṭṭhā, piyaṃ nimittaṃ manasi karoto; Sārattacitto vedeti, tañca ajjhossa tiṭṭhati. |
794. Thấy sắc, niệm say mê,. Nếu tác ý ái tưởng, Tâm tham đắm cảm thọ, Tâm nhập và an trú. |
794. “Sau khi nhìn thấy sắc, trong khi chú ý đến dấu hiệu yêu thích thì niệm của người ấy bị quên lãng. Người có tâm đã bị luyến ái, cảm nhận và vướng mắc vào điều ấy, rồi tồn tại. |
795. ‘‘Tassa vaḍḍhanti vedanā, anekā rūpasambhavā; Abhijjhā ca vihesā ca, cittamassūpahaññati; Evamācinato dukkhaṃ, ārā nibbāna [nibbānaṃ (sī.)] vuccati. |
795. Thọ người ấy tăng trưởng,. Nhiều loại, do sắc sanh, Tham, hại tâm lớn mạnh, Chúng gia hại tâm nó, Khổ chất chứa như vậy, Rất xa vời Niết-bàn. |
795. Đối với vị ấy, các thọ, gồm nhiều loại, xuất phát từ sắc, tăng trưởng; do tham lam và do bực bội, tâm của người này bị tổn hại; đối với người đang tích lũy khổ đau như thế, được gọi là cách xa Niết Bàn. |
796. ‘‘Saddaṃ sutvā sati muṭṭhā, piyaṃ nimittaṃ manasi karoto; Sārattacitto vedeti, tañca ajjhossa tiṭṭhati. |
796. Nghe tiếng, niệm say mê,. Nếu tác ý ái tưởng, Tâm tham đắm cảm thọ, Xâm nhập và an trú. |
796. Sau khi nghe thinh, trong khi chú ý đến dấu hiệu yêu thích thì niệm của người ấy bị quên lãng. Người có tâm đã bị luyến ái, cảm nhận và vướng mắc vào điều ấy, rồi tồn tại. |
797. ‘‘Tassa vaḍḍhanti vedanā, anekā saddasambhavā; Abhijjhā ca vihesā ca, cittamassūpahaññati; Evamācinato dukkhaṃ, ārā nibbāna vuccati. |
797. Thọ người ấy tăng trưởng,. Nhiều loại, do tiếng sanh, Tham, hại tâm lớn mạnh, Chúng gia hại tâm nó, Khổ chất chứa như vậy, Rất xa vời Niết-bàn. |
797. Đối với vị ấy, các thọ, gồm nhiều loại, xuất phát từ thinh, tăng trưởng; do tham lam và do bực bội, tâm của người này bị tổn hại; đối với người đang tích lũy khổ đau như thế, được gọi là cách xa Niết Bàn. |
798. ‘‘Gandhaṃ ghatvā sati muṭṭhā, piyaṃ nimittaṃ manasi karoto; Sārattacitto vedeti, tañca ajjhossa tiṭṭhati. |
798. Ngửi hương, niệm say mê,. Nếu tác ý ái tưởng, Tâm tham đắm cảm thọ, Xâm nhập và an trú. |
798. Sau khi ngửi mùi hương, trong khi chú ý đến dấu hiệu yêu thích thì niệm của người ấy bị quên lãng. Người có tâm đã bị luyến ái, cảm nhận và vướng mắc vào điều ấy, rồi tồn tại. |
799. ‘‘Tassa vaḍḍhanti vedanā, anekā gandhasambhavā; Abhijjhā ca vihesā ca, cittamassūpahaññati; Evamācinato dukkhaṃ, ārā nibbāna vuccati. |
799. Thọ người ấy tăng trưởng,. Nhiều loại do hương sanh, Tham, hại tâm lớn mạnh, Chúng gia hại tâm nó. Khổ chất chứa như vậy, Rất xa vời Niết-bàn. |
799. Đối với vị ấy, các thọ, gồm nhiều loại, xuất phát từ hương, tăng trưởng; do tham lam và do bực bội, tâm của người này bị tổn hại; đối với người đang tích lũy khổ đau như thế, được gọi là cách xa Niết Bàn. |
800. ‘‘Rasaṃ bhotvā sati muṭṭhā, piyaṃ nimittaṃ manasi karoto; Sārattacitto vedeti, tañca ajjhossa tiṭṭhati. |
800. Nếm vị, niệm say mê,. Nếu tác ý ái tưởng, Tâm tham đắm cảm thọ, Xâm nhập và an trú. |
800. Sau khi thưởng thức vị, trong khi chú ý đến dấu hiệu yêu thích thì niệm của người ấy bị quên lãng. Người có tâm đã bị luyến ái, cảm nhận và vướng mắc vào điều ấy, rồi tồn tại. |
801. ‘‘Tassa vaḍḍhanti vedanā, anekā rasasambhavā; Abhijjhā ca vihesā ca, cittamassūpahaññati; Evamācinato dukkhaṃ, ārā nibbāna vuccati. |
801. Thọ người ấy tăng trưởng,. Nhiều loại do vị sanh, Tham, hại tâm lớn mạnh, Chúng gia hại tâm nó, Khổ chất chứa như vậy, Rất xa vời Niết-bàn. |
801. Đối với vị ấy, các thọ, gồm nhiều loại, xuất phát từ vị, tăng trưởng; do tham lam và do bực bội, tâm của người này bị tổn hại; đối với người đang tích lũy khổ đau như thế, được gọi là cách xa Niết Bàn. |
802. ‘‘Phassaṃ phussa sati muṭṭhā, piyaṃ nimittaṃ manasi karoto; Sārattacitto vedeti, tañca ajjhossa tiṭṭhati. |
802. Cảm xúc, niệm say mê,. Nếu tác ý ái tưởng, Tâm tham đắm cảm thọ, Xâm nhập và an trú. |
802. Sau khi đụng chạm xúc, trong khi chú ý đến dấu hiệu yêu thích thì niệm của người ấy bị quên lãng. Người có tâm đã bị luyến ái, cảm nhận và vướng mắc vào điều ấy, rồi tồn tại. |
803. ‘‘Tassa vaḍḍhanti vedanā, anekā phassasambhavā; Abhijjhā ca vihesā ca, cittamassūpahaññati; Evamācinato dukkhaṃ, ārā nibbāna vuccati. |
803. Thọ người ấy tăng trưởng,. Nhiều loại, do xúc sanh, Tham, hại tâm lớn mạnh, Chúng gia hại tâm nó, Khổ chất chứa như vậy, Rất xa vời Niết-bàn. |
803. Đối với vị ấy, các thọ, gồm nhiều loại, xuất phát từ xúc, tăng trưởng; do tham lam và do bực bội, tâm của người này bị tổn hại; đối với người đang tích lũy khổ đau như thế, được gọi là cách xa Niết Bàn. |
804. ‘‘Dhammaṃ ñatvā sati muṭṭhā, piyaṃ nimittaṃ manasi karoto; Sārattacitto vedeti, tañca ajjhossa tiṭṭhati. |
804. Biết pháp, niệm say mê,. Nếu tác ý ái tưởng, Tâm tham đắm cảm thọ, Xâm nhập và an trú. |
804. Sau khi nhận biết pháp, trong khi chú ý đến dấu hiệu yêu thích thì niệm của người ấy bị quên lãng. Người có tâm đã bị luyến ái, cảm nhận và vướng mắc vào điều ấy, rồi tồn tại. |
805. ‘‘Tassa vaḍḍhanti vedanā, anekā dhammasambhavā; Abhijjhā ca vihesā ca, cittamassūpahaññati; Evamācinato dukkhaṃ, ārā nibbāna vuccati. |
805. Thọ người ấy tăng trưởng,. Nhiều loại do ý sanh, Tham, hại tâm lớn mạnh, Chúng gia hại tâm nó, Khổ chất chứa như vậy, Rất xa vời Niết-bàn. |
805. Đối với vị ấy, các thọ, gồm nhiều loại, xuất phát từ pháp, tăng trưởng; do tham lam và do bực bội, tâm của người này bị tổn hại; đối với người đang tích lũy khổ đau như thế, được gọi là cách xa Niết Bàn. |
806. ‘‘Na so rajjati rūpesu, rūpaṃ disvā patissato; Virattacitto vedeti, tañca nājjhossa tiṭṭhati. |
806. Không tham nhiễm các sắc,. Thấy sắc, giữ chánh niệm, Tâm không tham cảm thọ, Không xâm nhập, an trú. |
806. Vị ấy không bị luyến ái ở các sắc, sau khi nhìn thấy sắc, có niệm. Người có tâm không bị luyến ái, cảm nhận và không vướng mắc vào điều ấy, rồi tồn tại. |
807. ‘‘Yathāssa passato rūpaṃ, sevato cāpi vedanaṃ; Khīyati nopacīyati, evaṃ so caratī sato; Evaṃ apacinato dukkhaṃ, santike nibbāna vuccati. |
807. Thấy sắc như thế nào,. Như vậy có cảm thọ, Từ bỏ không tích lũy, Chánh niệm, hành trì vậy. |
807. Đối với vị ấy, trong lúc đang nhìn cũng như đang tiếp xúc với sắc như thế nào mà thọ được cạn kiệt, không được tích lũy, thì vị ấy hành xử như vậy, có niệm; đối với vị không tích lũy khổ đau như thế, được gọi là gần bên Niết Bàn. |
808. ‘‘Na so rajjati saddesu, saddaṃ sutvā patissato; Virattacitto vedeti, tañca nājjhossa tiṭṭhati. |
808. Như vậy, không chứa khổ,. Được gọi gần Niết-bàn, Không tham nhiễm các tiếng, Nghe tiếng, giữ chánh niệm, Tâm không tham cảm thọ, Không xâm nhập an trú. |
808. Vị ấy không bị luyến ái ở các thinh, sau khi nghe thinh, có niệm. Người có tâm không bị luyến ái, cảm nhận và không vướng mắc vào điều ấy, rồi tồn tại. |
809. ‘‘Yathāssa suṇato saddaṃ, sevato cāpi vedanaṃ; Khīyati nopacīyati, evaṃ so caratī sato; Evaṃ apacinato dukkhaṃ, santike nibbāna vuccati. |
809. Nghe tiếng như thế nào,. Như vậy có cảm thọ, Từ bỏ không tích lũy, Chánh niệm, hành trì vậy. Như vậy không chứa khổ, Được gọi gần Niết-bàn. |
809. Đối với vị ấy, trong lúc đang nghe cũng như đang tiếp xúc với thinh như thế nào mà thọ được cạn kiệt, không được tích lũy, thì vị ấy hành xử như vậy, có niệm; đối với vị không tích lũy khổ đau như thế, được gọi là gần bên Niết Bàn. |
810. ‘‘Na so rajjati gandhesu, gandhaṃ ghatvā patissato; Virattacitto vedeti, tañca nājjhossa tiṭṭhati. |
810. Không tham nhiễm các hương,. Ngửi hương, giữ chánh niệm, Tâm không tham cảm thọ, Không xâm nhập an trú. |
810. Vị ấy không bị luyến ái ở các hương, sau khi ngửi hương, có niệm. Người có tâm không bị luyến ái, cảm nhận và không vướng mắc vào điều ấy, rồi tồn tại. |
811. ‘‘Yathāssa ghāyato gandhaṃ, sevato cāpi vedanaṃ; Khīyati nopacīyati, evaṃ so caratī sato;. Evaṃ apacinato dukkhaṃ, santike nibbāna vuccati. |
811. Ngửi hương như thế nào,. Như vậy, có cảm thọ, Từ bỏ, không tích lũy, Chánh niệm, hành trì vậy, Như vậy, không chứa khổ, Được gọi, gần Niết-bàn. |
811. Đối với vị ấy, trong lúc đang ngửi cũng như đang tiếp xúc với hương như thế nào mà thọ được cạn kiệt, không được tích lũy, thì vị ấy hành xử như vậy, có niệm; đối với vị không tích lũy khổ đau như thế, được gọi là gần bên Niết Bàn. |
812. ‘‘Na so rajjati rasesu, rasaṃ bhotvā patissato; Virattacitto vedeti, tañca nājjhossa tiṭṭhati. |
812. Không tham nhiễm các vị,. Nếm vị, giữ chánh niệm, Tâm không tham cảm thọ, Không xâm nhập, an trú. |
812. Vị ấy không bị luyến ái ở các vị, sau khi nếm vị, có niệm. Người có tâm không bị luyến ái, cảm nhận và không vướng mắc vào điều ấy, rồi tồn tại. |
813. ‘‘Yathāssa sāyarato rasaṃ, sevato cāpi vedanaṃ; Khīyati nopacīyati, evaṃ so caratī sato;. Evaṃ apacinato dukkhaṃ, santike nibbāna vuccati. |
813. Nếm vị như thế nào,. Như vậy, có cảm thọ, Từ bỏ, không tích lũy, Chánh niệm, hành trì vậy. Như vậy không chứa khổ, Được gọi, gần Niết-bàn. |
813. Đối với vị ấy, trong lúc đang nếm cũng như đang tiếp xúc với vị như thế nào mà thọ được cạn kiệt, không được tích lũy, thì vị ấy hành xử như vậy, có niệm; đối với vị không tích lũy khổ đau như thế, được gọi là gần bên Niết Bàn. |
814. ‘‘Na so rajjati phassesu, phassaṃ phussa patissato; Virattacitto vedeti, tañca nājjhossa tiṭṭhati. |
814. Không tham nhiễm các xúc,. Cảm xúc giữ chánh niệm, Tâm không tham cảm thọ, Không xâm nhập, an trú. |
814. Vị ấy không bị luyến ái ở các xúc, sau khi đụng chạm xúc, có niệm. Người có tâm không bị luyến ái, cảm nhận và không vướng mắc vào điều ấy, rồi tồn tại. |
815. ‘‘Yathāssa phusato phassaṃ, sevato cāpi vedanaṃ; Khīyati nopacīyati, evaṃ so caratī sato; Evaṃ apacinato dukkhaṃ, santike nibbāna vuccati. |
815. Cảm xúc như thế nào,. Như vậy, có cảm thọ, Từ bỏ, không tích lũy, Chánh niệm, hành trì vậy. Như vậy không chứa khổ, Được gọi, gần Niết-bàn. |
815. Đối với vị ấy, trong lúc đang đụng chạm cũng như đang tiếp xúc với xúc như thế nào mà thọ được cạn kiệt, không được tích lũy, thì vị ấy hành xử như vậy, có niệm; đối với vị không tích lũy khổ đau như thế, được gọi là gần bên Niết Bàn. |
816. ‘‘Na so rajjati dhammesu, dhammaṃ ñatvā patissato; Virattacitto vedeti, tañca nājjhossa tiṭṭhati. |
816. Không tham nhiễm các pháp,. Biết pháp, giữ chánh niệm, Tâm không tham cảm thọ, Không xâm nhập, an trú. |
816. Vị ấy không bị luyến ái ở các pháp, sau khi nhận biết pháp, có niệm. Người có tâm không bị luyến ái, cảm nhận và không vướng mắc vào điều ấy, rồi tồn tại. |
817. ‘‘Yathāssa vijānato dhammaṃ, sevato cāpi vedanaṃ; Khīyati nopacīyati, evaṃ so caratī sato; Evaṃ apacinato dukkhaṃ, santike nibbāna vuccati’’. |
817. Cảm xúc như thế nào,. Như vậy, có cảm thọ, Từ bỏ, không tích lũy, Chánh niệm, hành trì vậy. Như vậy, không chứa khổ, Được gọi, gần Niết-bàn. |
817. Đối với vị ấy, trong lúc đang nhận thức cũng như đang tiếp xúc với pháp như thế nào mà thọ được cạn kiệt, không được tích lũy, thì vị ấy hành xử như vậy, có niệm; đối với vị không tích lũy khổ đau như thế, được gọi là gần bên Niết Bàn.” |
|
Rồi vị Trưởng lão đứng dậy, đảnh lễ bậc Đạo Sư, rồi ra đi không bao lâu sau đó, phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. |
|
… Mālukyaputto thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Māluṅkyaputta đã nói những lời kệ như thế. |
6. Selattheragāthā |
(CCLIII) Sela (Thera. 78) |
Kệ ngôn của trưởng lão Sela. |
|
Được sanh trong thời đức Phật hiện tại ở Anguttaràpa, trong một gia đình Bà-la-môn, tại một làng Bà-la-môn ở Apana, ngài được đặt tên là Sela. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài sống ở đấy, rất giỏi về ba tập Vệ-đà và về nghệ thuật Bà-la-môn, dạy các Mantrà (thần chú) cho ba trăm thanh niên Bà-la-môn. Trong khi ấy Thế Tôn rời bỏ Sàvatthi, đang du hành ở Anguttaràpa với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỷ-kheo. Biết được tám tánh thuần thục của Sela và các đệ tử của ngài, đức Phật dừng lại tại một khu rừng. Rồi ẩn sĩ Keniya, sau khi mời bậc Đạo Sư với chúng Tỷ-kheo dùng cơm vào ngày sau, đang sửa soạn rất nhiều món đồ ăn. Rồi Sela với ba trăm đệ tử đến thăm am thất và hỏi có phải Keniya đang sửa soạn để đón mừng vị Đại thần của vua. Khi Keniya trả lời là sửa soạn thức ăn để mời đức Phật, Sela cảm thấy hết sức xúc cảm với chữ đức Phật, đi đến gặp ngay đức Phật với các thanh niên đệ tử của mình. Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm, ngài chiêm ngưỡng các tướng tốt đức Phật và nghĩ rằng: ‘Một vị có những tướng tốt như vậy, một là sẽ thành vị Chuyển luân Thánh vương, hai là sẽ thành Phật’. Một vị Phật khi nghe tán thán về mình sẽ lộ rõ chân tướng Phật của mình. Còn nếu chưa thành Phật, khi nghe tán thán về đức Phật sẽ cảm thấy khó chịu và bất mãn. Ngài quyết định nói lên lời tán thán đức Phật như sau: |
|
818. ‘‘Paripuṇṇakāyo suruci, sujāto cārudassano;. Suvaṇṇavaṇṇosi bhagavā, susukkadāṭhosi vīriyavā [susukkadāṭho virīyavā (sī.)]. |
818. Thân trọn đủ, chói sáng,. Khéo sanh và đẹp đẽ, Thế Tôn sắc vàng chói, Răng trơn láng, tinh cần. |
818. “‘Bạch Thế Tôn, ngài có thân hình vẹn toàn, có ánh sáng rực rỡ, được thiện sanh, có vẻ đáng mến, có màu da như vàng, có răng trắng tinh, có sự tinh tấn. |
819. ‘‘Narassa hi sujātassa, ye bhavanti viyañjanā; Sabbe te tava kāyasmiṃ, mahāpurisalakkhaṇā. |
819. Đối với người khéo sanh,. Những tướng tốt trang trọng, Đều có trên thân Ngài, Tất cả Đại nhân tướng. |
819. Bởi vì những đặc điểm nào hiện hữu ở người được thiện sanh, tất cả các đặc điểm ấy, những tướng trạng của bậc đại nhân, đều có ở thân thể của Ngài. |
820. ‘‘Pasannanetto sumukho, brahā uju patāpavā;. Majjhe samaṇasaṅghassa, ādiccova virocasi. |
820. Mắt sáng, mặt tràn đầy,. Cân đối, thẳng, hoàn mỹ, Giữa chúng Sa-môn Tăng, Ngài chói như mặt trời. |
820. Ngài có cặp mắt trong sáng, khuôn mặt đầy đặn, cao to, đứng ngay thẳng, oai vệ; ở giữa hội chúng Sa-môn, Ngài chói sáng tựa như mặt trời. |
821. ‘‘Kalyāṇadassano bhikkhu, kañcanasannibhattaco; Kiṃ te samaṇabhāvena, evaṃ uttamavaṇṇino. |
821. Vị Tỷ-kheo đẹp mắt,. Da sáng như vàng chói, Với hạnh Sa-môn Ngài, Cần gì sắc tối thượng. |
821. Là vị tỳ khưu có vóc dáng đẹp đẽ, có làn da giống như vàng, có màu da tối thượng như vậy, Ngài cần gì với bản thể Sa-môn? |
822. ‘‘Rājā arahasi bhavituṃ, cakkavattī rathesabho; Cāturanto vijitāvī, jambusaṇḍassa [jambumaṇḍassa (ka.)] issaro. |
822. Ngài xứng bậc Đại vương,. Chuyển luân, xa luân chủ, Chiến thắng khắp bốn phương, Bậc chúa tể Diêm phù. |
822. Ngài xứng đáng để trở thành vị vua, đấng Chuyển Luân, người xa phu xuất sắc, bậc có sự chiến thắng khắp bốn phương, chúa tể của Jambusaṇḍa. |
823. ‘‘Khattiyā bhogī rājāno [bhogā rājāno (sī. ka.), bhojarājāno (syā.)], anuyantā bhavanti te; Rājābhirājā [rājādhirājā (sī. ka.)] manujindo, rajjaṃ kārehi gotama’’. |
823. Vương tộc, hào phú vương,. Là chư hầu của Ngài, Là vua giữa các vua, Là giáo chủ loài Người, Hãy trị vì quốc độ, Tôn giả Gotama! |
823. Các vị Sát-đế-lỵ, các tộc trưởng, các vị vua đều phục tùng ngài; ngài là vị vua đứng đầu các vị vua, là chúa của loài người. Thưa ngài Gotama, xin ngài hãy cai trị vương quốc.’ |
|
Thế Tôn vâng theo ý muốn của Sela, trả lời: |
(Đức Thế Tôn nói với Sela:) |
824. ‘‘Rājāhamasmi sela, (selāti bhagavā) dhammarājā anuttaro; Dhammena cakkaṃ vattemi, cakkaṃ appaṭivattiyaṃ’’. |
824. Sela, Ta là vua!. Bậc Pháp vương, Vô thượng, Ta chuyển bánh xe pháp, Bánh xe chưa từng chuyển. Phạm chí Sela nói: |
824. ‘Này Sela, Ta là đức vua, đấng Pháp vương vô thượng. Ta chuyển vận bánh xe theo Giáo Pháp, là bánh xe không thể bị chuyển vận ngược lại.’ |
|
|
(Vị Bà-la-môn Sela nói rằng:) |
825. ‘‘Sambuddho paṭijānāsi, (iti selo brāhmaṇo) dhammarājā anuttaro; ‘Dhammena cakkaṃ vattemi’, iti bhāsatha gotama. |
825. Ngài tự nhận giác ngộ.. Bậc Pháp vương, Vô thượng, Ta chuyển bánh xe pháp, Gotama nói vậy. |
825. ‘Ngài tự xưng là bậc Toàn Giác, đấng Pháp vương vô thượng. Thưa ngài Gotama, Ngài nói rằng: – Ngài chuyển vận bánh xe theo Giáo Pháp. |
826. ‘‘Ko nu senāpati bhoto, sāvako satthuranvayo [anvayo (sī.)]; Ko tetamanuvatteti, dhammacakkaṃ pavattitaṃ’’ . |
826. Ai sẽ là tướng quân?. Là đệ tử Tôn giả? Ai theo giữ truyền thống, Xứng đáng bậc Đạo Sư? Sau Ngài ai sẽ chuyển, Pháp luân Ngài đã chuyển? |
826. Vậy vị nào là tướng quân của ngài, là đệ tử tiếp nối bậc Đạo Sư? Vị nào tiếp tục vận chuyển cho Ngài bánh xe Pháp đã được chuyển vận này? |
|
Tôn giả Sàriputta đang ngồi bên phải Thế Tôn, đầu chói sáng đẹp đẽ như một đống vàng. Thế Tôn chỉ Sàriputta và nói: |
(Đức Thế Tôn nói với Sela:) |
827. ‘‘Mayā pavattitaṃ cakkaṃ, (selāti bhagavā) dhammacakkaṃ anuttaraṃ; Sāriputto anuvatteti, anujāto tathāgataṃ. |
827. Thế Tôn: Này Sela,. Ta chuyển bánh xe pháp, Bánh xe pháp vô thượng, Chính Sàriputta, Chuyển bánh xe Chánh pháp, Thừa tự Như Lai vị. |
827. ‘Bánh xe đã được Ta chuyển vận là bánh xe Pháp vô thượng, Sāriputta, kế thừa đức Như Lai, tiếp tục vận chuyển. |
828. ‘‘Abhiññeyyaṃ abhiññātaṃ, bhāvetabbañca bhāvitaṃ; Pahātabbaṃ pahīnaṃ me, tasmā buddhosmi brāhmaṇa. |
828. Cần biết, Ta đã biết,. Cần tu, Ta đã tu, Cần đoạn, Ta đã đoạn, Do vậy, Ta là Phật, Hỡi này Bà-la-môn. |
828. Điều cần biết rõ đã được biết rõ, việc cần tu tập đã được tu tập, cái cần dứt bỏ đã được Ta dứt bỏ; này Bà-la-môn, vì thế Ta là đức Phật. |
829. ‘‘Vinayassu mayi kaṅkhaṃ, adhimuñcassu brāhmaṇa; Dullabhaṃ dassanaṃ hoti, sambuddhānaṃ abhiṇhaso. |
829. Còn gì nghi ở Ta,. Hãy gác bỏ một bên, Hãy giải thoát khỏi chúng., Hỡi này Bà-la-môn. |
829. Này Bà-la-môn, ngươi hãy dẹp bỏ sự hoài nghi về Ta, ngươi hãy xác quyết; việc gặp gỡ các bậc Toàn Giác thường xuyên là điều khó đạt được. |
830. ‘‘Yesaṃ ve dullabho loke, pātubhāvo abhiṇhaso; Sohaṃ brāhmaṇa buddhosmi, sallakatto [sallakanto (sī.)] anuttaro. |
830. Thấy được bậc Chánh Giác,. Thật thiên nan vạn nan, Bậc Chánh Giác ra đời, Thật thiên nan vạn nan, Ta là bậc Chánh Giác, Bậc Y vương Vô thượng, Hỡi này Bà-la-môn. |
830. Quả vậy, việc tái xuất hiện ở thế gian của những vị này là điều khó đạt được. Này Bà-la-môn, Ta đây là bậc Toàn Giác, phẫu thuật gia vô thượng. |
831. ‘‘Brahmabhūto atitulo, mārasenappamaddano; Sabbāmitte vase [vasī (syā. ka., ma. ni. 2.399; su. ni. 966)] katvā, modāmi akutobhayo’’. |
831. Là Phạm thiên khó sánh,. Nhiếp phục các Ma quân, Hàng phục mọi đối nghịch, Ta hân hoan không sợ. |
831. Ta có tư cách Phạm Thiên, không thể so sánh, người có sự tiêu diệt các đạo binh của Ma Vương, sau khi chế ngự tất cả đối thủ, Ta hân hoan, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu.’ |
|
Bà-la-môn Sela hoàn toàn tin tưởng vào Thế Tôn, muốn xuất gia và thưa rằng: |
|
832. ‘‘Idaṃ bhonto nisāmetha, yathā bhāsati cakkhumā; Sallakatto mahāvīro, sīhova nadatī vane. |
832. Chư Tôn giả hãy nghe!. Như bậc có mắt giảng, Bậc Y vương Đại hùng, Sư rử rống trong rừng! |
832. ‘Này các vị, các vị hãy lắng nghe lời mà bậc Hữu Nhãn, nhà phẫu thuật, đấng Đại Hùng phát biểu, tựa như con sư tử rống ở khu rừng. |
833. ‘‘Brahmabhūtaṃ atitulaṃ, mārasenappamaddanaṃ; Ko disvā nappasīdeyya, api kaṇhābhijātiko. |
833. Thấy Phạm thiên vô tỷ,. Nhiếp phục các Ma quân, Ai lại không tín thành, Cho đến kẻ hạ tiện. |
833. Người nào, cho dầu là kẻ có dòng dõi thấp kém, sau khi nhìn thấy bậc có tư cách Phạm Thiên, không thể so sánh, người có sự tiêu diệt các đạo binh của Ma Vương, mà không tịnh tín? |
834. ‘‘Yo maṃ icchati anvetu, yo vā nicchati gacchatu; Idhāhaṃ pabbajissāmi, varapaññassa santike’’. |
834. Ai muốn, hãy theo ta,. Không muốn hãy đi ra, Ở đây ta xuất gia, Với bậc Tuệ tối thượng. |
834. Ai là người muốn theo ta, hoặc ai không muốn thì hãy đi đi. Tại đây, ta sẽ xuất gia trong sự chứng minh của bậc có trí tuệ cao quý.’ |
|
Các thanh niên Bà-la-môn, vì đã đạt được những điều kiện cần thiết, trả lời: |
|
835. ‘‘Etaṃ ce ruccati bhoto, sammāsambuddhasāsanaṃ; Mayampi pabbajissāma, varapaññassa santike. |
835. Nếu Tôn giả tín thành,. Giáo pháp bậc Chánh Giác, Chúng con cũng xuất gia, Với bậc Tuệ tối thắng! |
835. ‘Nếu Giáo Pháp này của đấng Chánh Đẳng Giác được thích thú đối với ngài, chúng tôi cũng sẽ xuất gia trong sự chứng minh của bậc có trí tuệ cao quý.’ |
|
Sela hoan hỷ thấy các thanh niên Bà-la-môn san sẻ chí nguyện của mình, đưa chúng đến trước mặt Thế Tôn và xin được xuất gia: |
|
836. ‘‘Brāhmaṇā tisatā ime, yācanti pañjalīkatā; ‘Brahmacariyaṃ carissāma, bhagavā tava santike’’’. |
836. Ba trăm Phạm chí ấy,. Chấp tay xin được phép, Chúng con sống Phạm hạnh, Do Thế Tôn lãnh đạo. |
836. Ba trăm vị Bà-la-môn này đã chắp tay thỉnh cầu: ‘Bạch đức Thế Tôn, chúng con sẽ sống Phạm hạnh trong sự hiện diện của Ngài.’ |
|
Rồi Thế Tôn, thấy được Sela trong các đời quá khứ, Sela cũng đã dạy cho ba trăm đệ tử này trông các giống phước và nay trong đời cuối cùng, đã tạo được tuệ quán cho mình và cho các đệ tử, thấy rằng chúng đã thuần thục để xuất gia: |
(Đức Thế Tôn nói với Sela:) |
837. ‘‘Svākhātaṃ brahmacariyaṃ, (selāti bhagavā) sandiṭṭhikamakālikaṃ; Yattha amoghā pabbajjā, appamattassa sikkhato’’. |
837. Thế Tôn đáp: Sela,. Phạm hạnh được khéo giảng, Thiết thực ngay hiện tại, Vượt khỏi thời gian tính, Ở đây sự xuất gia, Không uổng công, hoang phí, Với ai không phóng dật, Tinh tấn chuyên tu học. |
837. ‘Phạm hạnh đã khéo được thuyết giảng, hoàn toàn hiển nhiên, không bị chi phối bởi thời gian, việc xuất gia trong Giáo Pháp ấy không phải là vô ích đối với người đang (ra sức) học tập, không bị xao lãng.’ |
|
Thế Tôn nói: ‘Hãy đến, Tỷ-kheo!’ Rồi với thần lực của Bổn sư, tất cả đều có y và bình bát, đảnh lễ đức Phật, bắt đầu học thiền quán và chứng quả A-la-hán vào ngày thứ bảy. |
|
|
Rồi các vị ấy đến đức Phật, nói lên trí giác của mình, và Sela thưa: |
|
838. ‘‘Yaṃ taṃ saraṇamāgamha [saraṇamāgamma (sabbattha)], ito aṭṭhame [aṭṭhami (syā. ka.)] cakkhuma; Sattarattena bhagavā, dantāmha tava sāsane. |
838. Kính bạch bậc Pháp nhãn,. Cách đây trước tám ngày, Chúng con đã đến Ngài, Xin phát nguyện quy y, Thế Tôn trong bảy đêm, Đã nhiếp phục chúng con, Đã chế ngự chúng con, Trong giáo lý của Ngài. |
838. ‘Bạch đấng Hữu Nhãn, việc chúng con đi đến nương tựa vào Ngài đến hôm nay là ngày thứ tám. Bạch đức Thế Tôn, chúng con đã được huấn luyện trong Giáo Pháp của Ngài bảy đêm. |
839. ‘‘Tuvaṃ buddho tuvaṃ satthā, tuvaṃ mārābhibhū muni; Tuvaṃ anusaye chetvā, tiṇṇo tāresimaṃ pajaṃ. |
839. Ngài là bậc Giác giả,. Ngài là bậc Đạo Sư, Ngài là bậc Mâu-ni, Đã chiến thắng quân ma, Sau khi đã đoạn trừ, Vượt qua biển sanh tử, Ngài giúp quần sanh này, Cùng vượt qua bể khổ. |
839. Ngài là đức Phật, Ngài là bậc Đạo Sư, Ngài là bậc Hiền Trí có sự chế ngự Ma Vương, Ngài đã chặt đứt các pháp ngủ ngầm, đã được vượt qua, Ngài giúp cho loài người này vượt qua. |
840. ‘‘Upadhī te samatikkantā, āsavā te padālitā; Sīhova anupādāno, pahīnabhayabheravo. |
840 Sanh y Ngài vượt qua,. Lậu hoặc Ngài nghiền nát, Ngài là sư tử chúa, Không chấp, không sợ hãi. |
840. Các mầm tái sanh đã được Ngài hoàn toàn vượt lên trên, các lậu hoặc đã được Ngài phá tan, tựa như con sư tử, không còn chấp thủ, sự sợ hãi và khiếp đảm đã được dứt bỏ. |
841. ‘‘Bhikkhavo tisatā ime, tiṭṭhanti pañjalīkatā; Pāde vīra pasārehi, nāgā vandantu satthuno’’ti. |
841. Ba trăm Tỷ-kheo này,. Đồng chấp tay đứng thẳng, Ôi anh hùng chiến thắng, Hãy duỗi chân bước tới, Hãy để các đại nhân, Đảnh lễ bậc Đạo Sư. |
841. Ba trăm vị tỳ khưu này đứng yên, chắp tay. Bậc đấng Anh Hùng, xin Ngài hãy duỗi ra các bàn chân, hãy để cho các bậc long tượng đảnh lễ đấng Đạo Sư.” |
… Selo thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Sela đã nói những lời kệ như thế. |
7. Kāḷigodhāputtabhaddiyattheragāthā |
(CCLIV) Bhaddiya kàligodhàyaputta (Thera. 80) |
Kệ ngôn của trưởng lão Bhaddiya. |
|
Sanh trong thời đức Phật hiện tại, ở Kapilavatthu, trong một dòng họ Sàkya, ngài được đặt tên là Bhaddiya. Khi đã trưởng thành, ngài từ bỏ gia đình, cùng với Anuruddha và bốn vị hoàng tộc khác, khi bậc Đạo Sư đang ở trong vườn xoài, tại Anupiy. Khi xuất gia, ngài chứng được quả A-la-hán. Ngài được đức Phật xác chứng là đệ nhất trong những Tỷ-kheo thuộc về hoàng tộc. Mỗi khi ngài hưởng lạc giải thoát, lạc Niết-bàn trong lúc ở trong rừng, dưới một gốc cây, trong cảnh rừng tịch tịnh, ngài thường thốt ra lời: ‘Ôi hạnh phúc làm sao! Ôi, hạnh phúc làm sao!’ Được đức Phật hỏi vì sao ngài thốt ra lời ấy, ngài trả lời khi ngài trị vì quốc độ của ngài, dầu ngài được bảo vệ chặt chẽ, ngài vẫn cảm thấy sợ hãi, hoảng hốt. Nhưng nay ngài đã từ bỏ tất cả, ngài không còn trong trạng thái sợ hãi nữa. Rồi trước mặt Thế Tôn, ngài rống lên tiếng rống con sư tử: |
|
842. ‘‘Yātaṃ me hatthigīvāya, sukhumā vatthā padhāritā; Sālīnaṃ odano bhutto, sucimaṃsūpasecano. |
842. Khi ta ngồi cổ voi,. Mang đồ mặc tế nhị, Ăn gạo thật ngon thơm, Với món thịt khéo nấu. |
842. “Các tấm vải mềm mại đã được tôi khoác lên khi ngồi ở cổ con voi, cơm gạo sāli với nước xốt thịt tinh khiết đã được tôi thọ dụng. |
843. ‘‘Sojja bhaddo sātatiko, uñchāpattāgate rato; Jhāyati anupādāno, putto godhāya bhaddiyo. |
843. Nay hiền thiện, kiên trì,. Vui đồ ăn đặt bát, Thiền tư, không chấp trước, Là con của Gô-dha. |
843. Kẻ ấy, hôm nay, hiền thiện, kiên trì, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực, tham thiền, không chấp thủ, là Bhaddiya, con trai bà Godhā. |
844. ‘‘Paṃsukūlī sātatiko, uñchāpattāgate rato; Jhāyati anupādāno, putto godhāya bhaddiyo. |
844. Áo lượm rác, kiên trì,. Vui đồ ăn đặt bát, Thiền tư, không chấp trước, Là con của Gô-dha. |
844. Vị mặc y may bằng vải bị quăng bỏ, kiên trì, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực, tham thiền, không chấp thủ, là Bhaddiya, con trai bà Godhā. |
845. ‘‘Piṇḍapātī sātatiko …pe… . |
845. Thường khất thực, kiên trì,. Vui đồ ăn đặt bát, Thiền tư, không chấp trước, Là con của Gô-dha. |
845. Vị chuyên đi khất thực, kiên trì, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực, tham thiền, không chấp thủ, là Bhaddiya, con trai bà Godhā. |
846. ‘‘Tecīvarī sātatiko …pe… . |
846. Mặc ba y, kiên trì,. Vui đồ ăn đặt bát, Thiền tư, không chấp trước, Là con của Gô-dha. |
846. Vị chỉ sử dụng ba y, kiên trì, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực, tham thiền, không chấp thủ, là Bhaddiya, con trai bà Godhā. |
847. ‘‘Sapadānacārī sātatiko …pe… . |
847. Đi từng nhà, kiên trì,. Vui đồ ăn đặt bát, Thiền tư, không chấp trước, Là con của Gô-dha. |
847. Vị đi khất thực tuần tự theo từng nhà, kiên trì, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực, tham thiền, không chấp thủ, là Bhaddiya, con trai bà Godhā. |
848. ‘‘Ekāsanī sātatiko …pe… . |
848. Ăn một bữa kiên trì,. Vui đồ ăn đặt bát, Thiền tư, không chấp trước, Là con của Gô-dha. |
848. Vị chỉ một chỗ ngồi (khi thọ thực), kiên trì, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực, tham thiền, không chấp thủ, là Bhaddiya, con trai bà Godhā. |
849. ‘‘Pattapiṇḍī sātatiko …pe… . |
849. Ăn trong bát, kiên trì,. Vui đồ ăn đặt bát, Thiền tư, không chấp trước, Là con của Gô-dha. |
849. Vị thọ thực trong bình bát, kiên trì, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực, tham thiền, không chấp thủ, là Bhaddiya, con trai bà Godhā. |
850. ‘‘Khalupacchābhattī sātatiko …pe… . |
850. Không ăn thêm, kiên trì,. Vui đồ ăn đặt bát, Thiền tư, không chấp trước, Là con của Gô-dha. |
850. Vị không ăn vật thực dâng sau, kiên trì, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực, tham thiền, không chấp thủ, là Bhaddiya, con trai bà Godhā. |
851. ‘‘Āraññiko sātatiko …pe… . |
851. Sống trong rừng, kiên trì,. Vui đồ ăn đặt bát, Thiền tư, không chấp trước, Là con của Gô-dha. |
851. Vị ngụ ở rừng, kiên trì, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực, tham thiền, không chấp thủ, là Bhaddiya, con trai bà Godhā. |
852. ‘‘Rukkhamūliko sātatiko …pe… . |
852. Ngồi gốc cây, kiên trì,. Vui đồ ăn đặt bát, Thiền tư, không chấp trước, Là con của Gô-dha. |
852. Vị ngụ ở gốc cây, kiên trì, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực, tham thiền, không chấp thủ, là Bhaddiya, con trai bà Godhā. |
853. ‘‘Abbhokāsī sātatiko …pe… . |
853. Sống ngoài trời, kiên trì,. Vui đồ ăn đặt bát, Thiền tư, không chấp trước, Là con của Gô-dha. |
853. Vị ở ngoài trời, kiên trì, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực, tham thiền, không chấp thủ, là Bhaddiya, con trai bà Godhā. |
854. ‘‘Sosāniko sātatiko …pe… . |
854. Trú nghĩa địa, kiên trì,. Vui đồ ăn đặt bát, Thiền tư, không chấp trước, Là con của Gô-dha. |
854. Vị ngụ ở mộ địa, kiên trì, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực, tham thiền, không chấp thủ, là Bhaddiya, con trai bà Godhā. |
855. ‘‘Yathāsanthatiko sātatiko …pe… . |
855. Tùy xứ trú, kiên trì,. Vui đồ ăn đặt bát, Thiền tư, không chấp trước, Là con của Gô-dha. |
855. Vị ngụ chỗ ở theo chỉ định, kiên trì, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực, tham thiền, không chấp thủ, là Bhaddiya, con trai bà Godhā. |
856. ‘‘Nesajjiko sātatiko …pe… . |
856. Sống thường ngồi, kiên trì,. Vui đồ ăn đặt bát, Thiền tư, không chấp trước, Là con của Gô-dha. |
856. Vị chuyên về oai nghi ngồi (không nằm), kiên trì, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực, tham thiền, không chấp thủ, là Bhaddiya, con trai bà Godhā. |
857. ‘‘Appiccho sātatiko …pe… . |
857. Ham muốn ít, kiên trì,. Vui đồ ăn đặt bát, Thiền tư, không chấp trước, Là con của Gô-dha. |
857. Vị có ít ham muốn, kiên trì, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực, tham thiền, không chấp thủ, là Bhaddiya, con trai bà Godhā. |
858. ‘‘Santuṭṭho sātatiko …pe… . |
858. Sống biết đủ, kiên trì,. Vui đồ ăn đặt bát, Thiền tư, không chấp trước, Là con của Gô-dha. |
858. Vị tự hoan hỷ, kiên trì, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực, tham thiền, không chấp thủ, là Bhaddiya, con trai bà Godhā. |
859. ‘‘Pavivitto sātatiko …pe… . |
859. Hạnh viễn ly, kiên trì,. Vui đồ ăn đặt bát, Thiền tư, không chấp trước, Là con của Gô-dha. |
859. Vị sống tách ly, kiên trì, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực, tham thiền, không chấp thủ, là Bhaddiya, con trai bà Godhā. |
860. ‘‘Asaṃsaṭṭho sātatiko …pe… . |
860. Không giao du, kiên trì,. Vui đồ ăn đặt bát, Thiền tư, không chấp trước, Là con của Gô-dha. |
860. Vị không giao tiếp, kiên trì, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực, tham thiền, không chấp thủ, là Bhaddiya, con trai bà Godhā. |
861. ‘‘Āraddhavīriyo sātatiko …pe… . |
861. Sống tinh cần, kiên trì,. Vui đồ ăn đặt bát, Thiền tư, không chấp trước, Là con của Gô-dha. |
861. Vị có sự nỗ lực tinh tấn, kiên trì, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực, tham thiền, không chấp thủ, là Bhaddiya, con trai bà Godhā. |
862. ‘‘Hitvā satapalaṃ kaṃsaṃ, sovaṇṇaṃ satarājikaṃ; Aggahiṃ mattikāpattaṃ, idaṃ dutiyābhisecanaṃ. |
862. Từ bỏ bát quý giá,. Bằng vàng, bằng nhựa quý, Ta lấy bát bằng đất, Đây quán đảnh thứ hai. |
862. Sau khi từ bỏ chiếc đĩa cân nặng một trăm pala bằng vàng có khắc nhiều hình ảnh, tôi đã cầm lấy cái bình bát bằng đất sét; đây là lễ phong vương thứ nhì.[2] |
863. ‘‘Ucce maṇḍalipākāre, daḷhamaṭṭālakoṭṭhake; Rakkhito khaggahatthehi, uttasaṃ vihariṃ pure. |
863. Vòng thành cao bảo vệ,. Vọng lâu, cửa kiên cố, Với lính tay cầm gươm, Ta đã sống sợ hãi. |
863. Được bảo vệ bởi những kẻ cầm gươm ở tay, tôi đã sống, lo sợ, trong thành trì có tường cao bao quanh, có vọng gác và cổng thành vững chắc. |
864. ‘‘Sojja bhaddo anutrāsī, pahīnabhayabheravo; Jhāyati vanamogayha, putto godhāya bhaddiyo. |
864. Nay hiền thiện, không sợ,. Bỏ run sợ kinh hãi, Thiền tư, vào rừng sâu, Là con của Gô-dha. |
864. Vị ấy, hôm nay, hiền thiện, không hốt hoảng, có sự sợ hãi và khiếp đảm đã được dứt bỏ, đã đi sâu vào khu rừng, tham thiền, là Bhaddiya, con trai bà Godhā. |
865. ‘‘Sīlakkhandhe patiṭṭhāya, satiṃ paññañca bhāvayaṃ; Pāpuṇiṃ anupubbena, sabbasaṃyojanakkhaya’’nti. |
865. An trú trên giới uẩn,. Chánh niệm, tu tuệ quán, Thứ lớp ta đạt được, Mọi kiết sử đoạn diệt. |
865. Sau khi đã đứng vững ở giới uẩn, trong khi tu tập niệm và tuệ, tôi đã đạt được sự cạn kiệt tất cả các điều ràng buộc theo tuần tự.” |
… Bhaddiyo kāḷigodhāya putto thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Bhaddiya Kāḷigodhāyaputta đã nói những lời kệ như thế. |
8. Aṅgulimālattheragāthā |
(CCLV) Angulimàlà (Thera. 80) |
Kệ ngôn của trưởng lão Aṅgulimāla. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một Bà-la-môn tên Bhaggava, giữ chức cố vấn tôn giáo cho vua nước Kosala. Trong đêm ngài sanh, các binh khí trong thành phố rực sáng, các binh giáp của vua cũng rực sáng, thành thử khi vua nằm trên giường thấy như vậy nên không thể ngủ được, thao thức và sợ hãi. Vị cố vấn nghi lễ tìm hiểu các vì sao và kết luận con mình đã sanh trúng đám sao ăn trộm. Sáng sớm, ông đến chầu vua và hỏi vua ngủ có an giấc không? Vua trả lời vua ngủ không an giấc được, vì cả đêm thấy áo giáp chói sáng và hỏi điềm ấy là điềm gì? Vị cố vấn trả lời là do mình sanh đứa con, áo giáp cả thành phố đều chói sáng, và khi được biết đứa con sau này có thể trở thành tên tướng cướp độc thân có thể chế ngự được, nên vua tha cho khỏi bị giết. |
|
|
Vì ngài sanh, làm tâm vua phiền muộn nên được gọi là Himsaka, và sau không thấy ngài làm hại ai nên được gọi là Ahimasaka. Do nghiệp đời trước, ngài có sức mạnh của bảy con voi. Khi ngài học với vị giáo sư đầu tiên ở Takhasilà, ngài hầu hạ rất thành kính vị giáo sư và bà vợ, nên thường được thấy ngài bên cạnh vị giáo sư và bà vợ trong những bữa ăn, vì vậy khiến các thanh niên Bà-la-môn khác ganh ghét, và xúi vị giáo sư chống lại Ahimsaka. Vì học trò mình có sức mạnh phi thường, vị giáo sự tìm một kế để ám hại học trò mình bằng cách bảo Ahimsaka trả tiền học phí cho mình bằng một ngàn ngón tay phải, nghĩ rằng nếu Ahimsaka đem lại một ngón tay thời cũng đủ làm hại đệ tử mình rồi. Lòng hung ác đè nén của Ahimsaka được nổi dậy, ngài mặc áo giáp, đi vào rừng Jàlinì ở Kosalu núp trên một đồi núi, theo dõi người đi đường, và khi nào thấy người đi qua, liền chạy xuống, chặt ngón tay họ, treo trên một cây cho đến khi các loài diều hâu rứt ăn hết thịt. Rồi dùng các ngón tay làm một vòng hoa, ngài đeo nơi cổ và từ đó được gọi là Angulimàlà (kẻ đeo vòng hoa bằng ngón tay). Khi vì hành động ấy, đường sá trở thành vắng người, ngài đi vào trong làng và làng trở thành trống không. Vua bèn sai một lực lượng quân đội đi bắt Angulimàlà. Mẹ của Angulimàlà khuyên chồng nên đi để bảo Angulimàlà hãy chấm dứt hành động như vậy, nhưng người chồng từ chối, không muốn liên hệ với một người con như vậy nên để mặc nhà vua làm. Bà mẹ vì thương con, khi thấy chồng từ chối liền soạn đồ lương thực và đi tìm Angulimàlà để ngăn chận không cho làm điều ác. |
|
|
Rồi Thế Tôn suy nghĩ rằng, nếu Angulimàlà gặp mẹ, sẽ giết mẹ cho đủ một ngàn ngón tay; nay là đời sống cuối cùng của Angulimàlà, nếu đức Phật không can thiệp thời sẽ có thiệt hại lớn. Sau bữa ăn đức Phật đi trên con đường dẫn đến rừng Jàlinì dầu có nhiều người ngăn cản. Khi Angulimàlà thấy mẹ, ngài tính lấy ngón tay của mẹ cho đủ số một ngàn ngón tay, thời đức Phật đến và đi giữa Angulimàlà và người mẹ, Angulimàlà liền bỏ ý định giết mẹ và quyết định giết vị Sa-môn cho đủ túc số. Angulimàlà liền rút gươm đuổi theo đức Phật, nhưng dầu ngài cố gắng thế nào cũng không làm sao đuổi kịp, dầu đức Phật vẫn đi khoan thai nhẹ nhàng. Angulimàlà yêu cầu đức Phật đứng lại, đức Phật trả lời đức Phật đã đứng rồi, chính Angulimàlà cần phải đứng lại. Câu trả lời làm Angulimàlà khó hiểu, tin rằng các Sa-môn bao giờ cũng nói thật nên ngài hỏi đức Phật: |
|
866. ‘‘Gacchaṃ vadesi samaṇa ‘ṭṭhitomhi’, mamañca brūsi ṭhitamaṭṭhitoti; Pucchāmi taṃ samaṇa etamatthaṃ, ‘kathaṃ ṭhito tvaṃ ahamaṭṭhitomhi’’’. |
866. Này Sa-môn, Ngài đi,. Lại nói: ‘Ta đứng rồi’. Ta đứng, Ngài lại nói: ‘Sao nhà ngươi chưa đứng?’ Sa-môn, ta hỏi Ngài, Về ý nghĩa việc này, Sao Ngài đã đứng lại, Còn ta lại còn đi. |
866. “Này ông Sa-môn, trong khi ông đang đi, ông lại nói: ‘Ta đã đứng lại,’ còn tôi đã đứng lại thì ông lại nói: ‘Ngươi chưa đứng lại.’ Này ông Sa-môn, tôi hỏi ông về ý nghĩa này: ‘Tại sao ông đã đứng lại, còn tôi thì chưa đứng lại?’ |
|
Thế Tôn trả lời: |
|
867. ‘‘Ṭhito ahaṃ aṅgulimāla sabbadā, sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṃ; Tuvañca pāṇesu asaññatosi, tasmā ṭhitohaṃ tuvamaṭṭhitosi’’. |
867. Angulimàlà,. Ta luôn luôn đã đứng, Với tất cả chúng sanh, Ta từ bỏ gậy trượng, Còn ông đối hữu tình, Chưa có tự chế ngự, Do vậy Ta đã đứng, Còn Ông thời chưa đứng. |
867. ‘Này Aṅgulimāla, Ta luôn luôn đứng lại sau khi đã ngưng hẳn việc hành hạ đối với tất cả chúng sanh, còn ngươi thì không tự hạn chế đối với các sinh mạng, vì thế Ta đã đứng lại, còn ngươi thì chưa đứng lại.’ |
|
Trong khi đức Phật đứng như vậy, chói sáng đức hạnh của mình, Angulimàlà nhớ lại những gì mình được nghe về đức Phật, tuệ quán đạt đến mức thuần thục, hoan hỷ thấm nhuần toàn thân, như một làn nước dâng trào toàn thế giới. Tự nói với mình: ‘Thật lớn thay, tiếng rống sư tử này. Chắc đây là Sa-môn Gotama đã đến đây để cứu độ ta’. Ngài nói: |
|
868. ‘‘Cirassaṃ vata me mahito mahesī, mahāvanaṃ samaṇo paccapādi [paccupādi (sabbattha)]; Sohaṃ cajissāmi sahassapāpaṃ, sutvāna gāthaṃ tava dhammayuttaṃ’’. |
868. Đã lâu con tôn kính,. Bậc vĩ đại Tiên nhân, Nay bậc Sa-môn này, Đã bước vào Đại lâm, Con nay sẽ sẵn sàng, Từ bỏ ngàn điều ác, Sau khi nghe kệ Ngài, Liên hệ đến Chánh pháp. |
868. Quả thật, vị đại ẩn sĩ, bậc Sa-môn đã đi vào khu rừng lớn, lâu nay đã được con kính ngưỡng. Sau khi nghe Ngài nói câu kệ ngôn gắn liền với Giáo Pháp, con đây sẽ từ bỏ ngàn điều xấu xa. |
869. Icceva coro asimāvudhañca, sobbhe papāte narake anvakāsi [akiri (ma. ni. 2.349)]; Avandi coro sugatassa pāde, tattheva pabbajjamayāci buddhaṃ. |
869. Nói xong, tên tướng cướp,. Liền quăng bỏ cây kiếm, Quăng bỏ cả khí giới, Xuống vực núi thâm sâu. Tên tướng cướp đảnh lễ, Dưới chân bậc Thiện Thệ, Chính ngay tại chỗ ấy, Xin đức Phật xuất gia. |
869. Nói như vậy, kẻ cướp đã quăng bỏ thanh gươm và vũ khí vào hố, vào khe núi, vào vực thẳm. Kẻ cướp đã đảnh lễ các bàn chân của đấng Thiện Thệ, rồi ngay tại chỗ ấy đã cầu xin đức Phật việc xuất gia. |
870. Buddho ca kho kāruṇiko mahesi, yo satthā lokassa sadevakassa; ‘Tamehi bhikkhū’ti tadā avoca, eseva tassa ahu bhikkhubhāvo. |
870. Đức Phật đại từ bi,. Là bậc đại Tiên nhân, Đạo Sư cả nhân giới, Cùng với cả thiên giới, Nói lên những lời này: Hãy đến, thiện Tỷ-kheo, Như vậy, đối vị ấy, Thành tựu Tỷ-kheo tánh. |
870. Và đức Phật, đấng Bi Mẫn, vị Đại Ẩn Sĩ, bậc Đạo Sư của thế gian luôn cả chư Thiên, khi ấy đã nói với vị ấy rằng: ‘Này tỳ khưu, hãy đến;’ chính điều này đã là trạng thái tỳ khưu đối với vị ấy. |
|
Angulimàlà sau khi xuất gia tu hành, chứng quả rồi nói lên quả chứng của mình: |
|
871. ‘‘Yo ca pubbe pamajjitvā, pacchā so nappamajjati; Somaṃ lokaṃ pabhāseti, abbhā muttova candimā. |
871. Ai trước sống phóng dật,. Sau sống không phóng dật, Chói sáng thế giới này, Như trăng thoát mây che. |
871. Và vị nào trước đây đã bị xao lãng, về sau không bị xao lãng, vị ấy chiếu sáng thế gian này, tựa như mặt trăng được thoát khỏi đám mây. |
872. ‘‘Yassa pāpaṃ kataṃ kammaṃ, kusalena pidhīyati [pithīyati (sī. syā.)]; Somaṃ lokaṃ pabhāseti, abbhā muttova candimā. |
872. Ai trước làm nghiệp ác,. Nay lấy thiện chận lại, Chói sáng thế giới này, Như trăng thoát mây che. |
872. Đối với vị nào, nghiệp ác đã tạo được chận đứng nhờ vào thiện pháp, vị ấy chiếu sáng thế gian này, tựa như mặt trăng được thoát khỏi đám mây. |
873. ‘‘Yo have daharo bhikkhu, yuñjati buddhasāsane; Somaṃ lokaṃ pabhāseti, abbhā muttova candimā. |
873. Ai Tỷ-kheo còn trẻ,. Chuyên tâm hành Phật dạy, Chói sáng thế giới này, Như trăng thoát mây che. |
873. Thật vậy, vị tỳ khưu trẻ tuổi nào gắn bó vào lời dạy của đức Phật, vị ấy chiếu sáng thế gian này, tựa như mặt trăng được thoát khỏi đám mây. |
|
Như vậy, sống trong hạnh phúc giải thoát, ngài đi vào thành khất thực. Có người ném đá vào ngài, có người lấy gậy đánh vào đầu ngài, và ngài về tịnh xá với bình bát bị bể. Đức Phật khuyên ngài nên nhẫn nại chịu khổ, vì nghiệp quả của ngài đáng phải thiêu sống ở địa ngục, nay chỉ chịu khổ như vậy thôi. Rồi ngài phát tâm từ bi đối với tất cả chúng sanh. |
|
874. [disā hi (syā. ka., ma. ni. 2.352)] ‘‘Disāpi me dhammakathaṃ suṇantu, disāpi me yuñjantu buddhasāsane; Disāpi me te manuje bhajantu, ye dhammamevādapayanti santo. |
874. Mong rằng kẻ thù ta. Được nghe lời Chánh pháp, Mong rằng kẻ thù ta Chuyên tâm lời Phật dạy, Mong rằng kẻ thù ta Thân cận với những người Đã đạt được an tịnh, Sống thọ trì Chánh pháp. |
874. Mong rằng ngay cả những kẻ thù của tôi hãy lắng nghe lời giảng về Giáo Pháp. Mong rằng ngay cả những kẻ thù của tôi hãy gắn bó vào lời dạy của đức Phật. Mong rằng ngay cả những kẻ thù của tôi hãy kết giao với những người tốt, là những người giúp cho (người khác) hành theo Chánh Pháp. |
875. ‘‘Disā hi me khantivādānaṃ, avirodhappasaṃsinaṃ; Suṇantu dhammaṃ kālena, tañca anuvidhīyantu. |
875. Mong rằng kẻ thù ta,. Thời thời được nghe pháp, Thuyết giảng về nhẫn nhục, Tán thán về nhu hòa, Và sở hành của họ, Phù hợp với Chánh pháp. |
875. Mong rằng chính những kẻ thù của tôi hãy lắng nghe Giáo Pháp của những vị thuyết giảng về nhẫn nại và ca ngợi về sự không chống đối vào lúc thích hợp, và mong rằng họ hãy thực hành đúng theo điều ấy. |
876. ‘‘Na hi jātu so mamaṃ hiṃse, aññaṃ vā pana kiñcanaṃ [kañcinaṃ (sī. syā.), kañcanaṃ (?)]; Pappuyya paramaṃ santiṃ, rakkheyya tasathāvare. |
876. Vị chúng sanh như vậy,. Không có ám hại ta, Hay cũng không ám hại, Một người khác nào hết. Người ấy sẽ đạt được, Sự an tịnh tối thượng, Sẽ bảo vệ hộ trì, Người mạnh và kẻ yếu. |
876. Bởi vì con người ấy sẽ không hãm hại tôi hoặc bất cứ người nào khác, có thể đạt được sự an tịnh tuyệt đối, có thể bảo vệ các loài cử động hoặc không cử động. |
877. [theragā. 19] ‘‘Udakañhi nayanti nettikā, usukārā namayanti [damayanti (ka.)] tejanaṃ; Dāruṃ namayanti [damayanti (ka.)] tacchakā, attānaṃ damayanti paṇḍitā. |
877. Người trị thủy dẫn nước,. Kẻ làm tên nắn tên, Người thợ mộc uốn gỗ, Bậc trí nhiếp tự thân. |
877. Thật vậy, những người đào kênh dẫn nước, những người làm tên uốn thẳng cây tên, những người thợ mộc uốn nắn thanh gỗ, những vị sáng suốt huấn luyện bản thân. |
878. ‘‘Daṇḍeneke damayanti, aṅkusebhi kasāhi ca; Adaṇḍena asatthena, ahaṃ dantomhi tādinā. |
878. Có kẻ được điều phục,. Bởi gậy, móc và roi, Vị ấy điều phục ta, Không dùng gậy, dùng kiếm. |
878. Nhiều người thuần phục bằng gậy gộc, bằng các móc câu và các roi vọt. Tôi được thuần phục không bằng gậy, không bằng dao bởi vị như thế ấy. |
879. ‘‘‘Ahiṃsako’ti me nāmaṃ, hiṃsakassa pure sato; Ajjāhaṃ saccanāmomhi, na naṃ hiṃsāmi kiñcanaṃ [kañcinaṃ (sī. syā.), kañcanaṃ (?)]. |
879. Ta được tên Vô Hại,. Trước có tên Làm Hại, Nay ta tên Chân Thật, Ta không hại một ai. |
879. ‘Người Vô Hại’ là tên của tôi, trước đây là kẻ hãm hại. Hôm nay, tôi có tên đúng đắn, tôi không hãm hại bất cứ người nào. |
880. ‘‘Coro ahaṃ pure āsiṃ, aṅgulimāloti vissuto; Vuyhamāno mahoghena, buddhaṃ saraṇamāgamaṃ. |
880. Trước ta là tên cướp,. Lừng danh ‘vòng ngón tay’, Chìm đắm dòng nước lớn, Cho đến khi quy Phật. |
880. Trước đây, tôi đã là kẻ cướp, được biết tiếng là ‘Aṅgulimāla.’ Trong khi bị cuốn trôi bởi vòng nước lũ mạnh mẽ, tôi đã đi đến nương nhờ đức Phật. |
881. ‘‘Lohitapāṇi pure āsiṃ, aṅgulimāloti vissuto; Saraṇagamanaṃ passa, bhavanetti samūhatā. |
881. Trước tay ta lấm máu,. Lừng danh, ‘vòng ngón tay’, Hãy xem, ta quy y, Nhổ lên gốc tái sanh. |
881. Trước đây, tôi đã có bàn tay vấy máu, được biết tiếng là ‘Aṅgulimāla.’ Hãy nhìn xem việc đi đến nương nhờ, (nhờ vậy) lối dẫn đến hiện hữu đã được xóa sạch. |
882. ‘‘Tādisaṃ kammaṃ katvāna, bahuṃ duggatigāminaṃ; Phuṭṭho kammavipākena, anaṇo bhuñjāmi bhojanaṃ. |
882. Làm xong nhiều nghiệp vậy,. Dẫn đến sanh ác thú, Cảm thọ nghiệp dị thục, Thoát nợ, ta thọ thực. |
882. Sau khi tạo ra nhiều nghiệp như thế ấy, có sự đưa đến khổ cảnh, chịu tác động bởi quả thành tựu của nghiệp, tôi thọ dụng thức ăn không phải nợ nần. |
883. ‘‘Pamādamanuyuñjanti, bālā dummedhino janā; Appamādañca medhāvī, dhanaṃ seṭṭhaṃva rakkhati. |
883. Những kẻ ngu vô trí. Đam mê sống phóng dật, Kẻ trí không phóng dật, Như bảo vệ vật báu. |
883. Những kẻ ngu si, có trí tồi, bám víu vào sự xao lãng, còn những người thông minh bảo vệ sự không xao lãng, tựa như bảo vệ tài sản hạng nhất. |
884. ‘‘Mā pamādamanuyuñjetha, mā kāmaratisanthavaṃ [sandhavaṃ (ka.)]; Appamatto hi jhāyanto, pappoti paramaṃ sukhaṃ. |
884. Chớ đam mê phóng dật,. Chớ say đắm dục lạc, Không phóng dật, thiền tư, Đạt được lạc tối thượng. |
884. Ngươi chớ bám víu vào sự xao lãng, chớ bám víu vào sự thân thiết với niềm thích thú dục trần, bởi vì người không bị xao lãng, trong khi tham thiền, đạt được sự an lạc tối thượng. |
885. ‘‘Svāgataṃ nāpagataṃ, netaṃ dummantitaṃ mama; Savibhattesu dhammesu, yaṃ seṭṭhaṃ tadupāgamaṃ. |
885. Đến ta điều tốt đẹp,. Không tốt đẹp, không đến, Lời khuyên bảo cho ta, Không có gì không tốt, Trong các pháp phân biệt, Có mặt ở trên đời, Pháp gì tối thượng nhất, Ta chọn, ta chứng đạt. |
885. Việc đi đến (gặp đức Phật) của tôi là tốt đẹp, không phải là việc tránh xa (Ngài), điều ấy đã được khuyên bảo một cách sái quấy đến tôi là không đúng; trong số các pháp được phân hạng, tôi đã đạt đến pháp cao nhất. |
886. ‘‘Svāgataṃ nāpagataṃ, netaṃ dummantitaṃ mama; Tisso vijjā anuppattā, kataṃ buddhassa sāsanaṃ. |
886. Đến ta, điều tốt đẹp,. Không tốt đẹp, không đến, Lời khuyên bảo cho ta, Không có gì không tốt, Ba minh ta đạt được, Lời Phật dạy, làm xong. |
886. Việc đi đến (gặp đức Phật) của tôi là tốt đẹp, không phải là việc tránh xa (Ngài), điều ấy đã được khuyên bảo một cách sái quấy đến tôi là không đúng; ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành. |
887. ‘‘Araññe rukkhamūle vā, pabbatesu guhāsu vā; Tattha tattheva aṭṭhāsiṃ, ubbiggamanaso tadā. |
887.Trong rừng, dưới gốc cây,. Hay trên núi trong hang, Tại chỗ ấy, ta trú, Tâm tư thật hứng khởi. |
887. Ở khu rừng hoặc ở gốc cây, ở những núi non hoặc ở những hang động, tại nơi ấy, ở ngay tại nơi ấy, vào lúc ấy, tôi đã đứng, với tâm tư chấn động. |
888. ‘‘Sukhaṃ sayāmi ṭhāyāmi, sukhaṃ kappemi jīvitaṃ; Ahatthapāso mārassa, aho satthānukampito. |
888. Thật an lạc, ta nằm,. Thật an lạc, ta dậy, Tâm tư thuần an lạc, Là nếp sống của ta, Thoát khỏi cạm bẫy Ma, Ôi, Đạo Sư từ mẫn! |
888. Tôi nằm, tôi đứng một cách an lạc, tôi duy trì mạng sống một cách an lạc, không còn có bẫy sập của Ma Vương, tôi đã được bậc Đạo Sư thương xót. |
889. ‘‘Brahmajacco pure āsiṃ, udicco ubhato ahu; Sojja putto sugatassa, dhammarājassa satthuno. |
889. Trước ta sanh Phạm chí,. Hai hệ, dòng họ cao, Nay ta con Thiện Thệ, Đạo Sư, bậc Pháp vương. |
889. Trước đây, tôi đã là dòng dõi Bà-la-môn, là cao quý từ hai tộc (cha và mẹ), hôm nay tôi đây là người con trai của đức Thiện Thệ, đấng Pháp Vương, bậc Đạo Sư. |
890. ‘‘Vītataṇho anādāno, guttadvāro susaṃvuto; Aghamūlaṃ vadhitvāna, patto me āsavakkhayo. |
890. Ái ly, không chấp thủ,. Căn hộ trì, chế ngự, Đoạn bỏ gốc tà ác, Ta đạt lậu hoặc diệt. |
890. Có tham ái đã được xa lìa, không còn chấp thủ, có cánh cửa (của các giác quan) đã được canh phòng, đã khéo được thu thúc, sau khi tiêu diệt gốc rễ của sầu khổ, tôi đã đạt được sự cạn kiệt của các lậu hoặc. |
891. ‘‘Pariciṇṇo mayā satthā, kataṃ buddhassa sāsanaṃ; Ohito garuko bhāro, bhavanetti samūhatā’’ti. |
891. Ta hầu hạ Đạo Sư,. Lời Phật dạy làm xong, Gánh nặng đã đặt xuống, Gốc sanh hữu nhổ sạch. |
891. Bậc Đạo Sư đã được tôi hầu hạ, lời dạy của đức Phật đã được thực hành, vật mang nặng đã được đặt xuống, lối dẫn đến hiện hữu đã được xóa sạch.” |
… Aṅgulimālo thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Aṅgulimāla đã nói những lời kệ như thế. |
9. Anuruddhattheragāthā |
(CCLVI) Anuruddha (Thera. 83) |
Kệ ngôn của trưởng lão Anuruddha. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài được sanh ở Kapilavatthu, trong nhà dòng họ Sakya Amitodana và được đặt tên là Anuruddha.Anh của ngài là Thích-ca Mahànàma, con người cậu của đức Phật. Ngài được nuôi dưỡng rất tế nhị, mỗi mùa ở mỗi nhà khác nhau, có các vũ nữ vũ sư đoanh vây, thọ hưởng sự giàu sang thần tiên. Khi được gọi làm người bảo vệ cho bậc Đạo Sư, ngài đi đến đức Phật, trong rừng xoài ở Anupiyà, thọ giới xuất gia, và trong mùa an cư mùa mưa, ngài chứng Thiên nhãn. Nhận được đề tài thiền quán từ ngài Xá-lợi-phất. Ngài đi đến rừng trúc ở phương Đông, hành thiền quán, và chứng được bảy tư duy của một vị Đại nhân, nhưng chưa chứng được tư duy thứ tám. Bậc Đạo Sư nhận thấy vậy liền dạy cho ngài quá trình tu chứng của bậc Thánh. Nhớ lại lời dạy này, Anuruddha phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán cùng với thắng trí và vô ngại giải thù thắng. Ngài được Thế Tôn xác nhận là bậc Thiên nhãn đệ nhất. Và ngài sống trong an lạc giải thoát. Một hôm ôn lại quá trình tu chứng của mình, ngài hoan hỷ phấn khởi, và nói lên bài kệ sau đây: |
|
892. ‘‘Pahāya mātāpitaro, bhaginī ñātibhātaro; Pañca kāmaguṇe hitvā, anuruddhova jhāyatu. |
892. Bỏ cha mẹ, bà con,. Bỏ anh em, chị em, Bỏ năm dục trưởng dưỡng, A-na-luật tu thiền. |
892. “Sau khi lìa bỏ mẹ và cha, chị em gái, thân quyến, và anh em trai, sau khi từ bỏ năm loại dục trần, chính Anuruddha tham thiền. |
893. ‘‘Sameto naccagītehi, sammatāḷappabodhano; Na tena suddhimajjhagaṃ [suddhamajjhagā (sī. ka.), suddhimajjhagamā (syā.)], mārassa visaye rato. |
893. Sống hệ lụy múa, ca,. Dạy với tiếng xập xỏa, Sống vậy không đạt được, Cảnh giới đạo thanh tịnh, Vì rằng ta ưa thích, Trong giới vực của Ma. |
893. Được cung phụng với các điệu vũ và bài ca, có sự đánh thức bởi cồng và xập xõa; vì điều ấy, được thích thú ở lãnh địa của Ma Vương, tôi đã không đạt đến sự thanh tịnh. |
894. ‘‘Etañca samatikkamma, rato buddhassa sāsane; Sabboghaṃ samatikkamma, anuruddhova jhāyati. |
894. Và ta vượt tất cả,. Vui thích lời Phật dạy, Vượt mọi loại bộc lưu, A-na-luật tu thiền. |
894. Và sau khi đã hoàn toàn vượt qua điều ấy, được thích thú ở Giáo Pháp của đức Phật, sau khi đã tự mình vượt qua mọi dòng nước lũ, chính Anuruddha tham thiền. |
895. ‘‘Rūpā saddā rasā gandhā, phoṭṭhabbā ca manoramā; Ete ca samatikkamma, anuruddhova jhāyati. |
895. Sắc, thanh, vị, hương, xúc,. Hấp dẫn, rất thích ý, Vượt qua tất cả chúng, A-na-luật tu thiền. |
895. Các sắc, các thinh, các vị, các hương, các xúc, và các điều làm thích ý, và sau khi đã tự mình vượt qua các điều này, chính Anuruddha tham thiền. |
896. ‘‘Piṇḍapātapaṭikkanto, eko adutiyo muni; Esati paṃsukūlāni, anuruddho anāsavo. |
896. Đi khất thực trở về,. Đơn độc, vị ẩn sĩ, Tìm vải từ đống rác, A-na-luật đạt được, Không còn các lậu hoặc. |
896. Trong khi trở về sau khi khất thực, một mình, không người thứ hai, vị hiền trí Anuruddha, không còn lậu hoặc, tìm kiếm các mảnh vải bị quăng bỏ. |
897. ‘‘Vicinī aggahī dhovi, rajayī dhārayī muni; Paṃsukūlāni matimā, anuruddho anāsavo. |
897. ẩn sĩ thâu, lượm lấy,. Giặt, nhuộm, và đắp mặc, Các vải từ đống rác, Sáng suốt, A-na-luật, Không còn các lậu hoặc. |
897. Vị hiền trí Anuruddha, có ý tứ, không còn lậu hoặc, đã gom lại, đã chọn lấy, đã giặt, đã nhuộm, đã mặc vào các mảnh vải bị quăng bỏ. |
898. ‘‘Mahiccho ca asantuṭṭho, saṃsaṭṭho yo ca uddhato; Tassa dhammā ime honti, pāpakā saṃkilesikā. |
898. Nhiều dục, không biết đủ,. Ưa giao du, tháo động, Những pháp này có mặt, Thuộc tà ác, uế nhiễm, |
898. Người nào có ham muốn lớn lao, không tự hoan hỷ (không tri túc), giao du, và tự kiêu, đối với người ấy, các pháp này hiện diện: các pháp ác liên quan đến phiền não. |
899. ‘‘Sato ca hoti appiccho, santuṭṭho avighātavā; Pavivekarato vitto, niccamāraddhavīriyo. |
899. Chánh niệm và ít dục,. Biết đủ, không não loạn, Thích viễn ly, hân hoan, Thường tinh cần tinh tấn. |
899. Và vị nào có niệm, có ham muốn ít, tự hoan hỷ (tri túc), không khuấy rối, thích thú việc tách ly, được hân hoan, có sự nỗ lực tinh tấn thường xuyên. |
900. ‘‘Tassa dhammā ime honti, kusalā bodhipakkhikā; Anāsavo ca so hoti, iti vuttaṃ mahesinā. |
900. Những pháp này có mặt,. Thuần thiện Bồ đề phần, Vị ấy không lậu hoặc, Bậc Đại tiên nói vậy. |
900. Đối với vị ấy, các pháp này hiện diện: các pháp thiện góp phần vào sự giác ngộ, và vị ấy không còn lậu hoặc, bậc Đại Ẩn Sĩ đã nói như vậy. |
901. ‘‘Mama saṅkappamaññāya, satthā loke anuttaro; Manomayena kāyena, iddhiyā upasaṅkami. |
901. Biết tâm tư ta vậy,. Thế gian Vô Thượng Sư, Với thân do ý tạo, Thần thông đến với ta. |
901. Biết được sự suy tư của tôi, bậc Đạo Sư, đấng Vô Thượng ở thế gian, đã đến bên tôi bằng thần thông, với cơ thể được tạo thành bởi ý. |
902. ‘‘Yadā me ahu saṅkappo, tato uttari desayi; Nippapañcarato buddho, nippapañcamadesayi. |
902. Tùy theo ta nghĩ gì,. Ngài thuyết rõ tất cả, Phật không ưa hý luận, Ngài thuyết không hý luận. |
902. Vào lúc sự suy tư đã có ở tôi, do đó Ngài đã thuyết giảng thêm nữa. Được thỏa thích ở các pháp không chướng ngại, đức Phật đã thuyết giảng về các pháp không chướng ngại. |
903. ‘‘Tassāhaṃ dhammamaññāya, vihāsiṃ sāsane rato; Tisso vijjā anuppattā, kataṃ buddhassa sāsanaṃ. |
903. Ngộ pháp ta hoan hỷ,. Trú trong giáo pháp Ngài, Ba minh chứng đạt được, Lời Phật dạy làm xong. |
903. Vì thế, sau khi hiểu được Giáo Pháp, được thích thú ở lời giáo huấn, tôi đã an trú. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành. |
904. ‘‘Pañcapaññāsavassāni, yato nesajjiko ahaṃ; Pañcavīsativassāni, yato middhaṃ samūhataṃ. |
904. Suốt năm mươi lăm năm,. Ta không bao giờ nằm, Trong hai mươi lăm năm, Đoạn dứt được ngủ nghỉ. |
904. Đã năm mươi lăm năm kể từ khi tôi là vị chuyên về oai nghi ngồi (không nằm), đã hai mươi lăm năm kể từ khi sự buồn ngủ đã được xóa sạch. |
905. [dī. ni. 2.222] ‘‘Nāhu assāsapassāsā, ṭhitacittassa tādino; Anejo santimārabbha, cakkhumā parinibbuto. |
905. Không thở vô thở ra,. Bậc như vậy trú tâm, Không tham dục, tịch tịnh, Bậc có mắt Niết-bàn. |
905. Việc thở ra và thở vào đã không còn đối với vị có tâm đã được đình chỉ như thế ấy. Không còn dục vọng, sau khi hướng đến sự an tịnh, bậc hữu nhãn viên tịch Niết Bàn. |
906. [dī. ni. 2.222] ‘‘Asallīnena cittena, vedanaṃ ajjhavāsayi; Pajjotasseva nibbānaṃ, vimokkho cetaso ahu. |
906. Với tâm không dao động,. Sống cảm thọ cuối cùng, Như ngọn lửa diệt tắt, Tâm Ngài được giải thoát. |
906. Với tâm không thụ động, vị ấy đã chịu đựng cảm thọ; sự giải thoát của tâm tựa như sự diệt tắt của ngọn lửa đã được cháy sáng. |
907. ‘‘Ete pacchimakā dāni, munino phassapañcamā; Nāññe dhammā bhavissanti, sambuddhe parinibbute. |
907. Nay chính những pháp này,. Là những pháp cuối cùng, Những cảm xúc thứ năm, Của bậc Đại Mâu-ni, Sẽ không còn pháp khác, Bậc Chánh giác Niết-bàn. |
907. Giờ đây, những pháp cuối cùng này của bậc hiền trí có xúc là pháp thứ năm, sẽ không còn các pháp nào khác vào lúc bậc Toàn Giác viên tịch Niết Bàn. |
|
Rồi một Thiên nhân, trước kia là người hầu cận ngài, thấy ngài già và ốm, vì lòng thương ngài, yêu cầu ngài tái sanh ở chư Thiên. Ngài trả lời như sau: |
|
908. ‘‘Natthi dāni punāvāso, devakāyasmi jālini;. Vikkhīṇo jātisaṃsāro, natthi dāni punabbhavo. |
908. Nay không còn tái sanh. Trong thế giới chư Thiên, Này kẻ gieo cạm bẫy. Dòng sanh tử, đoạn tận, Nay không còn tái sanh. |
908. Này kẻ dụ dỗ, giờ đây, không có việc cư ngụ lần nữa ở tập thể chư Thiên, việc luân hồi tái sanh đã được triệt tiêu, giờ đây không còn tái sanh nữa. |
|
Rồi vị Tỷ-kheo khác, không thấy vị Thiên nhân, không hiểu bậc Trưởng lão nói với ai. Để nói lên thần thông của mình, ngài nói câu kệ: |
|
909. ‘‘Yassa muhuttena sahassadhā, loko saṃvidito sabrahmakappo; Vasī iddhiguṇe cutūpapāte, kāle passati devatā sa bhikkhu [sabhikkhuno (sī. ka.)]. |
909. Ai trong thời gian ngắn. Biết thế giới ngàn cõi, Vị ấy thật xứng đáng, Được sống giới Phạm thiên, Nhưng nay Tỷ-kheo ấy, Đầy đủ thần thông lực, Thấy được thời gian nào, Chư Thiên chết và sanh. |
909. Vị tỳ khưu ấy, với năng lực về các loại thần thông, về việc tử và sanh, nhìn thấy được chư Thiên vào lúc hợp thời, đối với vị ấy thế gian luôn cả Phạm Thiên giới được nhận biết bằng một ngàn cách trong giây lát. |
|
Rồi ngài nói lên nghiệp trước của ngài: |
|
910. ‘‘Annabhāro [annahāro (sī.)] pure āsiṃ, daliddo ghāsahārako; Samaṇaṃ paṭipādesiṃ, upariṭṭhaṃ yasassinaṃ.. |
910. Đời trước ta đã sống,. Tên Annabhara, Bần cùng, phải làm lụng, Lo nuôi sống tự thân, Rồi ta đến cúng dường, Bậc Sa-môn danh tiếng, Sa-môn với xưng danh, Ngài Uparittha. |
910. Trước đây, tôi đã là Annabhāra, nghèo khó, người mang vác cỏ khô (cho gia súc ăn), tôi đã hộ độ vị Sa-môn Upariṭṭha có danh tiếng. |
911. ‘‘Somhi sakyakule jāto, anuruddhoti maṃ vidū; Upeto naccagītehi, sammatāḷappabodhano. |
911. Rồi ta được sanh trưởng,. Trong dòng họ Thích-ca, Ta được biết với tên, Là Anuruddha, Sống hệ lụy múa ca, Dạy với tiếng xập xỏa. |
911. Tôi đã được sanh vào dòng dõi Sakya, người ta đã biết đến tôi là ‘Anuruddha,’ được cung phụng với các điệu vũ và bài ca, có sự đánh thức bởi cồng và xập xõa. |
912. ‘‘Athaddasāsiṃ sambuddhaṃ, satthāraṃ akutobhayaṃ; Tasmiṃ cittaṃ pasādetvā, pabbajiṃ anagāriyaṃ. |
912. Ta thấy bậc Chánh giác,. Bậc Đạo Sư vô úy, Tín tâm khởi nơi Ngài, Ta xuất gia không nhà. |
912. Khi ấy, tôi đã nhìn thấy đấng Toàn Giác, bậc Đạo Sư, vị không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu. Sau khi đã có tâm tịnh tín ở Ngài, tôi đã xuất gia sống đời không nhà. |
913. ‘‘Pubbenivāsaṃ jānāmi, yattha me vusitaṃ pure; Tāvatiṃsesu devesu, aṭṭhāsiṃ sakkajātiyā [satajātiyā (sī.)]. |
913. Ta biết các đời trước,. Trước ta sống chỗ nào, Giữa cõi Ba mươi ba, Ta sanh làm Đế Thích. |
913. Tôi biết được đời sống trong thời quá khứ, nơi đã được tôi sống trước đây; tôi đã tồn tại một trăm kiếp sống ở giữa chư Thiên cõi Đạo Lợi. |
914. ‘‘Sattakkhattuṃ manussindo, ahaṃ rajjamakārayiṃ; Cāturanto vijitāvī, jambusaṇḍassa issaro; Adaṇḍena asatthena, dhammena anusāsayiṃ. |
914. Bảy lần làm Nhân chủ,. Ta trị vì quốc độ, Ta chinh phục bốn phương, Làm chúa châu Diêm phù, Không dùng gậy dùng gươm, Trị vì với Chánh pháp. |
914. Là chúa tể của loài người, tôi đã cai quản vương quốc bảy lần, có sự chiến thắng khắp bốn phương, chúa tể của Jambusaṇḍa. Tôi đã chỉ dạy theo lẽ phải, không bằng gậy, không bằng dao. |
915. ‘‘Ito satta tato satta, saṃsārāni catuddasa; Nivāsamabhijānissaṃ, devaloke ṭhitā tadā. |
915. Từ đây bảy bảy lần,. Mười bốn lần luân hồi, Ta biết được đời sống, Khi ta trú thiên giới. |
915. Từ đây bảy lần, từ chỗ kia bảy lần, là mười bốn lần luân hồi, vào khi ấy, ngự ở thế giới chư Thiên, tôi đã biết rõ về chỗ cư ngụ. |
916. ‘‘Pañcaṅgike samādhimhi, sante ekodibhāvite; Paṭippassaddhiladdhamhi, dibbacakkhu visujjhi me. |
916. Trong thiền định năm chi,. Tâm an tịnh nhất tâm, Tâm ta được khinh an, Thiên nhãn ta thanh tịnh. |
916. Khi định có năm chi phần được an tịnh, được phát triển ở nhất điểm, tôi đạt được tịnh (giác chi); Thiên nhãn của tôi đã được trong sạch. |
917. ‘‘Cutūpapātaṃ jānāmi, sattānaṃ āgatiṃ gatiṃ; Itthabhāvaññathābhāvaṃ, jhāne pañcaṅgike ṭhito. |
917. Ta biết sanh và chết,. Chỗ đến đi hữu tình, Đời này và đời khác, Ta trú thiền năm chi. |
917. Trú ở thiền có năm chi phần, tôi biết được sự tử và sự sanh, việc đến, việc ra đi, bản thể này và bản thể khác của các chúng sanh. |
918. ‘‘Pariciṇṇo mayā satthā …pe… bhavanetti samūhatā. |
918. Ta hầu hạ Đạo Sư,. Lời Phật dạy làm xong, Gánh nặng đã đặt xuống, Gốc sanh hữu nhổ sạch. |
918. Bậc Đạo Sư đã được tôi hầu hạ, lời dạy của đức Phật đã được thực hành, vật mang nặng đã được đặt xuống, lối dẫn đến hiện hữu đã được xóa sạch.[3] |
919. ‘‘Vajjīnaṃ veḷuvagāme, ahaṃ jīvitasaṅkhayā; Heṭṭhato veḷugumbasmiṃ, nibbāyissaṃ anāsavo’’ti. |
919. Tại làng Vê-lu-va,. Giữa dân tộc Vajji, Ta đi đến đoạn diệt, Chấm dứt dòng sanh tử, Dưới bóng của khóm trúc, Ta sẽ nhập Niết-bàn, Không còn có lậu hoặc. |
919. Tại ngôi làng Veḷuva của xứ Vajji, bên dưới lùm tre, do sự cạn kiệt của mạng sống, tôi sẽ Niết Bàn, không còn lậu hoặc.” |
… Anuruddho thero…. |
|
Đại đức trưởng lão Anuruddha đã nói những lời kệ như thế. |
10. Pārāpariyattheragāthā |
(CCLVII) Pàràpariya (Thera. 84) |
Kệ ngôn của trưởng lão Pārāsariya. |
|
Đời sống của ngài đã được nói đến phẩm CCXLIX. Các kệ trước được nói lên khi đức Bổn Sư còn sống. Khi ngài chưa chứng quả A-la-hán, về vấn đề sáu lực (năm căn và ý). Những bài kệ sau đây được nói lên khi đức Bổn Sư đã viên tịch và khi ngài sắp sửa mệnh chung. Trong những bài kệ này, ngài nói lên tương lai của các Tỷ-kheo khi họ theo tà pháp. |
|
|
Câu kệ đầu do các vị chép sớ đặt vào: |
|
920. Samaṇassa ahu cintā, pupphitamhi mahāvane;. Ekaggassa nisinnassa, pavivittassa jhāyino. |
920. Đây là những tư tưởng. Của một vị Sa-môn, Tại rừng gọi Đại lâm, Khi rừng đang trổ hoa, Ngài ngồi chỉ một mình, Viễn ly, tâm thiền định. |
920. “Ở Mahāvana (Đại Lâm) được nở rộ hoa, vị Sa-môn đã ngồi xuống, (có tâm) được tập trung, được tách ly, chứng thiền, đã khởi ý nghĩ rằng:[4] |
921. ‘‘Aññathā lokanāthamhi, tiṭṭhante purisuttame; Iriyaṃ āsi bhikkhūnaṃ, aññathā dāni dissati. |
921. Khác thay, những uy nghi,. Của những vị Tỷ-kheo, Khi bậc Tối thượng nhân, Bậc Thế Tôn còn sống, Còn nay điều được thấy, Thật sai khác đi nhiều. |
921. ‘Khi đấng Bảo Hộ Thế Gian, bậc Tối Thượng Nhân, đang còn hiện tiền, uy nghi của các vị tỳ khưu đã là cách khác, giờ đây được thấy cách khác. |
922. ‘‘Sītavātaparittānaṃ, hirikopīnachādanaṃ;. Mattaṭṭhiyaṃ abhuñjiṃsu, santuṭṭhā itarītare. |
922. Y để ngăn gió lạnh,. Để che điều xấu hổ, Họ thọ dụng tiết độ. Biết đủ, từ đâu đến. |
922. Việc bảo vệ khỏi gió lạnh, việc che đậy chỗ kín, các vị đã thọ dụng theo nhu cầu vừa đủ, tự hoan hỷ (tri túc) về bất cứ vật nào (đã thọ nhận). |
923. ‘‘Paṇītaṃ yadi vā lūkhaṃ, appaṃ vā yadi vā bahuṃ; Yāpanatthaṃ abhuñjiṃsu, agiddhā nādhimucchitā. |
923. Vị ngon hay vị dở. Được ít hay được nhiều, Họ thọ dụng món ăn, Chỉ cần nuôi mạng sống, Tâm không có tham lam, Cũng không có say đắm. |
923. Dầu là hảo hạng hay thô xấu, dầu là ít hoặc nhiều, các vị đã thọ dụng vì mục đích duy trì mạng sống, không bị tham đắm, không bị say đắm. |
924. ‘‘Jīvitānaṃ parikkhāre, bhesajje atha paccaye;. Na bāḷhaṃ ussukā āsuṃ, yathā te āsavakkhaye. |
924. Các đồ vật để sống,. Hay các loại dược phẩm, Họ không quá tha thiết Như đối lậu hoặc diệt. |
924. Các vị đã không năng nổ thái quá về các vật dụng cho đời sống, về thuốc men khi có bệnh, giống như các vị ấy (đã năng nổ) cho việc cạn kiệt các lậu hoặc. |
925. ‘‘Araññe rukkhamūlesu, kandarāsu guhāsu ca; Vivekamanubrūhantā, vihaṃsu tapparāyanā. |
925. Dưới gốc cây trong rừng,. Hay trong hang trong động, Chuyên tâm tu viễn ly, Sống lấy vậy cứu cánh. |
925. Trong khi đeo đuổi việc ẩn cư, với sự chuyên chú về việc ấy, các vị đã sống ở khu rừng, ở các gốc cây, ở những khe núi, và ở các hang động. |
926. ‘‘Nīcā niviṭṭhā subharā, mudū atthaddhamānasā; Abyāsekā amukharā, atthacintā vasānugā. |
926. Sống khiêm tốn giản dị,. Nhu hòa, ý kham nhậm, Với cử chỉ tao nhã, Không nói năng quàng xiên, Tâm tư hướng lợi ích Cho mình và cho người. |
926. (Các vị) khiêm tốn, tín tâm, dễ nuôi, mềm mỏng, tâm ý không cương ngạnh, không lú lẫn, không lắm lời, thiên về sự suy nghĩ đến điều lợi ích (cho mình và cho người). |
927. ‘‘Tato pāsādikaṃ āsi, gataṃ bhuttaṃ nisevitaṃ; Siniddhā teladhārāva, ahosi iriyāpatho. |
927. Do vậy sở hành họ,. Thật dễ thương tốt lành, Khi họ đi, họ ăn, Khi họ thọ dụng gì, Cử chỉ uy nghi họ, Như dòng dầu trơn mướt. |
927. Do đó, cách đi, cách ăn, cách xử sự đã tạo ra niềm tin. Uy nghi cử chỉ đã là tương tự như luồng nước dầu trơn tru. |
928. ‘‘Sabbāsavaparikkhīṇā, mahājhāyī mahāhitā; Nibbutā dāni te therā, parittā dāni tādisā. |
928. Mọi lậu hoặc đoạn tận,. Đại thiền, đại thiện lợi, Nay những Trưởng lão ấy, Đã hoàn toàn Niết-bàn, Ngày nay thật ít vị, Giống như các vị ấy, |
928. Giờ đây, các vị trưởng lão có tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, có thiền chứng vĩ đại, có lợi ích lớn lao ấy đã tịch diệt, giờ đây các vị như thế ấy là ít ỏi. |
929. ‘‘Kusalānañca dhammānaṃ, paññāya ca parikkhayā; Sabbākāravarūpetaṃ, lujjate jinasāsanaṃ. |
929. Do thiện pháp, trí tuệ,. Bị hao mòn tiêu diệt, Lời dạy bậc chiến thắng, Tổng hợp mọi tối thượng, Về dự án hình thức, Bị sụp đổ hao mòn. |
929. Do sự cạn kiệt hoàn toàn của các thiện pháp và trí tuệ, Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, được hội đủ mọi biểu hiện cao quý, bị hủy hoại. |
930. ‘‘Pāpakānañca dhammānaṃ, kilesānañca yo utu; Upaṭṭhitā vivekāya, ye ca saddhammasesakā. |
930. Các pháp thuộc tà ác,. Thời đại bị uế nhiễm, Đối với họ những vị, An trú trong viễn ly, Hy vọng được chứng ngộ. Các diệu pháp còn lại. |
930. Đây là giai đoạn của các pháp ác và các ô nhiễm, nhưng các vị nào được tự tại trong việc ẩn cư vẫn thành tựu phần còn lại của Chánh Pháp. |
931. ‘‘Te kilesā pavaḍḍhantā, āvisanti bahuṃ janaṃ; Kīḷanti maññe bālehi, ummattehiva rakkhasā. |
931. Uế nhiễm họ tăng trưởng,. ảnh hưởng xấu nhiều người, Họ hình như chơi giỡn, Với những kẻ ngu si, Như bọn quỷ La-sát, Đùa giỡn với kẻ điên. |
931. Các ô nhiễm ấy, được tăng trưởng, xâm nhập ở nhiều người; tôi nghĩ rằng chúng đùa giỡn với những kẻ ngu si, tựa như các quỷ sứ đùa giỡn với những kẻ bị điên cuồng. |
932. ‘‘Kilesehābhibhūtā te, tena tena vidhāvitā; Narā kilesavatthūsu, sasaṅgāmeva ghosite. |
932. Bị uế nhiễm chinh phục,. Chạy theo nhiễm này nọ, Đối với vật uế nhiễm, Họ như người la to, Những đồ vật lấy được. |
932. Bị chế ngự bởi các ô nhiễm, những kẻ ấy chạy theo đối tượng này đối tượng nọ ở các nền tảng tạo ra sự ô nhiễm, tựa như trong cuộc chiến đấu của bản thân (với Ma Vương) đã được công bố. |
933. ‘‘Pariccajitvā saddhammaṃ, aññamaññehi bhaṇḍare; Diṭṭhigatāni anventā, idaṃ seyyoti maññare. |
933. Từ bỏ chân diệu pháp,. Họ cãi lộn với nhau, Họ chạy theo tà kiến, Họ nghĩ: ‘Đây tốt hơn’. |
933. Sau khi hoàn toàn từ bỏ Chánh Pháp, bọn họ xung đột lẫn nhau. Trong khi theo đuổi các tà kiến, bọn họ nghĩ rằng: ‘Điều này là tốt hơn.’ |
934. ‘‘Dhanañca puttaṃ bhariyañca, chaḍḍayitvāna niggatā; Kaṭacchubhikkhahetūpi, akicchāni nisevare. |
934. Từ bỏ, xoay lưng lại,. Tài sản, con và vợ, Do nhân muổng đồ xin, Họ làm việc không xứng. |
934. Sau khi lìa bỏ tài sản, con trai, và vợ, bọn họ đã ra đi. Vì nguyên nhân một muỗng đồ ăn, bọn họ thực hành các việc không đáng làm. |
935. ‘‘Udarāvadehakaṃ bhutvā, sayantuttānaseyyakā; Kathaṃ vattenti [kathā vaḍḍhenti (sī. ka.)] paṭibuddhā, yā kathā satthugarahitā. |
935. Họ ăn đến đầy bụng,. Họ nằm phơi ra ngủ, Sau khi thức, họ nói, Điều bậc Đạo Sư trách. |
935. Sau khi thọ thực đầy bụng, họ ngủ với tư thế nằm ngửa. Lúc thức dậy, họ khơi lên các cuộc nói chuyện, là các cuộc nói chuyện đã bị bậc Đạo Sư chê trách. |
936. ‘‘Sabbakārukasippāni, cittiṃ katvāna [cittīkatvāna (sī.), cittaṃ katvāna (syā.)] sikkhare; Avūpasantā ajjhattaṃ, sāmaññatthoti acchati [tiriñcati (?)]. |
936. Mọi mỹ nghệ thủ công,. Họ tôn trọng học tập, Nội tâm không an tịnh, Bỏ mặc hạnh Sa-môn. |
936. Họ tôn sùng và học tập tất cả cảc nghề nghiệp thủ công, không an tịnh nội tâm; ‘mục đích của đời sống Sa-môn’ là không có liên quan. |
937. ‘‘Mattikaṃ telacuṇṇañca, udakāsanabhojanaṃ; Gihīnaṃ upanāmenti, ākaṅkhantā bahuttaraṃ. |
937. Đất, dầu, các loại bột,. Nước, chỗ ngồi, cơm ăn, Họ tặng cho cư sĩ, Hy vọng được nhiều hơn. |
937. Họ cho các cư sĩ đất sét, dầu ăn, bột phấn, nước uống, chỗ ngồi, và thức ăn, trong khi mong mỏi (được cho lại) nhiều hơn. |
938. ‘‘Dantaponaṃ kapitthañca, pupphaṃ khādaniyāni ca; Piṇḍapāte ca sampanne, ambe āmalakāni ca. |
938. Cây tăm để xỉa răng,. Loại trái Ka-pit-tha Lá hoa để nhai ăn, Đồ khất thực đầy đủ, Cùng các loại trái xoài, Và trái A-ma-lặc. |
938. (Họ cho) tăm xỉa răng, trái cây kapittha, bông hoa, các loại vật thực cứng, các đồ ăn khất thực đặc biệt, các trái xoài, và các trái cây āmalaka. |
939. ‘‘Bhesajjesu yathā vejjā, kiccākicce yathā gihī; Gaṇikāva vibhūsāyaṃ, issare khattiyā yathā. |
939. Với các loại dược phẩm,. Họ giống như thầy thuốc, Họ làm các công việc, Chẳng khác người thế tục, Họ trang sức y phục, Giống như các kỹ nữ. Họ tự tỏ quyền uy, Chẳng khác người hoàng tộc. |
939. Về các loại thuốc men thì họ giống như những thầy thuốc, về các việc lớn nhỏ thì giống như các cư sĩ, về những đồ trang sức thì tựa như các cô gái điếm, về quyền uy thì giống như các vị Sát-đế-lỵ. |
940. ‘‘Nekatikā vañcanikā, kūṭasakkhī apāṭukā; Bahūhi parikappehi, āmisaṃ paribhuñjare. |
940. Giả dối và lừa đảo,. Ngụy chứng và man trá, Với rất nhiều thủ đoạn, Để thọ hưởng tài vật. |
940. Lường gạt, lừa dối, làm chứng sai trái, buông lung, họ thọ hưởng vật chất bằng nhiều cách thức sắp đặt. |
941. ‘‘Lesakappe pariyāye, parikappenudhāvitā; Jīvikatthā upāyena, saṅkaḍḍhanti bahuṃ dhanaṃ. |
941. Sử dụng cách lường gạt,. Chạy theo những mưu chước, Dùng phương tiện sinh sống, Kéo về nhiều tài sản. |
941. Chạy theo sau các viện cớ, các phương tiện, các cách thức sắp đặt, với mục đích nuôi mạng, bằng mánh lới họ thâu tóm nhiều tài sản. |
942. ‘‘Upaṭṭhāpenti parisaṃ, kammato no ca dhammato; Dhammaṃ paresaṃ desenti, lābhato no ca atthato. |
942. Họ quy tụ hội chúng,. Vì nghề, không vì pháp, Họ thuyết pháp quần chúng, Vì lợi , không vì nghĩa. |
942. Họ thiết lập đồ chúng vì nghề nghiệp không vì Giáo Pháp; họ thuyết giảng Giáo Pháp cho những người khác vì lợi lộc không vì mục đích. |
943. ‘‘Saṅghalābhassa bhaṇḍanti, saṅghato paribāhirā; Paralābhopajīvantā, ahirīkā na lajjare. |
943. Những người ngoài Tăng đoàn,. Lại tranh luận cãi nhau, Về quyền lợi Tăng đoàn, Không tàm quý liêm sỉ, Họ tự mình nuôi sống, Với quyền lợi kẻ khác. |
943. Những kẻ bên ngoài hội chúng cãi cọ về lợi lộc của hội chúng; họ là những kẻ vô liêm sỉ, trong khi đang sống nhờ vào lợi lộc của người khác, lại không biết hổ thẹn. |
944. ‘‘Nānuyuttā tathā eke, muṇḍā saṅghāṭipārutā; Sambhāvanaṃyevicchanti, lābhasakkāramucchitā. |
944. Một số thiếu tín thành,. Dầu đầu trọc đắp y, Mong muốn được kính trọng, Ham quyền lợi danh vọng. |
944. Không được gắn bó (với các pháp Sa-môn) như thế ấy, một số cạo đầu, trùm y hai lớp; bị say đắm bởi lợi lộc và sự tôn vinh, họ mong muốn chỉ mỗi sự cung kính. |
945. ‘‘Evaṃ nānappayātamhi, na dāni sukaraṃ tathā; Aphusitaṃ vā phusituṃ, phusitaṃ vānurakkhituṃ. |
945. Như vậy, như hiện nay,. Nhiều việc đã đọa lạc, Thật không còn dễ dàng, Như thời lúc trước nữa, Hoặc cảm xúc chứng đắc, Điều chưa được xúc chứng, Hoặc gìn giữ duy trì, Điều đã được xúc chứng. |
945. Khi đã phát khởi các sự việc đa dạng như vậy, giờ đây không phải là việc dễ dàng như trước để chứng đắc pháp chưa được chứng đắc, hoặc để duy trì pháp đã được chứng đắc. |
946. ‘‘Yathā kaṇṭakaṭṭhānamhi, careyya anupāhano; Satiṃ upaṭṭhapetvāna, evaṃ gāme munī care. |
946. Như người không mang giày,. Đi trên chỗ có gai, Luôn luôn giữ chánh niệm, Cũng vậy vị ẩn sĩ, Khi đi vào trong làng, Cần gìn giữ chánh niệm. |
946. Giống như người không mang giày bước đi ở khu vực có gai nhọn, tương tự như vậy, bậc hiền trí nên thiết lập niệm rồi mới nên đi lại ở trong làng. |
947. ‘‘Saritvā pubbake yogī, tesaṃ vattamanussaraṃ; Kiñcāpi pacchimo kālo, phuseyya amataṃ padaṃ. |
947. Nhớ vị tu đời trước,. Nhớ nếp sống của họ, Dầu nay thời hậu lai, Vẫn có thể xúc chứng, Con đường đạo bất tử. |
947. Người nhớ đến các hành giả ở thời quá khứ, trong khi tưởng nhớ đến phận sự của các vị ấy, mặc dầu là thời điểm sau cùng, cũng vẫn có thể chạm đến vị thế Bất Tử. |
948. ‘‘Idaṃ vatvā sālavane, samaṇo bhāvitindriyo; Brāhmaṇo parinibbāyī, isi khīṇapunabbhavo’’ti. |
948. Như vậy vị Sa-môn,. Trong rừng cây Sàla, Các căn có tu tập, Nói lên lời như vậy, Phạm chí nhập Niết-bàn, ẩn sĩ đoạn tái sanh. |
948. Sau khi nói điều này ở khu rừng cây sālā, vị Sa-môn có giác quan đã được tu tập, vị Bà-la-môn, bậc ẩn sĩ, với việc tái sanh lần nữa đã được cạn kiệt, đã viên tịch Niết Bàn.” |
… Pārāpariyo [pārāsariyo (syā.)] thero…. Vīsatinipāto niṭṭhito. |
|
Đại đức trưởng lão Pārāsariya đã nói những lời kệ như thế. |
Tatruddānaṃ – |
|
TÓM LƯỢC NHÓM NÀY |
Adhimutto pārāpariyo, telakāni raṭṭhapālo; |
|
“Vị Adhimutta, vị Pārāsariya, vị Telakāni, vị Raṭṭhapāla, vị Māluṅkya, vị Sela, vị Bhaddiya, vị Aṅgulimāla, vị có Thiên nhãn (Anuruddha), vị Pārāsariya, mười vị này đã thuật lại ở nhóm hai mươi. Có hai trăm và thêm vào bốn mươi lăm câu kệ.” |
Mālukyaselo bhaddiyo, aṅguli dibbacakkhuko. |
|
Nhóm Hai Mươi được chấm dứt. |
Pārāpariyo dasete, vīsamhi parikittitā; |
|
|
Gāthāyo dve satā honti, pañcatālīsa [244 gāthāyoyeva dissanti] uttarinti. |
|
|