Tipitaka.org |
Việt dịch: HT. Thích Minh Châu |
Việt dịch: TK. Indacanda |
1. Soṇakoḷivisattheragāthā |
(CCXLIII) Sona-Kolivisa (Thera. 65) |
Kệ ngôn của trưởng lão Soṇa. |
|
Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh tại Campà, trong gia đình một hội viên của Hội đồng thành phố nổi tiếng. Từ khi ngài sắp được sanh, tài sản lớn của phụ thân được tăng trưởng, và khi ngài được sanh, cả thành phố tổ chức hội lễ lớn. Vì ngài bố thí cúng dường cho một vị Độc giác Phật trong đời trước, nên đời này ngài có một thân hình như bằng vàng mịn và đặc biệt mềm mại, và ngài được gọi là Sona (vàng). Dưới chân và trên bàn tay của ngài có lông mịn màu vàng mọc lên, và ngài được nuôi dưỡng trong giàu sang xa hoa, có đến ba tòa lâu đài thích hợp cho từng mùa. |
|
|
Khi bậc Đạo Sư giác ngộ và chuyển bánh xe Pháp ở Ràjagaha (Vương Xá). Vua Bimbisàra cho mời Sona đến, ngài đến với một số đông tùy tùng, nghe bậc Đạo Sư thuyết pháp, khởi lòng tin và được phép cha mẹ cho xuất gia. Ngài nhận từ bậc Đạo Sư một đề tài tu tập, nhưng không thể định tâm vì có liên lạc với đông người khi sống ở trong rừng. Ngài nghĩ rằng thân ngài quá được cung dưỡng để đạt được hạnh phúc, và đời sống ẩn sĩ làm thân mệt mỏi, ngài vượt lên trên những đau đớn vì chân ngài bị sưng khi ngài tập đi kinh hành, nhưng dầu ngài hết sức tinh tấn, ngài chưa thành đạt được quả chứng. Ngài nghĩ: ‘Ta không thể thành đạt con đường và quả vị thì sống xuất gia để làm gì? Tốt hơn ta hoàn tục và làm các công đức!’. Thế Tôn biết được tâm tư ngài, dạy cho ngài bài học của cây đàn, phải làm lắng dịu nhiệt lực với tu tập tịnh chỉ. Được chỉ dạy, ngài đi đến núi Linh Thứu và sau một thời gian, ngài chứng quả A-la-hán. Suy nghĩ trên thành tựu của mình, ngài tuyên bố chánh trí ngài như sau: |
|
632. ‘‘Yāhu raṭṭhe samukkaṭṭho, rañño aṅgassa paddhagū [patthagū (syā.), paṭṭhagū (ka.)]; Svājja dhammesu ukkaṭṭho, soṇo dukkhassa pāragū. |
632. Người xưa, cao trong nước,. Phục vụ vua Ăng-ga, Nay lại cao trong pháp, So-na vượt đau khổ. |
632. “Vị nào đã được nổi bật ở vương quốc, đã là người hầu cận của đức vua Aṅga, vị ấy hôm nay là nổi bật về các pháp (siêu thế), Soṇa là người đã đi đến bờ kia của khổ đau. |
633. ‘‘Pañca chinde pañca jahe, pañca cuttari bhāvaye; Pañcasaṅgātigo bhikkhu, oghatiṇṇoti vuccati. |
633. Năm được cắt, năm bỏ,. Năm thượng pháp tu tập, Tỷ-kheo vượt năm gút, Được gọi vượt bộc lưu. |
633. Nên cắt đứt năm, nên từ bỏ năm, và nên tu tập vượt bực về năm. Vị tỳ khưu đã vượt qua khỏi năm sự bám víu được gọi là ‘đã vượt qua cơn lũ.’[17] |
634. ‘‘Unnaḷassa pamattassa, bāhirāsassa [bāhirāsayassa (ka.)] bhikkhuno; Sīlaṃ samādhi paññā ca, pāripūriṃ na gacchati. |
634. Tỷ-kheo tánh kiêu ngoa,. Phóng dật, ưa vị ngoài, Giới, thiền định, trí tuệ, Không đi đến viên mãn. |
634. Đối với vị tỳ khưu kiêu ngạo, xao lãng, hướng ngoại, giới, định, và tuệ của vị ấy không đi đến sự tròn đủ. |
635. ‘‘Yañhi kiccaṃ apaviddhaṃ [tadapaviddhaṃ (sī. syā.)], akiccaṃ pana karīyati; Unnaḷānaṃ pamattānaṃ, tesaṃ vaḍḍhanti āsavā. |
635. Việc phải làm, quăng bỏ,. Không phải việc, lại làm, Kẻ kiêu ngoa phóng dật, Lậu hoặc được tăng trưởng. |
635. Bởi vì việc cần làm đã bị bỏ bê, trái lại việc không cần làm được thực hiện. Đối với những kẻ kiêu ngạo, xao lãng, các lậu hoặc của những kẻ ấy tăng trưởng. |
636. ‘‘Yesañca susamāraddhā, niccaṃ kāyagatā sati; Akiccaṃ te na sevanti, kicce sātaccakārino; Satānaṃ sampajānānaṃ, atthaṃ gacchanti āsavā. |
636. Những ai khéo tinh cần,. Thường tu tập niệm thân, Không phải việc, không làm, Kiên trì việc nên làm. Bậc chánh niệm tỉnh giác, Lậu hoăc đi đến diệt. |
636. Và đối với những vị nào, niệm đặt ở thân khéo được tiến hành thường xuyên, những vị ấy không thực hành việc không cần làm, có sự kiên trì thực hiện các việc cần làm. Đối với những vị có niệm, có sự nhận biết rõ rệt, các lậu hoặc của những vị ấy đi đến sự chấm dứt. |
637. ‘‘Ujumaggamhi akkhāte, gacchatha mā nivattatha; Attanā codayattānaṃ, nibbānamabhihāraye. |
637. Trên đường thẳng được thuyết,. Hãy bước, chớ quanh co, Hãy tự mình trách mình, Hãy đem Niết-bàn lại, |
637. Các ngươi hãy bước đi ở con đường thẳng tắp đã được chỉ dạy, chớ quay trở lại. Nên tự mình quở trách chính mình, nên đón rước Niết Bàn. |
638. ‘‘Accāraddhamhi vīriyamhi, satthā loke anuttaro; Vīṇopamaṃ karitvā me, dhammaṃ desesi cakkhumā; Tassāhaṃ vacanaṃ sutvā, vihāsiṃ sāsane rato. |
638. Khi tinh cần nỗ lực,. Căng thẳng, vượt mức độ, Thế gian, Vô Thượng Sư, Dùng ví dụ chiếc đàn, Bậc pháp nhãn, có mắt, Ngài thuyết pháp cho ta. |
638. Về sự tinh tấn đã được khởi sự quá mức (của tôi), bậc Đạo Sư, đấng Vô Thượng ở thế gian, bậc Hữu Nhãn, sau khi làm ví dụ về cây đàn vīṇā, đã thuyết giảng Giáo Pháp. |
639. ‘‘Samathaṃ paṭipādesiṃ, uttamatthassa pattiyā; Tisso vijjā anuppattā, kataṃ buddhassa sāsanaṃ. |
639. Ta nghe lời Ngài giảng,. Lạc trú lời giảng dạy, Bình tĩnh, ta thực hành, Để đạt đích tối thượng, Ba minh ta đạt được, Lời Phật dạy làm xong. |
639. Sau khi lắng nghe lời nói của Ngài, được thích thú ở lời giáo huấn, tôi đã an trú. Tôi đã thực hành về chỉ tịnh nhằm đạt đến mục đích tối thượng. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành. |
640. ‘‘Nekkhamme [nikkhame (ka.), nekkhammaṃ (mahāva. 244; a. ni. 6.55)] adhimuttassa, pavivekañca cetaso; Abyāpajjhādhimuttassa [abyāpajjhādhimhattassa (ka.)], upādānakkhayassa ca. |
640. Ai chuyên nhất xuất ly,. Tâm tư hướng viễn ly, Ai chuyên nhất vô sân, Diệt trừ các chấp thủ. |
640. Đối với người đã thiên về sự xuất ly và có tâm ý về việc tách ly, đối với người đã thiên về không hãm hại và có sự cạn kiệt của các chấp thủ, … |
641. ‘‘Taṇhakkhayādhimuttassa, asammohañca cetaso; Disvā āyatanuppādaṃ, sammā cittaṃ vimuccati. |
641. Ai chuyên nhất ái diệt,. Tâm tư không si mê, Thấy sanh khởi các xứ, Tâm được khéo giải thoát. |
641. … đối với người đã thiên về sự cạn kiệt của tham ái và có tâm ý về sự không si mê, sau khi nhìn thấy sự sanh lên của các xứ, tâm (của người ấy) được giải thoát một cách đúng đắn. |
642. ‘‘Tassa sammā vimuttassa, santacittassa bhikkhuno; Katassa paṭicayo natthi, karaṇīyaṃ na vijjati. |
642. Vị Tỷ-kheo tâm tịnh,. Được giải thoát chơn chánh, Không chất chứa việc làm, Điều phải làm không có. |
642. Đối với vị tỳ khưu, có tâm an tịnh, đã được giải thoát một cách đúng đắn ấy, không có sự tích lũy đối với việc đã làm, việc cần phải làm không có. |
643. ‘‘Selo yathā ekaghano [ekaghano (ka.)], vātena na samīrati; Evaṃ rūpā rasā saddā, gandhā phassā ca kevalā. |
643. Như một hòn đá tảng,. Không bị gió lay động, Cũng vậy toàn bộ phận, Sắc, vị, thanh, hương, xúc. |
643. Giống như tảng đá cứng rắn không bị lay chuyển bởi gió, tương tự như thế toàn bộ các sắc, các vị, các thinh, các hương, các xúc, … |
644. ‘‘Iṭṭhā dhammā aniṭṭhā ca, nappavedhenti tādino; Ṭhitaṃ cittaṃ visaññuttaṃ, vayañcassānupassatī’’ti. |
644. Pháp ái bất khả ái,. Không động, người như vậy, Tâm trú, không hệ lụy, Tùy quán, sự hoại diệt. |
644. … các đối tượng của tâm, được mong muốn và không được mong muốn, không làm xao động tâm vững chắc không bị ràng buộc của vị như thế ấy, và (vị ấy) theo dõi sự diệt của điều này.” |
…Soṇo koḷiviso thero…. Terasanipāto niṭṭhito. |
|
Đại đức trưởng lão Soṇa Koḷivisa đã nói những lời kệ như thế. |
Tatruddānaṃ – |
|
TÓM LƯỢC NHÓM NÀY |
Soṇo koḷiviso thero, ekoyeva mahiddhiko; |
|
“Trưởng lão Soṇa Koḷivisa, chỉ một vị, có đại thần lực, và trường hợp này có mười ba câu kệ ở nhóm mười ba.” |
Terasamhi nipātamhi, gāthāyo cettha terasāti. |
|
Nhóm Mười Ba được chấm dứt. |