10. Dasakanipāto

Chương X – Phẩm Mười Kệ

10. Nhóm mười

Tipitaka.org Việt dịch: HT. Thích Minh Châu Việt dịch: TK. Indacanda
1. Kāḷudāyittheragāthā (CCXXIII) Kàludàyin (Thera. 56) Kệ ngôn của trưởng lão Kāḷudāyi.
  Ngài sanh cùng ngày với đức Phật trong gia đình con vị Bộ trưởng của vua ở Kapilavatthu. Bảy vị cùng sanh một lần trong ngày, Vị Bồ-tát, cây Bồ-đề, mẹ của Ràhula và bốn vật báu: roi báu, con ngựa Kanthaka, Channa và Kàludàyin. Khi đến ngày đặt tên, ngài được gọi là Udàyin, và vì ngài da đen nên được gọi là Kàludàyin. Ngài lớn lên làm bạn trẻ đồng chơi với vị Bồ-tát. Rồi Thế Tôn xuất gia, giác ngộ, và ở tại Trúc Lâm (Veluvana), chuyển bánh xe Chánh pháp, vua Suddhodana nghe vậy, cử một vị Bộ Trưởng với một ngàn người tùy tùng, bảo đem con của vua về. Vị Bộ trưởng cùng cả ngàn tùy tùng, nghe đức Phật giảng và chứng quả A-la-hán. Đức Phật đưa tay nói: ‘Hãy đến, này các Tỷ-kheo’… và tất cả sống giữa các vị Hiền Thánh, không chuyển thông điệp của vua. Các vị sứ giả khác cũng lâm vào cảnh tương tự. Cuối cùng vua sai Kàludàyin với một ngàn người tùy tùng và Kàludàyin hứa thế nào cũng đưa vị Bồ-tát về dầu có xuất gia. Ngài đi đến nghe pháp, trở thành vị A-la-hán, nhớ đến sứ mạng của mình, chờ cho mùa mưa xong, khi trên con đường về, hoa đã trổ bông, ngài mới nói lên những bài kệ mời bậc Đạo Sư về và tán thán vẻ đẹp cuộc hành trình:  
527. ‘‘Aṅgārino dāni dumā bhadante, phalesino chadanaṃ vippahāya; Te accimantova pabhāsayanti, samayo mahāvīra bhāgī rasānaṃ. 527. Thế Tôn, nay là thời,. Các cây nở hoa đỏ, Từ bỏ chòm lá cũ, Tìm đến thời sai quả. Chúng như ngọn lửa hừng, Chói sáng và rực sáng, Bạch đấng Đại anh hùng, Nay là thời hưởng vị. 527. “Bạch đấng Đạo Sư, giờ đây các cây cối có màu đỏ thẫm, sẽ có sự kết trái sau khi rũ bỏ lớp lá (úa). Chúng tỏa sáng tựa như có ngọn lửa. Bạch đấng Đại Hùng, là lúc cho các sự thọ hưởng và vui thú.
528. ‘‘Dumāni phullāni manoramāni, samantato sabbadisā pavanti; Pattaṃ pahāya phalamāsasānā [phalamāsamāno (ka.)], kālo ito pakkamanāya vīra. 528. Những cây nở hoa đẹp,. Khắp phương tỏa hương thơm, Bỏ lá, vọng sanh quả, Nay là thời lên đường, Từ bỏ địa phương này, Kính thưa bậc Anh hùng. 528. Các cây cối, nở rộ hoa, làm thích ý, tỏa hương tất cả các hướng ở xung quanh. Sau khi dứt bỏ lá, chúng đang mong được kết trái. Bạch đấng Anh Hùng, là thời điểm ra đi khỏi nơi đây.
529. ‘‘Nevātisītaṃ na panātiuṇhaṃ, sukhā utu addhaniyā bhadante; Passantu taṃ sākiyā koḷiyā ca, pacchāmukhaṃ rohiniyaṃ tarantaṃ. 529. Không quá lạnh, quá nóng,. Thế Tôn thời tiết đẹp, Hãy để hai dân tộc, Thích-Ca, Ko-li-ya, Nhìn Ngài mặt hướng Tây, Vượt sông Ro-hi-ni. 529. Bạch đấng Đạo Sư, thời tiết là dễ chịu, không quá lạnh, lại không quá nóng, thích hợp cho việc đi đường xa. Hãy để cho những người dân xứ sở Sākiya và Koḷiya nhìn thấy Ngài, với mặt nhìn hướng tây, đang băng qua dòng sông Rohiṇī.
530. ‘‘Āsāya kasate khettaṃ, bījaṃ āsāya vappati; Āsāya vāṇijā yanti, samuddaṃ dhanahārakā; Yāya āsāya tiṭṭhāmi, sā me āsā samijjhatu. 530. Trong hy vọng, ruộng cày,. Trong hy vọng, giống gieo, Trong hy vọng, thương gia, Vượt biển đem tiền về. Hy vọng con kiên trì, Mong con, hy vọng thành. 530. Thửa ruộng được cày với niềm hy vọng, hạt giống được gieo với niềm hy vọng, những người thương buôn đi biển với niềm hy vọng là những người mang về của cải. Với niềm hy vọng nào mà tôi đứng (ở đây), mong rằng niềm hy vọng ấy của tôi được thành tựu.
531. [saṃ. ni. 1.198] ‘‘Punappunaṃ ceva vapanti bījaṃ, punappunaṃ vassati devarājā; Punappunaṃ khettaṃ kasanti kassakā, punappunaṃ dhaññamupeti raṭṭhaṃ. 531. Người tiếp tục gieo giống,. Trời lại tiếp tục mưa, Người nông tiếp tục cày, Thóc gạo tiếp tục đến, Đến nhiều cho quốc gia. 531. Họ vẫn còn tiếp tục gieo giống, vị Thiên vương còn tiếp tục mưa, các nông dân còn tiếp tục cày xới thửa ruộng, thóc lúa còn tiếp tục đi đến với vương quốc.
532. [saṃ. ni. 1.198] ‘‘Punappunaṃ yācanakā caranti, punappunaṃ dānapatī dadanti; Punappunaṃ dānapatī daditvā, punappunaṃ saggamupenti ṭhānaṃ. 532. Ăn xin tiếp tục xin,. Thí chủ tiếp tục cho, Thí chủ tiếp tục cho Tiếp tục lên Thiên giới. 532. Những người ăn mày còn tiếp tục đi xin, các thí chủ còn tiếp tục bố thí, sau khi còn tiếp tục bố thí, các thí chủ còn tiếp tục đi đến vị thế cõi trời.
533. ‘‘Vīro have sattayugaṃ puneti, yasmiṃ kule jāyati bhūripañño; Maññāmahaṃ sakkati devadevo, tayā hi jāto [tayābhijāto (sī.)] muni saccanāmo. 533. Bậc anh hùng tiếp tục,. Cho đến bảy thế hệ Gia đình ấy được sanh, Bậc trí tuệ rộng lớn, Con nghĩ Ngài có thể, Là Thiên chủ chư Thiên, Trong Ngài đã được sanh, Bậc ẩn sĩ chân danh. 533. Thật vậy, đấng Anh Hùng, bậc có trí tuệ quảng đại, làm trong sạch bảy đời (tổ phụ) ở tại gia tộc nào mà vị ấy sanh ra. Tôi nghĩ rằng bệ hạ có khả năng là vị Trời của chư Thiên, bởi vì nhờ ngài mà bậc hiền trí có tên là Sự Thật đã được sanh ra.
534. ‘‘Suddhodano nāma pitā mahesino, buddhassa mātā pana māyanāmā; Yā bodhisattaṃ parihariya kucchinā, kāyassa bhedā tidivamhi modati. 534. Phụ vương đại ẩn sĩ,. Tên gọi Tịnh Phạn vương, Còn mẹ bậc Chánh giác, Danh xưng là Ma-da, Bà mang thai Bồ-tát, Thân hoại, hưởng thiên giới. 534. Người cha của vị Đại Ấn Sĩ tên là Suddhodana, còn người mẹ của đức Phật tên là Māyā, bà đã mang nặng đức Bồ Tát trong bào thai, do sự tan rã của thân, bà vui hưởng ở cõi Trời.
535. ‘‘Sā gotamī kālakatā ito cutā, dibbehi kāmehi samaṅgibhūtā; Sā modati kāmaguṇehi pañcahi, parivāritā devagaṇehi tehi. 535. Gô-ta-mi, mạng chung,. Từ đấy, sau khi chết, Được hưởng thọ đầy đủ, Các dục lạc cõi trời, Vui hưởng năm món dục, Được Thiên nữ đoanh vây. 535. Bà Gotamī ấy, đã mệnh chung, từ nơi ấy đã chết đi, được thọ hưởng các dục ở cõi trời. Bà ấy vui hưởng năm loại dục, được các nhóm chư Thiên ấy tùy tùng.
  Rồi Thế Tôn được thỉnh mời, thấy rằng mình đi sẽ cứu độ cho nhiều người, nên đã ra đi với hai mươi ngàn vị A-la-hán, mỗi ngày đi bộ một do-tuần. Còn vị Trưởng lão, dùng thần thông đi đến Kapilavatthu trước mặt ông vua. Vua không biết ngài là ai, nên ngài mới xưng ngài là con vị Bộ Trưởng, được vua sai đi đến Thế Tôn và nói lên bài kệ: 536. Tôi là người con trai của đức Phật, vị Aṅgīrasa, bậc có sự chịu đựng việc không thể chịu đựng, bậc không người đối xứng như thế ấy. Bạch Ngài Sakka, Ngài là người cha của cha con. Bạch Ngài Gotama, theo nguyên tắc Ngài là ông nội của Con.”
536. ‘‘Buddhassa puttomhi asayhasāhino, aṅgīrasassappaṭimassa tādino; Pitupitā mayhaṃ tuvaṃsi sakka, dhammena me gotama ayyakosī’’ti. 536. Ta là con đức Phật,. Ngài thắng bậc bất thắng, Bậc An-gi-ra-sa, Bậc không ai sánh được, Vua dòng họ Thích-ca, Phụ thân của cha tôi, Vua dòng Go-ta-ma Là bậc Tổ phụ tôi, Đúng pháp là như vậy. Đại đức trưởng lão Kāḷudāyi đã nói những lời kệ như thế.
…  Kāḷudāyī thero….    
2. Ekavihāriyattheragāthā (CCXXXIV) Ekavihàriya (Tissa Kumàra) (Thera. 57) Kệ ngôn của trưởng lão Ekavihāriya.
  Ngài sanh ra, sau khi đức Phật đã nhập Niết-bàn là con trai nhỏ nhất của vua Dhammàsoka. Vua Asoka, đến năm thứ 218 sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, đã thống nhất toàn thể Ấn Độ trong một đế quốc. Vua phong em trai thứ ngài là Tissa làm Phó vương, và vận động em ngài ủng hộ cho Giáo hội.  
  Còn ngài trong khi đi săn thấy Trưởng lão Mahà Dhammarakkhita ngồi dưới gốc cây, cảm xúc rất mạnh, tự mình muốn sống trong rừng. Khi ngài chứng kiến Trưởng lão hiện thần thông, ngài trở về lâu đài, và nói với vua Asoka ngài muốn từ bỏ cuộc đời thế tục. Vua Asoka không thể làm ngài thay đổi sự quyết định của mình. Tha thiết sống đời sống một ẩn sĩ, ngài nói lên những bài kệ như sau:  
537. ‘‘Purato pacchato vāpi, aparo ce na vijjati;. Atīva phāsu bhavati, ekassa vasato vane. 537. Khi trước mặt sau lưng,. Không có một người nào, Như vậy an lạc lớn, Sống một mình trong rừng. 537. “Nếu không tìm thấy người nào khác ở phía trước hoặc ở phía sau, là điều thoải mái vô cùng cho người đang sống một mình ở khu rừng.
538. ‘‘Handa eko gamissāmi, araññaṃ buddhavaṇṇitaṃ; Phāsu [phāsuṃ (syā. pī.)] ekavihārissa, pahitattassa bhikkhuno. 538. Ta sẽ đi một mình,. Đến ngôi rừng Phật khen, Hưởng an lạc đã được, Vị Tỷ-kheo thọ hưởng, Nhờ sống đời tinh tấn, Sống riêng chỉ một mình. 538. Giờ đây, tôi sẽ một mình đi vào khu rừng, (là nơi) đã được đức Phật ca ngợi, (là nơi) thoải mái cho vị tỳ khưu có bản tính cương quyết, cư trú một mình.
539. ‘‘Yogī-pītikaraṃ rammaṃ, mattakuñjarasevitaṃ;. Eko attavasī khippaṃ, pavisissāmi kānanaṃ. 539. Ta sẽ gấp vào rừng,. Một mình, sống lý tưởng, Ngôi rừng được loài voi, Cuồng loạn sống tự do, Trú xứ đem hoan hỷ, Cho ẩn sĩ thiền định. 539. Là người có khả năng đối với mục đích, một mình tôi sẽ đi nhanh chóng vào khu rừng đáng yêu, nơi tạo ra niềm phỉ lạc cho các hành giả, được lai vãng bởi những con voi đã bị lên cơn động dục.
540. ‘‘Supupphite sītavane, sītale girikandare; Gattāni parisiñcitvā, caṅkamissāmi ekako. 540. Trong ngôi rừng Sì-ta,. Với núi hang nước mát, Sau khi rửa tay chân, Ta kinh hành một mình. 540. Ở khu rừng mát mẻ, khéo nở rộ hoa, trong hang núi mát lạnh, sau khi rửa ráy các phần thân thể, tôi sẽ đi kinh hành, đơn độc một mình.
541. ‘‘Ekākiyo adutiyo, ramaṇīye mahāvane;. Kadāhaṃ viharissāmi, katakicco anāsavo. 541. Sống một, không sống hai,. Trong rừng lớn đẹp đẽ, Ta sẽ sống tại đấy, Việc xong, không lậu hoặc. 541. Đơn độc một mình, không người thứ hai, ở khu rừng lớn đáng yêu, khi nào tôi sẽ sống không còn lậu hoặc, có phận sự đã được làm xong?
542. ‘‘Evaṃ me kattukāmassa, adhippāyo samijjhatu; Sādhiyissāmahaṃyeva, nāñño aññassa kārako. 542. Như vậy, ta muốn làm,. Mong ước nguyện thành tựu, Ta sẽ có lòng tin, Không ai làm ai được. 542. Tôi có ước muốn thực hiện như vậy, mong sao ý định của tôi được thành tựu. Chính tôi sẽ hoàn thành, không ai là người làm thế cho ai.
543. ‘‘Esa bandhāmi sannāhaṃ, pavisissāmi kānanaṃ; Na tato nikkhamissāmi, appatto āsavakkhayaṃ. 543. Ta cột áo giáp lại,. Sẽ vào trong rừng sâu, Ta không ra khỏi rừng, Nếu chưa đạt lậu tận. 543. Tôi đây buộc chặt lại áo giáp (tinh tấn), tôi sẽ đi vào khu rừng. Chưa đạt được sự cạn kiệt các lậu hoặc, tôi sẽ không lìa khỏi nơi ấy.
544. ‘‘Mālute upavāyante, sīte surabhigandhike [gandhake (syā. pī. ka.)]; Avijjaṃ dālayissāmi, nisinno nagamuddhani. 544. Trong khi gió nhẹ thổi,. Mát lạnh, thơm mùi hương, Ta ngồi trên chỏm núi, Ta sẽ phá vô minh. 544. Khi ngọn gió mát lạnh có mùi hương ngọt ngào đang thổi, ngồi ở đỉnh ngọn núi, tôi sẽ phá vỡ vô minh.
545. ‘‘Vane kusumasañchanne, pabbhāre nūna sītale; Vimuttisukhena sukhito, ramissāmi giribbaje. 545. Trên tấm thảm hang động,. Trải đầy những hoa rừng, Ta hưởng lạc giải thoát, Tại vòng đai núi rừng. 545. Tại khu rừng được bao phủ bông hoa, trong hang động quả thật mát lạnh, được an lạc với sự an lạc giải thoát, tôi sẽ vui thích ở Giribbaja.
546. ‘‘Sohaṃ paripuṇṇasaṅkappo, cando pannaraso yathā; Sabbāsavaparikkhīṇo, natthi dāni punabbhavo’’ti. 546. Chí nguyện ta viên mãn,. Giống như mặt trăng rằm. Mọi lậu hoặc tận trừ, Nay không còn tái sanh. 546. Tôi đây, với ý định đã được tròn đủ giống như mặt trăng ngày rằm, đã được hoàn toàn cạn kiệt mọi lậu hoặc, giờ đây không còn tái sanh nữa.”
…  Ekavihāriyo thero….   Đại đức trưởng lão Ekavihāriya đã nói những lời kệ như thế.
3. Mahākappinattheragāthā (CCXXXV) Mahà Kappina (Ma-ha Kiếp-tân-na) (Thera. 58) Kệ ngôn của trưởng lão Mahākappina.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở biên địa, tại thành phố tên Kukkuta, trong gia đình một vị vua và được đặt tên là Kappina. Khi phụ vương mất, ngài thừa tự ngôi vua với tên là Mahà-Kappina. Để tăng trưởng sự hiểu biết, ngài sai sứ giả mỗi buổi sáng đi ra khỏi bốn cửa thành, giữ lại các vị học giả và tin cho ngài biết. Thời ấy bậc Đạo Sư đã ra đời và đang ở Sàvatthi. Các thương gia của thành phố Sàvatthi đem đồ đến Kukkutta bán, đem quà dâng vua. Vua hỏi tình hình ở Sàvatthi và dân chúng theo tôn giáo nào. Các thương gia thưa không trả lời cho vua được, vì chưa được súc miệng. Sau khi vua bảo đem nước súc miệng xong, các thương gia chấp tay và thưa: ‘Ở đất nước chúng tôi, Phật báu đã ra đời’. Khi nghe nói đến chữ Phật, vua cảm thấy hân hoan thoải mái, bảo thương gia nói lại ba lần, và thưởng chúng một trăm ngàn đồng tiền vàng. Các thương gia cũng nói đến Pháp báu và Tăng báu, và vua tặng thưởng gấp ba lần. Rồi vua từ bỏ thế tục và xuất gia. Các vị Bộ trưởng cũng theo gương vua. Rồi tất cả cùng đi tìm đức Bổn Sư và đi đến sông Hằng. Rồi họ tuyên bố, nếu có bậc Đạo Sư, có đức Phật tối thượng thời móng chân các con ngựa không bị thấm ướt! Rồi họ đi ngang qua con sông ấy và qua một con sông khác nữa, sông Candabhàgà.  
  Hôm ấy, bậc Đạo Sư dậy sớm khi rạng đông, với lòng từ bi, dùng Phật nhãn xem xung quanh thế giới và thấy Mahà Kappina đã từ bỏ vương quốc và đi đến với một số tùy tùng lớn để xuất gia. Bậc Đạo Sư trước hết đi vào Sàvatthi khất thực với một số Tỷ-kheo, rồi Ngài bay đến bờ sông Candabhàgà, và ngồi xuống kiết-già, đối diện với bến nước và phóng hào quang. Mahà Kappina và các tùy tùng thấy được các hào quang liền đến đảnh lễ đức Phật. Thế Tôn thuyết pháp cho họ và tất cả đều chứng quả A-la-hán. Và xin trở thành Sa-môn. Đức Phật nói: ‘Hãy đến, các Tỷ-kheo’, và như vậy là lễ thọ giới của họ. Rồi Thế Tôn đem toàn thể về Jetavana ngang qua hư không.  
  Một hôm Thế Tôn hỏi Mahà Kappina có thuyết pháp cho đại chúng không, và khi được trả lời không. Thế Tôn cho gọi Mahà Kappina và khuyên Mahà Kappina thuyết pháp cho đại chúng. Mahà Kappina vâng lời dạy của Thế Tôn và trong buổi thuyết pháp đầu tiên độ cho hơn ngàn Sa-môn chứng quả A-la-hán. Rồi đức Phật xác nhận Mahà Kappina là vị thuyết pháp đệ nhất cho chúng Tăng.  
  Một hôm, ngài giảng cho các Tỷ-kheo-ni như sau:  
547. ‘‘Anāgataṃ yo paṭikacca [paṭigacca (sī.)] passati, hitañca atthaṃ ahitañca taṃ dvayaṃ; Viddesino tassa hitesino vā, randhaṃ na passanti samekkhamānā. 547. Ai thấy sớm sự việc,. Trước khi sự việc đến, Và biết được cả hai, Có lợi hay có hại, Thù hay bạn người ấy, Không thấy được sơ hở, Dầu quan sát kỹ càng. 547. “Người nào nhìn thấy trước tương lai, về sự việc có lợi, có hại, và cả hai điều ấy, những kẻ thù hoặc bạn bè của người ấy, trong khi tìm kiếm, không nhìn ra sự sơ hở (của người ấy).
548. [paṭi. ma. 1.160 paṭisambhidāmagge] ‘‘Ānāpānasatī yassa, paripuṇṇā subhāvitā; Anupubbaṃ paricitā, yathā buddhena desitā; Somaṃ lokaṃ pabhāseti, abbhā muttova candimā. 548. Với ai khéo tu tập,. Niệm thở vào thở ra, Tiếp tục hành viên mãn, Như lời Phật thuyết giảng, Sẽ chói sáng đời này, Như trăng thoát vùng mây. 548. Niệm hơi thở vào hơi thở ra của vị nào được tròn đủ, khéo được tu tập, được tích lũy theo thứ lớp giống như điều đã được thuyết giảng bởi đức Phật, vị ấy chiếu sáng thế gian này, tựa như mặt trăng được thoát khỏi đám mây.
549. ‘‘Odātaṃ vata me cittaṃ, appamāṇaṃ subhāvitaṃ; Nibbiddhaṃ paggahītañca, sabbā obhāsate disā. 549. Tâm ta thật trắng bạch,. Vô lượng, khéo tu tập, Thấu triệt, chế ngự vững, Chói sáng khắp mọi phương. 549. Thật vậy, tâm của tôi trong trắng, không hạn lượng, đã được khéo tu tập, đã được thấu triệt, và đã được nắm chắc, nó chiếu sáng tất cả các phương.
550. ‘‘Jīvate vāpi sappañño, api vittaparikkhayo; Paññāya ca alābhena, vittavāpi na jīvati. 550. Bậc có tuệ vẫn sống,. Dầu tài sản kiệt tận, Không có được trí tuệ, Có tiền, như không sống. 550. Người có trí tuệ cũng vẫn sinh tồn cho dầu có sự khánh tận về tài sản, nhưng với việc không đạt được trí tuệ, người có tài sản cũng không sinh tồn.
551. ‘‘Paññā sutavinicchinī, paññā kittisilokavaddhanī; Paññāsahito naro idha, api dukkhesu sukhāni vindati. 551. Tuệ phê phán điều nghe,. Tuệ tăng trưởng danh xưng, Ở đời người có tuệ, Được vui trong đau khổ. 551. Trí tuệ có sự phán xét điều đã được nghe, trí tuệ có sự làm tăng trưởng danh thơm tiếng tốt. Ở thế gian này, người sở hữu trí tuệ tìm thấy các niềm an lạc thậm chí ở những nỗi khổ đau.
552. ‘‘Nāyaṃ ajjatano dhammo, nacchero napi abbhuto; Yattha jāyetha mīyetha, tattha kiṃ viya abbhutaṃ. 552. Pháp này thuộc hiện tại,. Không vi diệu hy hữu, Đâu có sanh, thì chết, Đây không gì hy hữu. 552. Quy luật này không phải (chỉ riêng) cho hôm nay, không là kỳ bí, cũng không bất thường. Bất luận ở đâu, sanh ra rồi chết; trong trường hợp ấy có điều gì là bất thường?
553. ‘‘Anantaraṃ hi jātassa, jīvitā maraṇaṃ dhuvaṃ; Jātā jātā marantīdha, evaṃdhammā hi pāṇino. 553. Sanh đã không gián đoạn,. Sống có chết thường hằng, Sanh sanh, chết tại đấy, Pháp hữu tình là vậy. 553. Bởi vì đối với kẻ đã được sanh ra, sau sự sống thì có cái chết là điều chắc chắn, không bị gián đoạn. Ở đây, những ai được sanh ra đều chết, bởi vì các sanh mạng có quy luật tự nhiên như vậy.
554. ‘‘Na hetadatthāya matassa hoti, yaṃ jīvitatthaṃ paraporisānaṃ; Matamhi ruṇṇaṃ na yaso na lokyaṃ, na vaṇṇitaṃ samaṇabrāhmaṇehi. 554. Điều lợi cho kẻ sống,. Không lợi cho kẻ chết, Than khóc cho kẻ chết, Không danh, không thanh tịnh, Không được hàng Sa-môn, Bà-la-môn tán thán. 554. Bởi vì điều lợi ích cho mạng sống của những người khác không đem lại lợi ích ấy cho người đã chết. Việc than khóc về người đã chết không phải là tiếng tốt, không phải là sự trong sạch, không được các Sa-môn, Bà-la-môn khen ngợi.
555. ‘‘Cakkhuṃ sarīraṃ upahanti tena [upahanti ruṇṇaṃ (sī.), upahanti roṇṇaṃ (syā. pī.)], nihīyati vaṇṇabalaṃ matī ca; Ānandino tassa disā bhavanti, hitesino nāssa sukhī bhavanti. 555. Than khóc hại thân, mắt,. Dung sắc, lực và trí, Nếu tâm tư, hoan hỷ, Các phương cũng hân hoan, Dầu hạnh phúc đi tìm, Không có gì an lạc. 555. Việc than khóc hủy diệt con mắt và thân xác, còn dung nhan, sức lực, và trí óc bị tàn tạ. Những kẻ thù của người ấy trở nên mừng rỡ, những thân hữu của người này không được hạnh phúc.
556. ‘‘Tasmā hi iccheyya kule vasante, medhāvino ceva bahussute ca; Yesaṃ hi paññāvibhavena kiccaṃ, taranti nāvāya nadiṃva puṇṇa’’nti. 556. Do vậy các cư sĩ,. Muốn nhận trong gia đình, Chỉ những người có trí, Và những người nghe nhiều, Với sức mạnh trí tuệ, Họ làm tròn nhiệm vụ, Như chiếc thuyền vượt qua, Con sông nước tràn đầy. 556. Chính vì thế, nên mong mỏi (có được) những người thông minh và luôn cả những người học rộng sống ở trong gia tộc, nhờ vào năng lực trí tuệ của chính những người ấy mà họ hoàn thành phận sự, tựa như nhờ vào chiếc thuyền mà vượt qua dòng sông ngập tràn.”
…  Mahākappino thero….   Đại đức trưởng lão Mahākappina đã nói những lời kệ như thế.
4. Cūḷapanthakattheragāthā (CCXXXVI) Cùla-Panthaka (Thera. 59) Kệ ngôn của trưởng lão Cūḷapanthaka.
  Câu chuyện của ngài đã được kể trong chương VIII. Phần còn lại được kể trong tập sớ Cùlasetthi-Jàtaka. Trong một trường hợp khác ngài nói lên những bài kệ như sau:  
557. ‘‘Dandhā mayhaṃ gatī āsi, paribhūto pure ahaṃ; Bhātā ca maṃ paṇāmesi, ‘gaccha dāni tuvaṃ gharaṃ’. 557. Ta chậm chạp, tiến chậm,. Trước ta bị khinh miệt, Anh ta đuổi ta đi: Nay, ngươi hãy về nhà. 557. “Ngu đần đã là phần số của tôi; trước đây tôi đã bị xem thường. Và người anh trai đã đuổi tôi đi: ‘Giờ đây, ngươi hãy đi về nhà.’
558. ‘‘Sohaṃ paṇāmito santo [bhātā (aṭṭha.)], saṅghārāmassa koṭṭhake; Dummano tattha aṭṭhāsiṃ, sāsanasmiṃ apekkhavā. 558. Ta bị đuổi như vậy,. Tại cửa chính Tăng xá, Sầu khổ, đứng tại đấy, Vọng luyến lời Phật dạy. 558. Bị đuổi đi bởi người anh trai tại cánh cổng của tu viện thuộc về hội chúng, với tâm trí buồn bã, tôi đây đã đứng ở nơi ấy, trông mong lời giáo huấn.
559. ‘‘Bhagavā tattha āgacchi [āgañchi (sī. pī.)], sīsaṃ mayhaṃ parāmasi; Bāhāya maṃ gahetvāna, saṅghārāmaṃ pavesayi. 559. Tại đấy, Thế Tôn đến,. Ngài rờ trên đầu ta, Với cánh tay, nắm ta, Dắt ta vào Tăng xá. 559. Đức Thế Tôn đã đi đến nơi ấy, đã sờ vào đầu của tôi, sau khi nắm tôi bằng cánh tay, rồi đã dẫn tôi vào tu viện thuộc về hội chúng.
560. ‘‘Anukampāya me satthā, pādāsi pādapuñchaniṃ; ‘Etaṃ suddhaṃ adhiṭṭhehi, ekamantaṃ svadhiṭṭhitaṃ’. 560. Đạo Sư thương xót ta,. Cho ta khăn lau chân; Hãy an trú tâm tư, Vào vật thanh tịnh này. Và ngồi xuống một bên, Tâm tư khéo an trú. 560. Vì lòng thương tưởng đến tôi, bậc Đạo Sư đã trao cho miếng giẻ chùi chân (nói rằng): ‘Hãy (ngồi xuống) ở một bên rồi chú tâm vào vật trong sạch này cho đến khi đã được chú tâm vững chắc.’
561. ‘‘Tassāhaṃ vacanaṃ sutvā, vihāsiṃ sāsane rato; Samādhiṃ paṭipādesiṃ, uttamatthassa pattiyā. 561. Ta nghe lời Ngài dạy,. Sống hân hoan Chánh pháp, Ta thực hành thiền định, Để đạt đích tối thượng. 561. Sau khi lắng nghe lời nói của Ngài, được thích thú ở lời giáo huấn, tôi đã an trú. Tôi đã thực hành về định nhằm đạt đến mục đích tối thượng.
562. ‘‘Pubbenivāsaṃ jānāmi, dibbacakkhu visodhitaṃ; Tisso vijjā anuppattā, kataṃ buddhassa sāsanaṃ. 562. Ta biết được đời trước,. Thiên nhãn ta thanh tịnh, Ba minh đã đạt được, Lời Phật dạy làm xong. 562. Có Thiên nhãn đã được trong sạch, tôi biết được đời sống trong thời quá khứ. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.
563. ‘‘Sahassakkhattumattānaṃ, nimminitvāna panthako; Nisīdambavane ramme, yāva kālappavedanā. 563. Pan-tha-ka hóa hiện,. Dưới hàng ngàn hình thức, Ngồi vườn xoài xinh đẹp, Chờ đợi thời phát hiện.  563. Sau khi hóa hiện bản thân thành một ngàn người, Panthaka đã ngồi ở Ambavana (vườn xoài) đáng yêu cho đến khi có sự thông báo về thời gian.
564. ‘‘Tato me satthā pāhesi, dūtaṃ kālappavedakaṃ; Paveditamhi kālamhi, vehāsādupasaṅkamiṃ [vehāsānupasaṅkamiṃ (syā. ka.)]. 564. Rồi Đạo Sư giữ ta,. Một sứ giả báo thời, Đúng thời được báo hiệu, Ta đến, ngang hư không. 564. Sau đó, bậc Đạo Sư đã phái sứ giả thông báo về thời gian cho tôi. Khi thời gian đã được thông báo, tôi đã đi đến bằng đường không trung.
565. ‘‘Vanditvā satthuno pāde, ekamantaṃ nisīdahaṃ; Nisinnaṃ maṃ viditvāna, atha satthā paṭiggahi. 565. Đảnh lễ chân Đạo Sư,. Một bên ta ngồi xuống. Biết ta đã ngồi xuống, Bậc Đạo Sư chấp nhận. 565. Sau khi đảnh lễ hai bàn chân của bậc Đạo Sư, tôi đã ngồi xuống ở một bên. Sau khi biết tôi đã ngồi xuống, khi ấy bậc Đạo Sư đã thọ nhận.
566. ‘‘Āyāgo sabbalokassa, āhutīnaṃ paṭiggaho; Puññakkhettaṃ manussānaṃ, paṭigaṇhittha dakkhiṇa’’nti. 566. Bậc nhận đồ tế vật,. Cả toàn thể thế giới, Là phước điền loài Người, Ngài chấp nhận cúng dường. 566. Là nơi dâng cúng của tất cả thế gian, là vị thọ nhận các vật hiến cúng, là thửa ruộng phước báu của loài người, Ngài đã thọ nhận vật cúng dường.”
…  Cūḷapanthako thero….   Đại đức trưởng lão Cūḷapanthaka đã nói những lời kệ như thế.
5. Kappattheragāthā (CCXXXVII) Kappa (Thera. 59) Kệ ngôn của trưởng lão Kappa.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong vương quốc Magadha, làm con một vua bản xứ, kế vị ngôi vua, nhưng rơi vào hưởng thụ các dục vọng. Khi bậc Đạo Sư với lòng từ bi, nhìn thế giới để xem ai xứng đáng được cứu độ. Bậc Đạo Sư thấy ngài, nghĩ rằng Kappa có thể tu tập quán bất tịnh, xuất gia và chứng quả A-la-hán. Thế Tôn đi trên hư không đến Kappa, và nói với ngài với những câu kệ như sau:  
567. ‘‘Nānākulamalasampuṇṇo, mahāukkārasambhavo; Candanikaṃva paripakkaṃ, mahāgaṇḍo mahāvaṇo. 567. Đầy nhiều loại uế vật,. Chỗ chưa còn phần uế, Như vũng nước đọng lâu, Ung nhọt vết thương lớn. 567. “(Thân xác) được chứa đầy các vật ghê tởm khác loại, có nguồn xuất xứ là hầm phân lớn, tựa như ao nước bị tù đọng, mụt nhọt to, vết thương lớn.
568. ‘‘Pubbaruhirasampuṇṇo, gūthakūpena gāḷhito [gūthakūpe nigāḷhito (syā. pī. ka.)]; Āpopaggharaṇo kāyo, sadā sandati pūtikaṃ. 568. Đầy những máu và mủ, Chìm đắm, trong hố phân, Thân ứ nước rỉ chảy, Luôn chảy nước bất tịnh. 568. (Thân xác) được chứa đầy mủ và máu, được cưu mang bởi hố phẩn, có sự rò rỉ nước, thân xác luôn luôn tuôn trào chất hôi thối.
569. ‘‘Saṭṭhikaṇḍarasambandho, maṃsalepanalepito; Cammakañcukasannaddho, pūtikāyo niratthako. 569. Trói bởi sáu mươi gân,. Trét dùng thịt làm hồ, Mặc áo giáp bằng da, Thân hôi thúi vô dụng. 569. (Thân xác) được buộc lại bằng sáu mươi dây chằng, được tô trét với sự tô trét bằng thịt, được buộc chặt với lớp áo bằng da, thân xác hôi thối là không có lợi ích.
570. ‘‘Aṭṭhisaṅghātaghaṭito, nhārusuttanibandhano; Nekesaṃ saṃgatībhāvā, kappeti iriyāpathaṃ. 570. Nối thành dây xúc xương,. Cột lại với dây gân, Do chúng nhiều hợp sức, Tác thành những uy nghi. 570. (Thân xác) được nối lại bằng sự nối nhau của những khúc xương, được buộc lại bằng những sợi chỉ gân, do sự tập hợp của nhiều thứ mà thân xác tạo ra sự cử động.
571. ‘‘Dhuvappayāto maraṇāya, maccurājassa santike; Idheva chaḍḍayitvāna, yenakāmaṅgamo naro. 571. Thường tiến đến sự chết,. Đến gần cảnh tử thần, Ở đấy, bị quăng bỏ, Con người đi theo dục. 571. (Thân xác) chắc chắn tiến đến sự chết, ở gần bên Thần Chết, sau khi từ bỏ (thân xác) ngay tại nơi ấy, con người ra đi theo ý muốn.
572. ‘‘Avijjāya nivuto kāyo, catuganthena ganthito;. Oghasaṃsīdano kāyo, anusayajālamotthato. 572. Thân bị vô minh che,. Trói bởi bốn trói buộc, Thân chìm trong bộc lưu, Mắc vào lưới tùy miên, 572. Thân xác bị che lấp bởi vô minh, bị buộc lại bởi các mối buộc thắt, thân xác có sự chìm đắm trong cơn lũ, bị trùm lên bởi màng lưới ngủ ngầm.
573. ‘‘Pañcanīvaraṇe yutto, vitakkena samappito; Taṇhāmūlenānugato, mohacchādanachādito. 573. Hệ lụy năm triền cái,. Ám ảnh bởi tâm tư, Đi theo gốc khát ái, Che trùm bởi màn si. 573. (Thân xác) bị gắn liền với năm sự che lấp, bị bận rộn với sự suy tầm, bị đeo đuổi bởi cội rễ tham ái, bị che đậy bởi sự che đậy của si mê.
574. ‘‘Evāyaṃ vattate kāyo, kammayantena yantito;. Sampatti ca vipatyantā, nānābhāvo vipajjati. 574. Thân này luân chuyển vậy,. Dẫn đi bởi xe nghiệp, Khi thành công, khi bại, Chịu đựng nhiều ái sanh. 574. Thân xác này vận hành như vậy, bị thúc đẩy bởi động lực của nghiệp, và sự thành tựu có sự tiêu hoại là điểm kết thúc, (dầu) có bản thể khác biệt (nhưng) đều bị tiêu hoại.
575. ‘‘Yemaṃ kāyaṃ mamāyanti, andhabālā puthujjanā; Vaḍḍhenti kaṭasiṃ ghoraṃ, ādiyanti punabbhavaṃ. 575. Ai nghĩ ‘thân của tôi’,. Là phàm phu ngu muội, Tăng mộ phần đáng sợ, Chấp chặt sự tái sanh. 575. Những kẻ phàm phu nào, mù quáng, ngu dốt, cho rằng thân xác này là của tôi, (những kẻ ấy) làm phát triển cái nghĩa địa ghê rợn; chúng nắm lấy việc tái sanh.
576. ‘‘Yemaṃ kāyaṃ vivajjenti, gūthalittaṃva pannagaṃ; Bhavamūlaṃ vamitvāna, parinibbissantināsavā’’ti [parinibbantunāsavā (sī.)]. 576. Ai tránh né thân này,. Như tránh rắn dính phân, Họ bỏ gốc sanh hữu, Chứng Niết-bàn, vô lậu. 576. Những người nào tránh né thân xác này, tựa như tránh né con rắn bị lấm lem bởi phẩn, (những người ấy) sau khi ói mửa ra gốc rễ của hữu, thành tựu Niết Bàn, không còn lậu hoặc.”
  Kappa nghe lời dạy bậc Đạo Sư, về thân phận các thân dưới nhiều hình ảnh, sợ hãi và nhàm chán thân mình, hốt hoảng xin xuất gia. Bậc Đạo Sư giao cho một Tỷ-kheo làm lễ xuất gia. Kappa nhận mười đề tài tu tập và chứng quả A-la-hán. Ngài đi đến bậc Đạo Sư, đảnh lễ, ngồi xuống một bên và nói lên chánh trí của mình với những bài kệ trên. Do vậy các bài kệ này trở thành bài kệ của ngài.  
…  Kappo thero….   Đại đức trưởng lão Kappa đã nói những lời kệ như thế.
6. Vaṅgantaputtaupasenattheragāthā (CCXXXVIII) Upasena, Con Của Vanganta (Thera. 60) Kệ ngôn của trưởng lão Upasena.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở làng Nàlaka, làm con của nữ Bà-la-môn Rùpasàrì và đặt tên là Upasena (anh của Sàriputta). Khi đến tuổi trưởng thành và học ba tập Vệ-đà. Ngài xuất gia sau khi nghe đức Phật thuyết pháp. Sau một năm thọ giới, ngài nghĩ làm tăng trưởng hột giống Thánh chủng, độ cho một Tỷ-kheo và với Tỷ-kheo này, ngài đi đến bậc Đạo Sư, bậc Đạo Sư nghe được việc này, chỉ trích cử chỉ hấp tấp của ngài. Rồi Upasena suy nghĩ: ‘Nếu nay, vì có một đệ tử, ta bị bậc Đạo Sư quở trách. Nay cũng nhân lý do này, ta sẽ được Đạo Sư tán thán’. Rồi tu tập thiền quán. Ngài chứng được quả A-la-hán. Ngài chấp nhận lối sống hạnh đầu đà và khuyên các vị khác thực hành theo, và lời khuyên của ngài rất có kết quả khiến cho Thế Tôn chấp nhận ngài là đệ tử rất được nhiều người biết đến.  
  Một Tỷ-kheo hỏi ngài cần phải làm gì khác khi các Tỷ-kheo ở Kosambi tranh cãi nhau và có nạn phá hòa hợp Tăng. Upasena dạy Tỷ-kheo ấy như sau:  
577. ‘‘Vivittaṃ appanigghosaṃ, vāḷamiganisevitaṃ; Seve senāsanaṃ bhikkhu, paṭisallānakāraṇā. 577. Xứ viễn ly, không ồn,. Chỗ thú rừng thường trú, Tỷ-kheo dọn sàng tọa, Tu học hạnh tịnh cư. 577. “Vị tỳ khưu, vì nguyên nhân thiền tịnh, nên tới lui chỗ trú ngụ vắng vẻ, ít tiếng ồn, được lai vãng bởi các thú dữ.
578. ‘‘Saṅkārapuñjā āhatvā [āhitvā (ka.)], susānā rathiyāhi ca; Tato saṅghāṭikaṃ katvā, lūkhaṃ dhāreyya cīvaraṃ. 578. Từ những đống rác rưới,. Từ một phần, xa lộ, Làm Y Tăng-già-lê, Mang áo cũ sờn mòn. 578. Sau khi mang lại từ đống rác, từ bãi tha ma, và từ những đường lộ, từ đó sau khi thực hiện y hai lớp, nên mặc y thô xấu.
579. ‘‘Nīcaṃ manaṃ karitvāna, sapadānaṃ kulā kulaṃ; Piṇḍikāya care bhikkhu, guttadvāro susaṃvuto. 579. Với tâm tư hạ mình,. Tiếp tục đi từng nhà, Tỷ-kheo sống khất thực, Căn hộ, khéo chế ngự. 579. Sau khi làm cho tâm hạ thấp xuống, vị tỳ khưu nên đi khất thực theo tuần tự từ nhà này đến nhà khác, có cánh cửa (của các giác quan) được canh phòng, khéo được thu thúc.
580. ‘‘Lūkhenapi vā [lūkhenapi ca (bahūsu)] santusse, nāññaṃ patthe rasaṃ bahuṃ; Rasesu anugiddhassa, jhāne na ramatī mano. 580. Bằng lòng món ăn thô,. Không tìm nhiều vị khác; Nếu tham đắm các vị, Ý không vui tu thiền. 580. Nên hoan hỷ với vật dầu tồi tàn, không nên mong mỏi nhiều vị nếm khác. Đối với vị bị tham đắm ở các vị nếm, tâm của vị ấy không thích thú trong việc tham thiền.
581. ‘‘Appiccho ceva santuṭṭho, pavivitto vase muni; Asaṃsaṭṭho gahaṭṭhehi, anāgārehi cūbhayaṃ. 581. Ít dục và biết đủ,. Ẩn sĩ sống viễn ly, Không thân cận cả hai, Tại gia và xuất gia. 581. Vị hiền trí nên sống, có ít ham muốn, và tự hoan hỷ (tri túc), được tách biệt, và không giao tiếp với cả hai hạng tại gia và xuất gia.
582. ‘‘Yathā jaḷo va mūgo va, attānaṃ dassaye tathā; Nātivelaṃ sambhāseyya, saṅghamajjhamhi paṇḍito. 582. Như kẻ ngu, người câm,. Hãy tỏ mình như vậy, Bậc trí giữa chúng Tăng, Chớ có giảng quá dài. 582. Người ngu hoặc người câm như thế nào, nên phô bày bản thân như thế ấy, bậc sáng trí không nên giảng giải ở giữa hội chúng quá dài thời gian.
583. ‘‘Na so upavade kañci, upaghātaṃ vivajjaye; Saṃvuto pātimokkhasmiṃ, mattaññū cassa bhojane. 583. Chớ có chỉ trích ai,. Hãy tránh làm hại ai, Chế ngự trong giới bổn, Tiết độ trong ăn uống. 583. Vị ấy không nên khiển trách bất cứ người nào, nên tránh xa việc hãm hại, được thu thúc trong giới bổn Pātimokkha, và nên biết chừng mực về vật thực.
584. ‘‘Suggahītanimittassa, cittassuppādakovido; Samaṃ anuyuñjeyya, kālena ca vipassanaṃ. 584. Khéo nắm giữ các tướng,. Thiện xảo tâm diễn khởi, Chú tâm vào tịnh chỉ, Đúng thời tu thiền quán. 584. Được rành rẽ về việc làm sanh khởi đối với tâm, đối với hiện tướng đã được nắm lấy, nên gắn bó với chỉ tịnh và minh sát đúng theo thời điểm.
585. ‘‘Vīriyasātaccasampanno, yuttayogo sadā siyā; Na ca appatvā dukkhantaṃ, vissāsaṃ eyya paṇḍito. 585. Đủ tinh tấn nhẫn nại,. Luôn chuyên chú bổn phận, Chưa đạt được khổ diệt, Kẻ trí tin tưởng tiến. 585. Được đầy đủ sự liên tục về tinh tấn, nên luôn luôn có sự tu luyện được gắn bó, và khi chưa đạt đến sự chấm dứt của khổ, vị sáng trí không nên đi đến sự quả quyết.
586. ‘‘Evaṃ viharamānassa, suddhikāmassa bhikkhuno; Khīyanti āsavā sabbe, nibbutiñcādhigacchatī’’ti. 586. Tỷ-kheo muốn thanh tịnh,. Sống nếp sống như vậy, Mọi lậu hoặc đoạn tận, Chứng được tối tịch tịnh. 586. Đối với vị tỳ khưu có ước muốn về sự thanh tịnh, trong khi sống như vậy, tất cả các lậu hoặc của vị ấy được cạn kiệt, và (vị ấy) chứng đắc sự Tịch Tịnh.”
  Như vậy vị Trưởng lão, trong khi giảng dạy vị Tỷ-kheo, nêu rõ quả chứng của mình và nói lên chánh trí.  
…  Upaseno vaṅgantaputto thero….   Đại đức trưởng lão Upasena Vaṅgantaputta đã nói những lời kệ như thế.
7. (Apara)-gotamattheragāthā (CCXXXIX) Gotama (Thera. 61) Kệ ngôn của trưởng lão Gotama khác.
  Sanh ở Sàvatthi trước khi đức Phật ra đời, trong một gia đình Bà-la-môn từ Udicca. Ngài lớn lên, rất giỏi các tập Vệ đà và là một vị hùng biện vô địch.  
  Rồi Thế Tôn ra đời, chuyển bánh xe pháp sau khi hóa độ Yasa với các người bạn, đã đi đến Sàvatthi theo lời mời khẩn thiết của Anàthapindika (Cấp-cô-độc) Bà-la-môn Gotama thấy Thế Tôn, nghe pháp và xin xuất gia. Theo chỉ giáo của bậc Đạo Sư, ngài được một Tỷ-kheo độ cho xuất gia, và được chứng quả A-la-hán trong khi đang cạo tóc. Sau khi sống một thời gian dài ở nước Kosala, ngài trở về Sàvatthi. Nhiều bà con của ngài, một số Bà-la-môn nổi tiếng đến viếng ngài và hỏi ngài những giáo lý chỉ đạo nào là phổ thông mà ngài nghĩ là cần phải thực hành. Ngài nói với họ như sau:  
587. ‘‘Vijāneyya sakaṃ atthaṃ, avalokeyyātha pāvacanaṃ; Yañcettha assa patirūpaṃ, sāmaññaṃ ajjhupagatassa. 587. Hãy biết hạnh phúc mình,. Quan sát lời nghe giảng, Đây cái gì thích hợp, Sa-môn hạnh mình theo. 587. “Nên nhận thức về mục đích của mình, nên xem xét lời Phật dạy, và điều nào ở thế gian này có thể thích hợp đối với người đã đạt đến bản thể Sa-môn.
588. ‘‘Mittaṃ idha ca kalyāṇaṃ, sikkhā vipulaṃ samādānaṃ; Sussūsā ca garūnaṃ, etaṃ samaṇassa patirūpaṃ. 588. Bạn kẻ thiện trong đạo,. Hành học pháp rộng lớn, Khéo nghe bậc Đạo Sư, Đây hợp Sa-môn hạnh. 588. Ở đây, bạn hữu tốt lành, sự thọ trì rộng rãi các việc học tập, và sự vâng lời đối với các bậc thầy; điều này là thích hợp đối với vị Sa-môn.
589. ‘‘Buddhesu sagāravatā, dhamme apaciti yathābhūtaṃ; Saṅghe ca cittikāro, etaṃ samaṇassa patirūpaṃ. 589. Với tâm kính chư Phật,. Trọng Chánh pháp như thật, Và mến quý chư Tăng, Đây hợp Sa-môn đạo. 589. Sự tôn kính đối với chư Phật, sự tôn trọng Giáo Pháp đúng theo thực thể, và sự cung kính Hội Chúng; điều này là thích hợp đối với vị Sa-môn.
590. ‘‘Ācāragocare yutto, ājīvo sodhito agārayho; Cittassa ca saṇṭhapanaṃ, etaṃ samaṇassa patirūpaṃ. 590. Giữ uy nghi, đi lại,. Mạng sống tịnh, không chê, Tư tưởng khéo ổn định, Đây hợp Sa-môn đạo. 590. Được gắn bó với hạnh kiểm và hành xứ, sự nuôi mạng được trong sạch không bị chê trách, và sự chín chắn của tâm; điều này là thích hợp đối với vị Sa-môn.
591. ‘‘Cārittaṃ atha vārittaṃ, iriyāpathiyaṃ pasādaniyaṃ; Adhicitte ca āyogo, etaṃ samaṇassa patirūpaṃ. 591. Điều làm hay không làm,. Uy nghi được ái kính, An trú tăng thượng tâm, Đây hợp Sa-môn đạo. 591. Hạnh kiểm và sự kiêng cữ, oai nghi tạo niềm tin, và sự gắn bó vào tăng thượng tâm; điều này là thích hợp đối với vị Sa-môn.
592. ‘‘Āraññakāni senāsanāni, pantāni appasaddāni; Bhajitabbāni muninā, etaṃ samaṇassa patirūpaṃ. 592. Sàng tọa tại rừng núi,. Xa vắng ít ồn ào, Thân cận bậc Mâu-ni, Đây hợp Sa-môn đạo 592. Các trú xứ ở rừng, xa vắng, có các tiếng động ít ỏi, đáng được vị hiền trí lui tới; điều này là thích hợp đối với vị Sa-môn.
593. ‘‘Sīlañca bāhusaccañca, dhammānaṃ pavicayo yathābhūtaṃ; Saccānaṃ abhisamayo, etaṃ samaṇassa patirūpaṃ. 593. Giới hạnh và học nhiều,. Như thật nghiên cứu pháp, Thiền quán những sự thật, Đây hợp Sa-môn đạo. 593. Giới hạnh, và sự học rộng, sự khảo sát các pháp đúng theo bản thể, sự lãnh hội về các Sự Thật; điều này là thích hợp đối với vị Sa-môn.
594. ‘‘Bhāveyya ca aniccanti, anattasaññaṃ asubhasaññañca; Lokamhi ca anabhiratiṃ, etaṃ samaṇassa patirūpaṃ. 594. Tu quán trên vô thường,. Tưởng vô ngã, bất tịnh, Không ưa thích tục sự, Đây hợp Sa-môn đạo. 594. Và nên tu tập về ‘vô thường,’ tưởng về vô ngã, và tưởng về tử thi, và không thích thú đối với thế gian; điều này là thích hợp đối với vị Sa-môn.
595. ‘‘Bhāveyya ca bojjhaṅge, iddhipādāni indriyāni balāni; Aṭṭhaṅgamaggamariyaṃ, etaṃ samaṇassa patirūpaṃ. 595. Tu tập các Giác chi,. Thần túc, căn là lực, Thu Chánh đạo Tám ngành, Đây hợp Sa-môn đạo. 595. Và nên tu tập các chi phần đưa đến giác ngộ, các nền tảng của thần thông, các quyền, các lực, Thánh Đạo tám chi phần; điều này là thích hợp đối với vị Sa-môn.
596. ‘‘Taṇhaṃ pajaheyya muni, samūlake āsave padāleyya; Vihareyya vippamutto, etaṃ samaṇassa patirūpa’’nti. 596. Mâu-ni bỏ khát ái,. Đập tan gốc lậu hoặc, Hãy an trú giải thoát, Đây hợp Sa-môn đạo. 596. Vỉ hiền trí nên dứt bỏ tham ái, nên phá tan các lậu hoặc luôn cả gốc rễ, nên sống đã được giải thoát; điều này là thích hợp đối với vị Sa-môn.”
  Như vậy, ngài tán thán các hạnh thích hợp với đời sống một ẩn sĩ, đề cao khả năng của Tăng chúng, và chỉ rõ sự bất lực của một ẩn sĩ không theo Chánh pháp.  
  Rồi các Bà-la-môn ấy hoàn toàn chấp nhận giới luật, được an trú trong Chánh pháp.  
…  Gotamo thero…. Dasakanipāto niṭṭhito.   Đại đức trưởng lão Gotama đã nói những lời kệ như thế.
Tatruddānaṃ –   TÓM LƯỢC NHÓM NÀY
Kāḷudāyī ca so thero, ekavihārī ca kappino;   “Vị trưởng lão Kāḷudāyī ấy, vị Ekavihārī, và vị Kappina, vị Cūḷapanthaka, vị Kappa, vị Upasena, và vị Gotama, bảy vị trưởng lão này ở nhóm mười, và ở đây có bảy mươi câu kệ.”
Cūḷapanthako kappo ca, upaseno ca gotamo;   Nhóm Mười được chấm dứt.
Sattime dasake therā, gāthāyo cettha sattatīti.