11. Ekādasanipāto
Chương XI – Phẩm Mười Một Kệ
11. Nhóm mười một
Tipitaka.org Việt dịch: HT. Thích Minh Châu Việt dịch: TK. Indacanda
1. Saṃkiccattheragāthā (CCXL) Sankicca (Thera. 62) Kệ ngôn của trưởng lão Saṅkicca.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn nổi tiếng. Mẹ ngài chết khi sanh ngài, và ngài được cứu sống, chưa bị đốt cháy trên giàn hỏa. Vì rằng sự sống của một hữu tình trong đời sống cuối cùng không thể chết được, trước khi chứng quả A-la-hán, dầu cho có rơi từ núi Sineru (Tu-di). Khi lên bảy tuổi, được nghe mẹ ngài chết khi sanh ngài; ngài cảm thấy xúc động và phát nguyện xuất gia. Ngài được đưa tới gặp Tôn giả Sàriputta, và ngài chứng được quả A-la-hán, khi tóc ngài đang bị cạo. Ngài dâng đời sống ngài cho các tên cướp như thế nào để ba ngàn Tỷ-kheo được nói đến trong tập sớ Dhammapàla.  
  Rồi một cư sĩ muốn hầu hạ ngài, yêu cầu ngài sống gần chỗ vị ấy đang ở, nói như sau:  
597. ‘‘Kiṃ tavattho vane tāta, ujjuhānova pāvuse; Verambhā ramaṇīyā te, paviveko hi jhāyinaṃ. 597. Lợi ích ngài là gì,. Ở rừng sâu, mùa mưa, Như U-ju-hà-na, Hỡi này ngài thân mến! Hang gió đẹp cho ngài, Sống một mình, tu thiền. 597. “Này con yêu, điều gì là mục đích của con ở khu rừng, vào mùa mưa, như là Ujjuhāna? Verambā là đáng yêu đối với con, bởi vì sự tách ly là dành cho những người chứng thiền.
  Rồi vị Trưởng lão, để nêu rõ vẻ đẹp của núi rừng và sự thật khác, trả lời như sau:  
598. ‘‘Yathā abbhāni verambho, vāto nudati pāvuse; Saññā me abhikiranti, vivekapaṭisaññutā. 598. Như gió mùa thổi mây,. Trong thời tiết mùa mưa, Tưởng ta bay tràn khắp, Tưởng dung hòa viễn ly. 598. Giống như ngọn gió Veramba xua đi những đám mây vào mùa mưa, các suy nghĩ của tôi được tản mát lan rộng, được gắn liền với việc ẩn cư.
599. ‘‘Apaṇḍaro aṇḍasambhavo, sīvathikāya niketacāriko; Uppādayateva me satiṃ, sandehasmiṃ virāganissitaṃ. 599. Quạ đen, từ trứng sinh,. Lấy nghĩa địa làm nhà, Khiến ta khởi lên niệm, Viễn ly đối với thân. 599. Loài quạ đen, xuất thân từ quả trứng, loanh quanh ở chỗ ngụ nơi bãi tha ma, làm sanh khởi ở tôi niệm nương vào sự lìa xa luyến ái ở xác thân.
600. ‘‘Yañca aññe na rakkhanti, yo ca aññe na rakkhati; Sa ve bhikkhu sukhaṃ seti, kāmesu anapekkhavā. 600. Người kẻ khác không hộ,. Người không hộ kẻ khác, Tỷ-kheo, sống an lạc, Không kỳ vọng các dục. 600. Những người khác không bảo bọc vị xuất gia, và vị xuất gia không bảo bọc những người khác; đúng vậy vị tỳ khưu nằm một cách an lạc, không trông mong về các dục.
601. ‘‘Acchodikā puthusilā, gonaṅgulamigāyutā; Ambusevālasañchannā, te selā ramayanti maṃ. 601. Tảng đá có nước trong,. Chỗ hội họp quy tụ, Các loài vượn mặt đen, Các loài nai nhút nhát, Dưới màn hoa nước chảy, Tảng đá ấy ta thích. 601. Với nước trong trẻo, với những tảng đá lớn, được lai vãng bởi các con khỉ và nai, được bao phủ bởi rong rêu ẩm ướt, những tảng núi đá ấy khiến tôi thích thú.[16]
602. ‘‘Vasitaṃ me araññesu, kandarāsu guhāsu ca; Senāsanesu pantesu, vāḷamiganisevite. 602. Ta sống trong rừng núi,. Trong hang động khe đá, Tại trú xứ xa vắng, Chỗ thú rừng qua lại. 602. Tôi đã sống ở những khu rừng, ở những khe núi, và ở những hang động, ở các chỗ trú ngụ xa vắng, được lai vãng bởi các thú dữ.
603. ‘‘‘Ime haññantu vajjhantu, dukkhaṃ pappontu pāṇino’; Saṅkappaṃ nābhijānāmi, anariyaṃ dosasaṃhitaṃ. 603. Hãy hại chúng, giết chúng!.. Hãy làm khổ hữu tình, Ta không biết niệm ấy, Phi Thánh liên hệ sân,  603. ‘Những sinh mạng này hãy bị giết hại, bị hành hạ, bị gánh chịu khổ đau,’ tôi không biết đến sự suy tư không thánh thiện, gắn liền với sân hận.
604. ‘‘Pariciṇṇo mayā satthā, kataṃ buddhassa sāsanaṃ; Ohito garuko bhāro, bhavanetti samūhatā. 604. Đạo Sư, ta hầu hạ, Lời Phật dạy làm xong, Gánh nặng đặt xuống thấp, Gốc sanh hữu, nhổ sạch. 604. Bậc Đạo Sư đã được tôi hầu hạ, lời dạy của đức Phật đã được thực hành, vật mang nặng đã được đặt xuống, lối dẫn đến hiện hữu đã được xóa sạch.
605. ‘‘Yassa catthāya [yassatthāya (sī.)] pabbajito, agārasmānagāriyaṃ; So me attho anuppatto, sabbasaṃyojanakkhayo. 605. Vì đích gì, xuất gia,. Bỏ nhà sống không nhà, Mục đích ấy, ta đạt, Mọi kiết sử tận diệt. 605. Và vì mục đích nào mà tôi đã xuất gia, rời nhà sống không nhà, mục đích ấy của tôi, sự cạn kiệt tất cả các điều ràng buộc, đã được thành tựu.
606. ‘‘Nābhinandāmi maraṇaṃ, nābhinandāmi jīvitaṃ; Kālañca paṭikaṅkhāmi, nibbisaṃ bhatako yathā. 606. Ta không thích thú chết,. Ta không thích thú sống, Ta chờ thời gian đến, Như thợ làm việc xong. 606. Tôi không vui thích sự chết, tôi không vui thích sự sống, và tôi chờ đợi thời điểm, giống như người làm thuê chờ đợi tiền công.
607. ‘‘Nābhinandāmi maraṇaṃ, nābhinandāmi jīvitaṃ; Kālañca paṭikaṅkhāmi, sampajāno patissato’’ti. 607. Ta không thích thú chết,. Ta không thích thú sống, Ta chờ thời gian đến, Tỉnh giác, giữa chánh niệm. 607. Tôi không vui thích sự chết, tôi không vui thích sự sống, và tôi chờ đợi thời điểm, có sự nhận biết rõ, có niệm.”
…  Saṃkicco thero…. Ekādasanipāto niṭṭhito.   Đại đức trưởng lão Saṅkicca đã nói những lời kệ như thế.
Tatruddānaṃ –   TÓM LƯỢC NHÓM NÀY
Saṃkiccathero ekova, katakicco anāsavo;   “Trưởng lão Saṅkicca, chỉ một vị, có phận sự đã được làm xong, không còn lậu hoặc, và chỉ có mười một câu kệ ở nhóm mười một.”
Ekādasanipātamhi, gāthā ekādaseva cāti.   Nhóm Mười Một được chấm dứt.