12. Dvādasakanipāto
Chương XII – Phẩm Mười Hai Kệ
12. Nhóm mười hai
Tipitaka.org Việt dịch: HT. Thích Minh Châu Việt dịch: TK. Indacanda
1. Sīlavattheragāthā (CCXLI) Sìlavat (Thera. 63) Kệ ngôn của trưởng lão Sīlava.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con của vua Bimbisàra (Tần-bà-ta-la), và được đặt tên là Sìlavat. Khi đến tuổi trưởng thành, anh ngài là Ajàtasattu làm vua, muốn giết ngài, nhưng không giết được, vì ngài sống đời sống cuối cùng và chưa chứng quả A-la-hán. Rồi Thế Tôn, biết sự việc đã xảy ra bảo Mahà Maggallàna đi mời ngài đến. Hoàng tử Sìlavat xuống voi, thích nghi giáo lý với tâm tánh của ngài, ngài khởi lòng tin, xuất gia, và sau một thời gian, chứng quả A-la-hán. Rồi ngài ở Kosala, và khi Ajàtasattu sai những người đến giết ngài, ngài dạy cho những người ấy, hóa độ và những người ấy xuất gia học đạo. Và ngài giảng cho họ như sau:  
608. ‘‘Sīlamevidha sikkhetha, asmiṃ loke susikkhitaṃ; Sīlaṃ hi sabbasampattiṃ, upanāmeti sevitaṃ. 608. Ở đây hãy học giới,. Khéo học tập ở đời, Giới thành đạt toàn diện, Đưa đến mọi thành công. 608. “Ở đây, nên học tập chủ yếu về giới, bởi vì ở thế gian này, giới đã được học tập kỹ lưỡng, đã được thực hành, đem lại mọi sự thành tựu.
609. ‘‘Sīlaṃ rakkheyya medhāvī, patthayāno tayo sukhe; Pasaṃsaṃ vittilābhañca, pecca sagge pamodanaṃ [pecca sagge ca modanaṃ (sī. pī.)]. 609. Bậc trí hãy hộ giới,. Nếu kỳ vọng ba lạc, Được danh xưng tài sản, Sau chết, hưởng thiên lạc. 609. Bậc thông minh nên hộ trì giới trong khi ước nguyện ba điều hạnh phúc: sự khen ngợi, sự đạt được tài sản, và sự vui sướng ở cõi trời sau khi chết.
610. ‘‘Sīlavā hi bahū mitte, saññamenādhigacchati; Dussīlo pana mittehi, dhaṃsate pāpamācaraṃ. 610. Người trì giới, tự chế,. Được nhiều người bạn tốt, Kẻ ác giới, hành ác, Mất mát các bạn bè. 610. Bởi vì người có giới đạt được nhiều bạn bè do sự tự kiềm chế; trái lại người có giới tồi, trong khi làm điều xấu xa, bị các bạn bè xa lánh.
611. ‘‘Avaṇṇañca akittiñca, dussīlo labhate naro; Vaṇṇaṃ kittiṃ pasaṃsañca, sadā labhati sīlavā. 611. Người ác giới chỉ được,. Ác danh, không tài sản, Bậc trì giới luôn được Khen danh xưng, tán thán. 611. Người có giới tồi nhận chịu sự mất thể diện và tiếng xấu, còn người có giới luôn luôn đạt được thể diện, danh thơm, và sự khen ngợi.
612. ‘‘Ādi sīlaṃ patiṭṭhā ca, kalyāṇānañca mātukaṃ; Pamukhaṃ sabbadhammānaṃ, tasmā sīlaṃ visodhaye. 612. Khởi đầu, an trú giới,. Giới là mẹ thiện pháp, Giới đứng đầu mọi pháp, Vậy hãy trong sạch giới. 612. Giới là gốc, là điểm tựa, và là nguồn sanh ra các điều tốt đẹp, đứng đầu tất cả các pháp; vì thế nên làm cho giới được trong sạch.
613. ‘‘Velā ca saṃvaraṃ sīlaṃ [saṃvaro sīlaṃ (sī.), saṃvarasīlaṃ (sī. aṭṭha.)], cittassa abhihāsanaṃ; Titthañca sabbabuddhānaṃ, tasmā sīlaṃ visodhaye. 613. Giới hạn chế, phòng ngự,. Làm sáng chói tâm tư, Là đầu bến chư Phật, Vậy hãy trong sạch giới 613. Giới là sự ngăn chặn, sự thu thúc, sự hứng khởi của tâm, và là điểm khởi đầu của tất cả chư Phật; vì thế nên làm cho giới được trong sạch.
614. ‘‘Sīlaṃ balaṃ appaṭimaṃ, sīlaṃ āvudhamuttamaṃ; Sīlamābharaṇaṃ seṭṭhaṃ, sīlaṃ kavacamabbhutaṃ. 614. Giới sức mạnh vô song,. Giới, binh khí tối thượng, Giới, trang sức đệ nhất, Giới áo giáp hy hữu. 614. Giới là sức mạnh không thể sánh bằng, giới là vũ khí tối thượng, giới là vật trang sức hạng nhất, giới là tấm áo giáp phi thường.
615. ‘‘Sīlaṃ setu mahesakkho, sīlaṃ gandho anuttaro; Sīlaṃ vilepanaṃ seṭṭhaṃ, yena vāti disodisaṃ. 615. Giới, đầu cầu cường dại,. Giới, hương thơm vô thượng, Giới, hương thoa đệ nhất, Nhờ giới, bay bốn phương. 615. Giới là cây cầu có năng lực vĩ đại, giới là hương thơm vô thượng, giới là vật thoa hạng nhất, nhờ vào giới mà thổi khắp các phương.
616. ‘‘Sīlaṃ sambalamevaggaṃ, sīlaṃ pātheyyamuttamaṃ; Sīlaṃ seṭṭho ativāho, yena yāti disodisaṃ. 616. Giới, tư lương cao nhất,. Giới, hành trang tối thượng, Giới vận tải, đệ nhất, Nhờ giới, đi bốn phương. 616. Giới quả là vật dự phòng cao cả, giới là hành trang tối thượng, giới là vật chuyên chở hạng nhất, nhờ vào giới mà đi khắp các phương.
617. ‘‘Idheva nindaṃ labhati, peccāpāye ca dummano; Sabbattha dummano bālo, sīlesu asamāhito. 617. Đây, kẻ xấu bị trách,. Sau chết sanh đọa xứ, Kẻ ngu không định giới, Ưu tư khắp các chỗ. 617. Kẻ ngu si, không chuyên chú ở các giới, nhận chịu sự quở trách ngay ở đời này và bị rầu rĩ ở đọa xứ sau khi chết, bị rầu rĩ ở khắp mọi nơi.
618. ‘‘Idheva kittiṃ labhati, pecca sagge ca summano; Sabbattha sumano dhīro, sīlesu susamāhito. 618. Đây bậc tốt được khen,. Sau chết sanh thoát giải, Kẻ trí khéo định giới, Hân hoan, khắp các chỗ. 618. Người sáng trí, khéo chuyên chú vào các giới, nhận lãnh danh thơm ngay ở đời này và được tươi vui ở cõi trời sau khi chết, được tươi vui ở khắp mọi nơi.
619. ‘‘Sīlameva idha aggaṃ, paññavā pana uttamo; Manussesu ca devesu, sīlapaññāṇato jaya’’nti. 619. Ở đây, giới tối cao,. Nhưng trí tuệ, tối thượng, Giữa loài Người, loài Trời, Bậc giới tuệ thắng lợi. 619. Ở đây chỉ có giới là cao cả, tuy nhiên người có trí tuệ là tối thượng, ở giữa loài người và chư Thiên sự chiến thắng là nhờ vào giới và trí tuệ.”
…  Sīlavo thero….   Đại đức trưởng lão Sīlava đã nói những lời kệ như thế.
2. Sunītattheragāthā (CCXLII) Sunìta (Thera. 63) Kệ ngôn của trưởng lão Sunīta.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình đổ rác, và sống với nghề đi quét đường, không đủ tiền để sống khỏi đói. Trong canh một Thế Tôn khởi lòng từ mẫn nhìn khắp thế giới và thấy trong tâm của Sunìta, có đủ điều kiện để chứng quả A-la-hán, chói sáng như ngọn đèn trong cái ghè. Khi trời đã mới sáng, Thế Tôn dậy, đắp y cầm y bát, với một số Tỷ-kheo tùy tùng, đi đến Vương Xá để khất thực và tìm đến con đường Sunìta đang quét dọn. Sunìta đang quét các đống rác gom lại từng đống, đổ vào thúng rồi gánh mang đi. Khi ngài thấy bậc Đạo Sư đi đến với đoàn tùy tùng, ngài cảm thấy hoan hỷ xúc động không tìm được chỗ để ẩn núp, ngài đứng sát như mắc dính vào vách tường và chấp tay vái chào. Khi đức Bổn Sư đến gần, đức Phật với lời rất dịu ngọt hỏi ngài sao cam phận sống đời sống khổ sở như vậy, và có thể xuất gia được không? Ngài hoan hỷ chấp nhận và được đức Phật độ cho xuất gia với câu: ‘Hãy đến này các Tỷ-kheo!’. Bậc Đạo Sư đưa ngài về tịnh xá, dạy cho ngài một phương pháp thiền quán. Ngài chứng được tám thiền chứng và năm thắng trí. Phát triển thiền quán, ngài chứng được thắng trí thứ sáu. Rồi Sakka và các Phạm thiên đến đảnh lễ ngài đã được ghi như sau:  
  Rồi bảy trăm chư Thiên,  
  Huy hoàng đi đến gần,  
  Tùy tùng đấng Phạm Thiên,  
  Và Thiên chủ Đế Thích,  
  Họ sung sướng đảnh lễ,  
  Trưởng lão Sunìta,  
  Bậc chiến thắng cao sang,  
  Vượt qua già và chết!  
  Thế Tôn thấy ngài được chư Thiên đoanh vây, Thế Tôn mỉm cười và khen ngài, thuyết giảng cho ngài với câu kệ: ‘Với giới sống Phạm hạnh’ (kệ số 631). Rồi nhiều Tỷ-kheo, muốn rống tiếng con sư tử hỏi ngài sanh ra từ gia đình nào, vì sao lại xuất gia, làm thế nào để chứng quả, ngài trả lời cho họ với những bài kệ như sau:  
620. ‘‘Nīce kulamhi jātohaṃ, daliddo appabhojano; Hīnakammaṃ [hīnaṃ kammaṃ (syā.)] mamaṃ āsi, ahosiṃ pupphachaḍḍako. 620. Ta sanh nhà hạ tiện,. Nghèo khổ không đủ ăn, Nghề ta rất hèn hạ, Ta kẻ quét hoa rơi. 620. “Bị sanh ra ở gia đình thấp kém, tôi là nghèo khó, có ít thức ăn, nghề nghiệp của tôi đã là hạ tiện, tôi đã là người đổ rác hoa.
621. ‘‘Jigucchito manussānaṃ, paribhūto ca vambhito; Nīcaṃ manaṃ karitvāna, vandissaṃ bahukaṃ janaṃ. 621. Ta bị người nhàm chán,. Miệt thị và khinh bỉ, Hạ mình xuống thật thấp, Ta kính lễ quần chúng. 621. Đối với mọi người, tôi bị nhờm gớm, bị xem thường, và bị khinh miệt. Sau khi làm cho tâm hạ thấp xuống, tôi đã lễ bái nhiều người.
622. ‘‘Athaddasāsiṃ sambuddhaṃ, bhikkhusaṅghapurakkhataṃ; Pavisantaṃ mahāvīraṃ, magadhānaṃ puruttamaṃ. 622. Rồi ta thấy đức Phật,. Thượng thủ chúng Tỷ-kheo, Bậc Đại Hùng vào thành, Magadha tối thượng. 622. Rồi tôi đã nhìn thấy đấng Toàn Giác, bậc Đại Hùng, dẫn đầu hội chúng tỳ khưu, đang đi vào thành phố tối thượng Magadha.
623. ‘‘Nikkhipitvāna byābhaṅgiṃ, vandituṃ upasaṅkamiṃ; Mameva anukampāya, aṭṭhāsi purisuttamo. 623. Ta quăng bỏ đòn gánh,. Đến gần để đảnh lễ, Với lòng thương xót ta, Bậc Thượng nhân đứng lại. 623. Sau khi đặt đòn gánh xuống, tôi đã đến gần để lễ bái. Vì lòng thương tưởng đến chính tôi, bậc Tối Thượng Nhân đã đứng lại.
624. ‘‘Vanditvā satthuno pāde, ekamantaṃ ṭhito tadā; Pabbajjaṃ ahamāyāciṃ, sabbasattānamuttamaṃ. 624. Lễ chân Đạo Sư xong,. Ta đứng liền một bên, Ta xin được xuất gia, Bậc tối thượng mọi loài. 624. Khi ấy, sau khi đảnh lễ hai bàn chân của bậc Đạo Sư, tôi đã đứng một bên. Tôi đã cầu xin bậc Tối Thượng của tất cả chúng sanh về việc xuất gia.
625. ‘‘Tato kāruṇiko satthā, sabbalokānukampako; ‘Ehi bhikkhū’ti maṃ āha, sā me āsūpasampadā. 625. Bậc Đạo Sư từ bi,. Từ mẫn khắp thế giới, Nói: ‘Hãy đến Tỷ-kheo’, Đại giới, ta thọ vậy. 625. Sau đó, đấng Bi Mẫn, bậc Đạo Sư, đấng Thương Tưởng tất cả thế gian, đã nói với tôi rằng: ‘Này tỳ khưu, hãy đến;’ việc ấy đã là sự tu lên bậc trên của tôi.
626. ‘‘Sohaṃ eko araññasmiṃ, viharanto atandito; Akāsiṃ satthuvacanaṃ, yathā maṃ ovadī jino. 626. Rồi ta sống trong rừng,. Một mình không biếng nhác, Ta theo lời Đạo Sư, Như bậc chiến thắng dạy. 626. Tôi đây, một mình, trong khi sống ở trong rừng, không biếng nhác, đã thực hành lời dạy của bậc Đạo Sư, giống như đấng Chiến Thắng đã giáo huấn tôi.
627. ‘‘Rattiyā paṭhamaṃ yāmaṃ, pubbajātimanussariṃ; Rattiyā majjhimaṃ yāmaṃ, dibbacakkhuṃ visodhayiṃ [dibbacakkhu visodhitaṃ (ka.)]; Rattiyā pacchime yāme, tamokhandhaṃ padālayiṃ. 627. Trong đêm canh thứ nhất,. Ta nhớ các đời trước, Trong đêm canh chặng giữa, Thiên nhãn ta thanh tịnh, Trong đêm canh cuối cùng, Ta phá khối si ám. 627. Vào canh thứ nhất của đêm, tôi đã nhớ lại đời sống trước đây. Vào canh giữa của đêm, tôi đã làm trong sạch Thiên nhãn. Vào canh cuối của đêm, tôi đã phá tan khối đống tăm tối (vô minh).
628. ‘‘Tato ratyā vivasāne, sūriyassuggamanaṃ pati; Indo brahmā ca āgantvā, maṃ namassiṃsu pañjalī. 628. Khi đêm vừa mở rộng,. Rạng đông, trời ló rạng, Đế Thích, Phạm Thiên đến, Chấp tay đảnh lễ ta, 628. Sau đó, vào lúc cuối đêm cho đến lúc mọc lên của mặt trời, vị Trời Inda và đấng Brahmā, sau khi đi đến, đã cúi chào tôi, với tay chắp lại.
629. ‘‘‘Namo te purisājañña, namo te purisuttama; Yassa te āsavā khīṇā, dakkhiṇeyyosi mārisa’. 629. Đảnh lễ bậc Thượng sanh!. Đảnh lễ bậc Thượng nhân! Ngài đoạn tận lậu hoặc, Ngài xứng đáng cúng dường. 629. ‘Thưa bậc siêu nhân, xin kính lễ ngài. Thưa bậc tối thượng nhân, xin kính lễ ngài. Các lậu hoặc của ngài đây đã cạn kiệt. Bạch ngài, ngài là bậc xứng đáng được cúng dường.’
630. ‘‘Tato disvāna maṃ satthā, devasaṅghapurakkhataṃ; Sitaṃ pātukaritvāna, imamatthaṃ abhāsatha. 630. Bậc Đạo Sư thấy ta,. Đứng đầu chúng chư Thiên, Nở ra một nụ cười, Nói với ta nghĩa này. 630. Kế đó, bậc Đạo Sư, sau khi nhìn thấy tôi được tập thể chư Thiên tôn vinh, đã để lộ nụ cười, rồi đã nói ý nghĩa này:
631. [su. ni. 660 suttanipātepi] ‘‘‘Tapena brahmacariyena, saṃyamena damena ca; Etena brāhmaṇo hoti, etaṃ brāhmaṇamuttama’’’nti. 631. Nhờ khổ hạnh, Phạm hạnh,. Nhờ tự chế, điều phục, Nhờ vậy, là Phạm chí, Đây, Phạm chí tối thượng. 631. ‘Do khổ hạnh, do thực hành Phạm hạnh, do kiềm chế bản thân, và do rèn luyện, do điều này mà trở thành Bà-la-môn; tư cách Bà-la-môn này là tối thượng.’”
…  Sunīto thero…. Dvādasakanipāto niṭṭhito.   Đại đức trưởng lão Sunīta đã nói những lời kệ như thế.
Tatruddānaṃ –   TÓM LƯỢC NHÓM NÀY
Sīlavā ca sunīto ca, therā dve te mahiddhikā;   “Hai vị trưởng lão Sīlava và Sunīta ấy có đại thần lực, ở nhóm mười hai có hai mươi bốn câu kệ.”
Dvādasamhi nipātamhi, gāthāyo catuvīsatīti.   Nhóm Mười Hai được chấm dứt.