14. Cuddasakanipāto
Chương XIV – Phẩm Mười Bốn Kệ
14. Nhóm mười bốn
Tipitaka.org Việt dịch: HT. Thích Minh Châu Việt dịch: TK. Indacanda
1. Khadiravaniyarevatattheragāthā (CCXLIV) Revata (Thera. 67) Kệ ngôn của trưởng lão Khadiravaniyarevata.  
  Các bài kệ của vị Trưởng lão này đã được đề cập trong phẩm một các bài kệ trước (XLII). Khi đến già, một hôm ngài đi đến yết kiến đức Phật và trú ở Sàvatthi, trong một ngôi rừng. Cảnh sát đến, đuổi bắt kẻ trộm, kẻ trộm quăng đồ ăn trộm gần ngài rồi bỏ chạy, các cảnh sát chạy đến, thấy đồ ăn trộm, liền bắt ngài dẫn đến vua Pasenadi. Vua truyền thả ngài và hỏi có phải ngài đã lấy trộm đồ? Ngài thuyết pháp nói lên sự kiện ngài không có thể làm một sự việc như vậy và nói những bài kệ như sau:  
645. ‘‘Yadā ahaṃ pabbajito, agārasmānagāriyaṃ; Nābhijānāmi saṅkappaṃ, anariyaṃ dosasaṃhitaṃ. 645. Từ khi xa xuất gia,. Bỏ nhà, sống không nhà, Ta không biết tư duy, Phi thánh, liên hệ sân. 645. “Vào lúc tôi đã xuất gia, rời nhà sống không nhà, tôi không biết đến sự suy tư không thánh thiện, gắn liền với sân hận.
646. ‘‘‘Ime haññantu vajjhantu, dukkhaṃ pappontu pāṇino’; Saṅkappaṃ nābhijānāmi, imasmiṃ dīghamantare. 646. Hay làm hại, sát hại,. Hay làm khổ hữu tình, Ta không biết tư duy, Trong thời gian dài này. 646. ‘Mong sao những sanh mạng này bị giết, bị hành hạ, bị gánh chịu khổ đau,’ tôi không biết đến suy tư (như vậy) trong khoảng thời gian dài này.
647. ‘‘Mettañca abhijānāmi, appamāṇaṃ subhāvitaṃ; Anupubbaṃ paricitaṃ, yathā buddhena desitaṃ. 647. Và ta biết lòng từ,. Vô lượng khéo tu tập, Ta thứ lớp tích lũy, Như lời đức Phật dạy. 647. Và tôi biết về tâm từ vô lượng, đã khéo được tu tập, đã được tích lũy theo thứ lớp, giống như điều đã được thuyết giảng bởi đức Phật.
648. ‘‘Sabbamitto sabbasakho, sabbabhūtānukampako; Mettacittañca [mettaṃ cittaṃ (sī. syā.)] bhāvemi, abyāpajjarato [abyāpajjharato (sī. syā.)] sadā. 648. Là bạn thân tất cả,. Từ mẫn mọi hữu tình, Ta tu tập tâm từ, Luôn vui, không sân hận. 648. Là bạn bè của tất cả, là bằng hữu của tất cả, là người có lòng thương tưởng đối với tất cả chúng sinh, và tôi tu tập về tâm từ, luôn luôn vui thích trong việc không hãm hại.
649. ‘‘Asaṃhīraṃ asaṃkuppaṃ, cittaṃ āmodayāmahaṃ; Brahmavihāraṃ bhāvemi, akāpurisasevitaṃ. 649. Ta thích thú với tâm,. Không động, không dao động, Ta tu tập Phạm trú, Được bậc thiện hành trì. 649. Tôi vui thích với tâm không bị loạn động, không bị lay động, tôi tu tập sự an trú của Phạm Thiên, không được thực hành bởi kẻ thấp thỏi.
650. ‘‘Avitakkaṃ samāpanno, sammāsambuddhasāvako; Ariyena tuṇhībhāvena, upeto hoti tāvade. 650. Ta đạt được vô tầm,. Đệ tử bậc Chánh giác, Với im lặng bậc Thánh, Ta trực diện đạt được. 650. Đã chứng đạt vô tầm (nhị thiền), vị đệ tử của đấng Chánh Đẳng Giác tức thời có được trạng thái im lặng của bậc Thánh.
651. ‘‘Yathāpi pabbato selo, acalo suppatiṭṭhito; Evaṃ mohakkhayā bhikkhu, pabbatova na vedhati. 651. Như núi đá không động,. Đứng vững khéo an trú, Cũng vậy là Tỷ-kheo, Đạt được si mê diệt, Vị ấy như ngọn núi, Không gì làm dao động. 651. Cũng giống như ngọn núi đá, không bị lay động, đã khéo được thiết lập, tương tự như vậy vị tỳ khưu, do sự cạn kiệt của si mê, không rung chuyển tựa như ngọn núi.
652. ‘‘Anaṅgaṇassa posassa, niccaṃ sucigavesino; Vālaggamattaṃ pāpassa, abbhamattaṃva khāyati. 652. Con người không uế nhiễm,. Luôn tìm sự trong sạch, Tội nhẹ như đầu tóc, Xem nặng như mây khói. 652. Đối với người không có (đầu óc) nhơ bẩn, luôn tầm cầu sự tinh khiết, phần nhỏ bằng đầu cọng tóc của sự xấu xa được xem như là kích thước của đám mây.
653. ‘‘Nagaraṃ yathā paccantaṃ, guttaṃ santarabāhiraṃ; Evaṃ gopetha attānaṃ, khaṇo vo mā upaccagā. 653. Như thành trì biên địa,. Phòng hộ cả trong ngoài, Hãy phòng hộ tự ngã, Sát-na không bỏ qua. 653. Giống như thành trì ở biên thùy được canh phòng bên trong lẫn bên ngoài, quý vị hãy gìn giữ bản thân như vậy, chớ để thời khắc của quý vị trôi qua.
654. ‘‘Nābhinandāmi maraṇaṃ, nābhinandāmi jīvitaṃ; Kālañca paṭikaṅkhāmi, nibbisaṃ bhatako yathā. 654. Ta không thích thú chết,. Ta không thích thú sống, Ta chờ thời gian đến, Như thợ làm việc xong. 654. Tôi không vui thích sự chết, tôi không vui thích sự sống, và tôi chờ đợi thời điểm, giống như người làm thuê chờ đợi tiền công.
655. ‘‘Nābhinandāmi maraṇaṃ …pe…  sampajāno patissato. 655. Ta không thích thú chết,. Ta không thích thú sống, Ta chờ thời gian đến, Tỉnh giác, giữ chánh niệm. 655. Tôi không vui thích sự chết, tôi không vui thích sự sống, và tôi chờ đợi thời điểm, có sự nhận biết rõ, có niệm.[18]
656. ‘‘Pariciṇṇo mayā satthā, kataṃ buddhassa sāsanaṃ; Ohito garuko bhāro, bhavanetti samūhatā. 656. Đạo Sư, ta hầu hạ,. Lời Phật dạy làm xong, Gánh nặng, đặt xuống thấp, Gốc sanh hữu, nhổ sạch. 656. Bậc Đạo Sư đã được tôi hầu hạ, lời dạy của đức Phật đã được thực hành, vật mang nặng đã được đặt xuống, lối dẫn đến hiện hữu đã được xóa sạch.
657. ‘‘Yassa catthāya pabbajito, agārasmānagāriyaṃ; So me attho anuppatto, sabbasaṃyojanakkhayo. 657. Vì đích gì xuất gia,. Bỏ nhà, sống không nhà, Mục đích ấy, ta đạt, Mọi kiết sử diệt tận. 657. Vì mục đích nào mà tôi đã xuất gia, rời nhà sống không nhà, mục đích ấy của tôi, sự cạn kiệt tất cả các điều trói buộc, đã được thành tựu.[19]
658. ‘‘Sampādethappamādena, esā me anusāsanī; Handāhaṃ parinibbissaṃ, vippamuttomhi sabbadhī’’ti. 658. Nỗ lực, chớ phóng dật,. Đấy lời ta giáo giới, Ta sẽ nhập Niết-bàn, Ta thoát mọi sanh y. 658. Quý vị hãy nỗ lực với sự không xao lãng, điều này là lời chỉ dạy của tôi. Tốt lắm, tôi sẽ viên tịch Niết Bàn, tôi đã được giải thoát về mọi mặt.”
… Khadiravaniyarevato thero….   Đại đức trưởng lão Khadiravaniya Revata đã nói những lời kệ như thế.
2. Godattattheragāthā (CCXLV) Godatta (Thera. 67) Kệ ngôn của trưởng lão Godatta.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình lữ hành và đặt tên là Godatta. Sau khi cha chết, ngài sắp đặt nhà cửa, đem theo năm trăm cỗ xe hàng hóa, đi chỗ này chỗ khác, sống bằng nghề buôn bán. Một hôm, một con bò ngã qụy xuống đường, trong khi kéo xe, và các người làm công của ngài không thể đỡ con bò đứng dậy được, ngài tự đi đến đánh con bò rất nặng. Con bò tức giận vì sự tàn bạo của ngài nói lên giọng người: ‘Này Godatta, đã lâu ta đem tất cả sức lực ta kéo gánh nặng cho ông, nhưng nay ta không đủ sức kéo nên phải ngã quỵ xuống, ông đánh đập ta tàn nhẫn. Vậy chỗ nào ông tái sanh, ta cũng sẽ sanh làm kẻ thù của ông để làm hại ông!’. Ngài nghe vậy rất lấy làm xúc động, tự nghĩ: ‘Sao lại sống làm hại các loài hữu tình như vậy?’ Rồi ngài từ bỏ tất cả tài sản, xin xuất gia với một vị Trưởng lão, và sau một thời gian chứng quả A-la-hán.  
  Một hôm, khi ngài đang hưởng thọ sự an lạc giải thoát, ngài thuyết pháp cho chúng xuất gia và tại gia về các pháp thế gian:  
659. ‘‘Yathāpi bhaddo ājañño, dhure yutto dhurassaho [dhurāsaho (aṭṭha.)]; Mathito atibhārena, saṃyugaṃ nātivattati. 659. Như con bò giống tốt,. Được huấn luyện tốt đẹp, Bị cột vào gánh nặng, Mang gánh nặng kéo đi, Bị áp đè quá nặng, Không lật đổ gánh nặng. 659. “Cũng giống như con bò kéo thuần chủng, hiền thiện, được máng vào ách, chịu đựng cái ách, bị đè xuống bởi gánh nặng quá mức, không vượt khỏi việc quàng vào ách.
660. ‘‘Evaṃ paññāya ye tittā, samuddo vārinā yathā; Na pare atimaññanti, ariyadhammova pāṇinaṃ. 660. Cũng vậy, ai nhiều tuệ,. Như nước ở trong biển, Không khinh miệt người khác, Thánh pháp là như vậy, Đối với các hữu tình. 660. Tương tự như vậy, những người nào được hài lòng về trí tuệ, giống như biển cả được hài lòng với nước, không khinh chê những người khác; chính là pháp của các bậc Thánh đối với chúng sinh.
661. ‘‘Kāle kālavasaṃ pattā, bhavābhavavasaṃ gatā; Narā dukkhaṃ nigacchanti, tedha socanti māṇavā [mānavā (sī.)]. 661. Sống trong vòng thời gian,. Bị thời gian hàng phục, Hữu, phi hữu chi phối, Loài Người chịu đau khổ, Con cháu họ sầu ưu, Chính ngay trong đời này. 661. Đã đi vào sự tác động của thời gian theo từng thời điểm, đã đi theo sự tác động của hữu và phi hữu, con người lâm cảnh khổ đau; ở đây những thanh niên ấy sầu muộn.
662. ‘‘Unnatā sukhadhammena, dukkhadhammena conatā; Dvayena bālā haññanti, yathābhūtaṃ adassino. 662. Hân hoan, khi được lạc,. Gặp khổ lại chán chường, Kẻ ngu bị não hại, Chi phối cả hai đường, Không thấy được như thật. 662. Bị khích động bởi pháp hạnh phúc, bị ủ dột vì pháp khổ đau, những kẻ ngu bị tổn thương theo cả hai cách, không có sự nhìn thấy đúng theo bản thể.
663. ‘‘Ye ca dukkhe sukhasmiñca, majjhe sibbinimaccagū; Ṭhitā te indakhīlova, na te unnataonatā. 663. Những ai giữa khổ lạc,. Người dệt không chi phối, Đứng vững như cột cửa, Không hân hoan chán chường 663. Và những người nào, ở giữa khổ đau và hạnh phúc, đã khắc phục được cô thợ dệt (tham ái), những người ấy đứng yên tựa như cái ngạch cửa, họ không bị khích động hay bị ủ dột.
664. ‘‘Na heva lābhe nālābhe, na yase na ca kittiyā; Na nindāyaṃ pasaṃsāya, na te dukkhe sukhamhi. 664. Đối với được hay mất,. Với danh với không danh, Đối với chê hay khen, Với khổ hay với lạc. 664. Những người ấy, không vì có lợi lộc, không vì mất lợi lộc, không vì mất danh vọng hay vì tiếng tăm, không vì tiếng chê hay vì lời khen, không vì khổ đau hay vì hạnh phúc, …
665. ‘‘Sabbattha te na limpanti, udabinduva pokkhare; Sabbattha sukhitā dhīrā, sabbattha aparājitā. 665. Chúng tôi dính chỗ nào,. Như giọt nước trên sen, Bậc anh hùng mọi chỗ, Được lạc, không bị bại. 665. … trong mọi trường hợp, những người ấy không bị ô nhiễm, tựa như giọt nước ở lá sen. Những bậc sáng trí được an lạc ở mọi nơi, không bị đánh bại ở mọi nơi.
666. ‘‘Dhammena ca alābho yo, yo ca lābho adhammiko; Alābho dhammiko seyyo, yaṃ ce lābho adhammiko. 666. Người đúng pháp không được,. Người được, không đúng pháp, Đúng pháp nhưng không được, Hơn được không đúng pháp. 666. Với lẽ phải mà không có lợi lộc, và việc có lợi lộc liên quan đến sự sai trái, thì việc mất lợi lộc liên quan đến lẽ phải là tốt hơn nếu việc có lợi lộc liên quan đến sự sai trái.
667. ‘‘Yaso ca appabuddhīnaṃ, viññūnaṃ ayaso ca yo; Ayasova seyyo viññūnaṃ, na yaso appabuddhinaṃ. 667. Người có danh, ít trí. Người có trí, không danh, Không danh nhưng có trí, Hơn ít trí, có danh. 667. Danh vọng cho những người ít trí tuệ, và không danh vọng cho những người hiểu biết, không danh vọng cho những người hiểu biết đương nhiên là tốt hơn, không phải là danh vọng cho những người ít trí tuệ.
668. ‘‘Dummedhehi pasaṃsā ca, viññūhi garahā ca yā; Garahāva seyyo viññūhi, yaṃ ce bālappasaṃsanā. 668. Được khen bởi kẻ ngu,. Bị chê bởi kẻ trí, Được kẻ trí chê bai, Hơn được người ngu khen. 668. Sự khen ngợi bởi những kẻ thiếu trí tuệ, và sự chê trách bởi những người hiểu biết, sự chê trách bởi những người hiểu biết đương nhiên là tốt hơn sự khen ngợi bởi những kẻ ngu.
669. ‘‘Sukhañca kāmamayikaṃ, dukkhañca pavivekiyaṃ; Pavivekadukkhaṃ seyyo, yaṃ ce kāmamayaṃ sukhaṃ. 669. Lạc do dục đem lại,. Khổ do viễn ly sanh, Khổ do viễn ly sanh Hơn lạc do dục sanh. 669. Lạc được tạo ra do (ngũ) dục, và khổ liên quan đến việc tách ly, khổ do tách ly là tốt hơn là lạc được tạo ra bởi dục.
670. ‘‘Jīvitañca adhammena, dhammena maraṇañca yaṃ; Maraṇaṃ dhammikaṃ seyyo, yaṃ ce jīve adhammikaṃ. 670. Làm phi pháp để sống,. Làm đúng pháp, có chết, Làm đúng pháp, có chết, Hơn sống, làm phi pháp. 670. Mạng sống với sự sai trái, và cái chết bởi vì lẽ phải, cái chết liên quan đến lẽ phải là tốt hơn nếu sống liên quan đến sự sai trái.
671. ‘‘Kāmakopappahīnā ye, santacittā bhavābhave; Caranti loke asitā, natthi tesaṃ piyāpiyaṃ. 671. Ai đoạn dục phẫn nộ,. Tâm tịnh hữu, phi hữu Sống ở đời, không ái, Không thương yêu ghét bỏ. 671. Những người nào đã dứt bỏ các dục và sự giận dữ, có tâm an tịnh ở các cõi khác nhau, sống ở thế gian không bị vướng bận, đối với những người ấy không có thương hay ghét.
672. ‘‘Bhāvayitvāna bojjhaṅge, indriyāni balāni ca; Pappuyya paramaṃ santiṃ, parinibbantināsavā’’ti. 672. Sau khi tu Giác chi,. Các căn và các lực, Đạt tịch tịnh tối thắng, Chứng Niết-bàn vô lậu. 672. Sau khi tu tập các chi phần đưa đến giác ngộ, các quyền, và các lực, sau khi đạt được sự an tịnh tuyệt đối, những vị ấy Niết Bàn, không còn lậu hoặc.”
…  Godatto thero…. Cuddasakanipāto niṭṭhito.   Đại đức trưởng lão Godatta đã nói những lời kệ như thế.
Tatruddānaṃ –   TÓM LƯỢC NHÓM NÀY
Revato ceva godatto, therā dve te mahiddhikā;   “Hai vị trưởng lão Revata và luôn cả Godatta ấy có đại thần lực, ở nhóm mười bốn có hai mươi tám câu kệ.”
Cuddasamhi nipātamhi, gāthāyo aṭṭhavīsatīti.   Nhóm Mười Bốn được chấm dứt.