12. Dvādasamavaggo

Phẩm mười hai

 
Tipitaka.org Việt dịch: HT. Thích Minh Châu Việt dịch: TK. Indacanda
1. Jentattheragāthā (CXI) Jenta (Thera. 16) Kệ ngôn của trưởng lão Jenta.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong nước Magadha (Ma-kiệt-đà), tại làng Jenta, con một vua địa phương. Khi đang còn trẻ, vì nghiệp duyên thúc đẩy, ngài muốn xuất gia, suy tư đến đời sống thoát tục. Ngài nghe bậc Đạo Sư thuyết pháp, rồi xuất gia. Tinh cần tu tập, hân hoan trong thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Suy tư đến quả chứng của mình, nhớ đến những phân vân phải gặp lúc trước, ngài phấn khởi nói lên bài kệ:  
111. ‘‘Duppabbajjaṃ ve duradhivāsā gehā, dhammo gambhīro duradhigamā bhogā; Kicchā vutti no itarītareneva, yuttaṃ cintetuṃ satatamaniccata’’nti.  111. Khó thay, đời xuất gia, Khó thay, đời cư sĩ, Sâu kín thay, Chánh pháp, Khó kiếm thay, tài sản, Lựa chọn thật khó khăn, Nếp sống này, sống khác, Khi tâm trí, luôn luôn, Nghĩ đến lẽ vô thường. 111. “Việc xuất gia quả là khó, các căn nhà là nơi khó cư ngụ, Giáo Pháp là thâm sâu, tài sản là khó đạt được, sự nuôi sống chỉ với vật này vật khác (tùy thuộc vào sự phát sanh) là khó khăn cho chúng tôi, điều thích hợp để thường xuyên suy nghĩ về tính chất vô thường.”
… Jento thero….   Đại đức trưởng lão Jenta đã nói lời kệ như thế.
2. Vacchagottattheragāthā (CXII) Vacchagotta (Thera. 16) Kệ ngôn của trưởng lão Vacchagotta.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con một Bà-la-môn giàu có. Vì có đến bốn vị Trưởng lão tên Vaccha, ngài được gọi là Vacchagotta. Khi đến tuổi trưởng thành, giỏi về Bà-la-môn giáo điển, ngài cảm thấy không thỏa mãn, vì không tìm thấy lõi cây trong sự học hỏi ấy, sau ngài trở thành một du sĩ. Nhờ vậy, ngài gặp bậc Đạo Sĩ, bằng lòng với những câu trả lời, ngài xuất gia, và sau một thời gian, chứng được sáu thắng trí, hân hoan với quả chứng và nếp sống của mình, ngài nói lên bài kệ:  
112. ‘‘Tevijjohaṃ mahājhāyī, cetosamathakovido; Sadattho me anuppatto, kataṃ buddhassa sāsana’’nti.  112. Ta chứng được Ba minh, Đạt được đại thiền định, Tâm chỉ được thiện xảo, Ta đạt được mục đích, Lời Phật dạy làm xong. 111. “Tôi có ba Minh, có thiền chứng lớn lao, rành rẽ về sự vắng lặng của tâm. Mục đích của bản thân đã được tôi thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.”
…  Vacchagotto thero….   Đại đức trưởng lão Vacchagotta đã nói lời kệ như thế.
3.  Vanavacchattheragāthā (CXIII) Vanavaccha (Thera. 16) Kệ ngôn của trưởng lão Vanavaccha.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một Bà-la-môn giàu có ở Ràjagaha (Vuơng Xá), được đặt tên là Vanavaccha. Ngài khởi lòng tin khi bậc Đạo Sư hội kiến với vua Bimbisàra (Bình-sa). Sau ngài xuất gia, chứng quả A-la-hán. Khi đã chứng quả A-la-hán, ngài sống trong rừng, thiên tu hạnh viễn ly, do vậy được gọi là Vanavaccha. Một hôm, ngài muốn giúp ích cho bà con đi đến Ràjagaha, sống trong một chỗ ở nhỏ, và nói với họ nếp sống của mình. Các bà con yêu cầu ngài dùng bài kệ này nói lên ngài ưa thích sống ở rừng núi và hành trì hạnh viễn ly:  
113. ‘‘Acchodikā puthusilā,gonaṅgulamigāyutā; Ambusevālasañchannā, te selā ramayanti ma’’nti. 113. Dưới tảng đá, băng đá. Có nước suối, trong chảy, Có khỉ và có nai, Lai vãng sống gần bên, Cỏ cây bao trùm nước, Núi rừng ấy, ta ưa. 113. “Với nước trong trẻo, với những tảng đá lớn, được lai vãng bởi các con khỉ và nai, được bao phủ bởi rong rêu ẩm ướt, những tảng núi đá ấy khiến tôi thích thú.”
  Bài kệ này trở thành lời nói chánh trí của ngài. Đại đức trưởng lão Vanavaccha đã nói lời kệ như thế.
… Vanavaccho thero….    
4. Adhimuttattheragāthā (XIV) Adhimutta (Thera. 16) Kệ ngôn của trưởng lão Adhimutta.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn giàu có ở Sàvatthi, tên là Adhimutta. Ngài cảm thấy bất mãn khi thấy giáo lý Bà-la-môn không có gì căn bản. Chứng kiến uy nghi đức độ của đức Phật khi tinh xá Kỳ Viên được dâng cúng, ngài xuất gia và không bao lâu chứng quả A-la-hán, ngài giáo giới các Tỷ-kheo sống với ngài, các vị này rất là lực lưỡng, với bài kệ sau đây:  
114. ‘‘Kāyaduṭṭhullagaruno, hiyyamānamhi [hīyamānamhi (sī.)] jīvite; Sarīrasukhagiddhassa, kuto samaṇasādhutā’’ti. 114. Trong nếp sống tâm tư,. Hướng về hạnh từ bỏ, Với thân thể thô lỗ, Nặng nề như thế này, Nếu ham muốn thân thể, Được thọ hưởng các lạc, Từ đâu thành tựu được, Hạnh của bậc Sa-môn? 114. “Trong khi mạng sống đang bị tiêu hoại (dần), đối với kẻ có sự nặng nề và thô kệch ở thân xác, bị tham đắm trong sự khoái lạc của cơ thể, tính chất tốt đẹp của Sa-môn từ đâu mà có?”
…  Adhimutto thero….   Đại đức trưởng lão Adhimutta đã nói lời kệ như thế.
5. Mahānāmattheragāthā (CXV) Mahànàma (Thera. 16) Kệ ngôn của trưởng lão Mahānāma.
  Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh ở Sàvatthi trong gia đình một Bà-la-môn, được đặt tên là Mahànàma, ngài được nghe Thế Tôn thuyết pháp, khởi lòng tin và xuất gia. Lấy một đề tài làm thiền quán, ngài sống trên một ngọn đồi tên là Nesàdka. Không thể chận đứng được các dục tưởng khởi lên, ngài tuyên bố: ‘Đời này của ta có ý nghĩa gì, với tâm tư uế nhiễm như vậy’. Tự nhàm chán với chính mình, ngài leo lên một đỉnh núi, và như muốn lao mình xuống, ngài nói với chính mình như nói với một người khác: ‘Ta sẽ giết nó!’ với bài kệ như sau:  
115. ‘‘Esāvahiyyase pabbatena, bahukuṭajasallakikena [sallakitena (sī.), sallarikena (syā.)]; Nesādakena girinā, yasassinā paricchadenā’’ti. 115. Hãy xem, sao đời nay,. Lại chấm dứt ở đây, Với hòn núi nhiều ngọn, Và nhiều cây cối này? Núi Nesàdaka, Một ngọn núi có danh, Rập rạp với cỏ cây, Che kín trùm tất cả. 115. “Ngươi đây bị thấp kém so với ngọn núi có nhiều bụi rậm và cây cối, ngọn núi đá Nesādaka có danh tiếng với lớp bao phủ.”
  Tự mình trách móc như vậy, vị Trưởng lão phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Bài kệ trên trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài. Đại đức trưởng lão Mahānāma đã nói lời kệ như thế.
…  Mahānāmo thero….    
6. Pārāpariyattheragāthā (CXVI) Pàràpariya (Thera. 17) Kệ ngôn của trưởng lão Pārāsariya.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Ràjagaha (Vương Xá) và trở thành rất giỏi trong ba tập Vệ-đà. Vì ngài thuộc dòng họ Pàràpara, ngài được gọi là Pàràpariya và dạy các bùa chú. Ngài thấy oai nghi đức độ của đức Bổn Sư ở Pàràjagaha, xin xuất gia và chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Nghĩ đến đời sống hành đạo của mình, ngài nói lên sự phấn khởi hân hoan của ngài, ngang qua bài kệ:  
116. ‘‘Chaphassāyatane hitvā, guttadvāro susaṃvuto; Aghamūlaṃ vamitvāna, patto me āsavakkhayo’’ti. 116. Từ bỏ sáu xúc xứ,. Căn môn khéo chế ngự, Gốc tà ác, nhổ sạch, Ta đạt lậu hoặc tận. 116. “Sau khi từ bỏ sáu xúc xứ, với cánh cửa (của các giác quan) được canh phòng, khéo được thu thúc, sau khi loại bỏ gốc rễ của sầu khổ, tôi đã đạt được sự cạn kiệt của các lậu hoặc.”
  Bài kệ này trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài. Đại đức trưởng lão Pārāsariya đã nói lời kệ như thế.
… Pārāpariyo [pārāsariyo (sī.), pāraṃpariyo (ka.)] thero ….    
7. Yasattheragāthā (CXVII) Yasa (Thera. 17) Kệ ngôn của trưởng lão Yasa.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình nhân sĩ rất giàu có ở Benares (Ba-la-nại). Ngài được nuôi dưỡng rất tinh tế, và có ba lâu đài hợp với ba mùa. Một đêm, do nhân duyên quá khứ thúc đẩy ngài thấy cảnh bất tịnh của những người hầu cận ngài. Quá xúc động trước cảnh tượng ấy, ngài đi đôi dép vàng, từ bỏ thành, nhà và được chư Thiên mở cửa thành cho. Ngài đi đến Isipatana (Chư Thiên đọa xứ), vừa đi vừa than ‘Ôi sầu khổ thay! Ôi nguy hiểm thay!’. Lúc ấy, Thế Tôn đang đi ngoài trời ở Isipatana, thấy Yasa như vậy liền gọi: ‘Hãy đến đây, này Yasa! Ở đây, không có sâu khổ, không có nguy hiểm!’. Nghe vậy, ngài rất hoan hỷ, cởi dép để một bên, ngồi xuống bên cạnh Thế Tôn. Bậc Đạo Sư thứ lớp thuyết giảng cho Yasa về Bốn sự thật, khi giảng xong. Ngài trở thành một Phật tử. Và khi đức Phật thuyết giảng cho phụ thân Yasa đến kiếm ngài, ngài chứng quả A-la-hán.  
  Rồi đức Phật đưa bàn tay mặt ra đón Yasa và nói: ‘Hãy đến, này Tỷ-kheo’, khi nói vậy, tóc của Yasa được cắt ngắn lại bằng hai ngón tay và có được đầy đủ tám vật cần dùng. Suy tư đến quả chứng và nếp sống của mình, ngài cảm thấy hân hoan khi nghe hai chữ: ‘Hãy đến đây, Tỷ-kheo’ và nói lên bài kệ:  
117. ‘‘Suvilitto suvasano,sabbābharaṇabhūsito; Tisso vijjā ajjhagamiṃ, kataṃ buddhassa sāsana’’nti. 117. Khéo thoa xức, khéo mặc,. Dùng mọi loại thời trang, Ta chứng được Ba minh Lời Phật dạy làm xong. 117. “Khéo được bôi xức, có y phục đẹp, được điểm tô với mọi thứ trang sức, tôi đã chứng đắc ba Minh; lời dạy của đức Phật đã được thực hành.”
…  Yaso thero….   Đại đức trưởng lão Yasa đã nói lời kệ như thế.
8. Kimilattheragāthā (CXVIII) Kimliba (Thera. 17) Kệ ngôn của trưởng lão Kimbila.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), trong một gia đình một vị vua dòng họ Thích-ca, tên là Kimbila, ngài hưởng được tài sản rất nhiều. Bậc Đạo Sư thấy được thiền quán của ngài chín muồi khi ngài ở Anupiya, để khích lệ ngài, Thế Tôn cho hiện lên một nữ nhân rất đẹp trong tuổi trẻ và làm cho ngài thấy nữ nhân ấy từ tuổi trẻ bước qua tuổi già. Kimbila thấy vậy rất xúc động và nói lên bài kệ:  
118. ‘‘Abhisattova nipatati, vayo rūpaṃ aññamiva tatheva santaṃ; Tasseva sato avippavasato, aññasseva sarāmi attāna’’nti. 118. Như bị lời trù yếm,. Tuổi già đến áp đảo, Dung sắc bị đổi khác, Nhưng cũng dung sắc trước; Vị ấy như thế nào, Không có gì thay đổi, Nhưng ta chớ tự ngã, Có gì đã đổi khác. 118. “Tuổi tác áp đặt lên như là đã được ra lệnh, sắc thân trong khi vẫn là vậy lại tựa như cái khác. Tôi nhớ về bản thân như là của cái khác, trong khi vẫn chính là cái ấy, không có tách lìa.”
  Nghĩ đến lẽ vô thường, ngài cảm thấy dao động mạnh, và đi đến bậc Đạo Sư, nghe pháp, xuất gia và sau một thời gian, chứng quả A-la-hán. Ngài nhấn mạnh cái nhìn thường hằng trước của ngài đối với sự vật, và nói lại bài kệ, này như nói lên chánh trí của ngài. Đại đức trưởng lão Kimbila đã nói lời kệ như thế.
… Kimilo [kimbilo (sī. syā.)] thero….    
9. Vajjiputtattheragāthā (CXIX) Vajji-Putta (Thera. 17) Kệ ngôn của trưởng lão Vajjiputta.
  Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh làm con một vị vua Licchaivì ở Vesàli, và được gọi là con của Vajji, vì phụ thân thuộc về dòng họ này. Khi còn trẻ, thiên về huấn luyện voi, thúc đẩy bởi nhân duyên chín muồi để giải thoát, ngài đi đến tinh xá đúng lúc bậc Đạo Sư thuyết giảng, sau khi nghe, ngài xuất gia, sau một thời gian chứng sáu thắng trí.  
  Sau một thời gian, sau khi bậc Đạo Sư vừa nhập Niết-bàn, ngài cùng với các bậc Trưởng lão thỏa thuận cố gắng duy trì Chánh pháp không có suy suyển, và cùng với các vị Trưởng lão đi từ chỗ này đến chỗ kia. Một hôm ngài thấy Tôn giả Ananda đang thuyết pháp cho một số đông người, để khích lệ Tôn giả Ananda chứng quả cao hơn, ngài nói lên bài kệ này:  
119. ‘‘Rukkhamūlagahanaṃ pasakkiya, nibbānaṃ hadayasmiṃ opiya; Jhāya gotama mā ca pamādo, kiṃ te biḷibiḷikā karissatī’’ti. 119. Hãy đi đến khu rừng,. Rậm rạp những rễ cây, Hãy để cho Niết-bàn, Chìm sâu vào tâm người, Hỡi này Go-ta-ma! Hãy tu tập thiền định, Việc làm lăng xăng này, Có nghĩa gì cho ông. 119. “Này vị dòng dõi Gotama (Ānanda), hãy đi đến bụi rậm ở gốc cây, hãy đặt Niết Bàn ở trong tâm, hãy tham thiền và chớ có xao lãng, việc nói năng sẽ làm được gì cho ngươi?”
…  Vajjiputto thero….   Đại đức trưởng lão Vajjiputta đã nói lời kệ như thế.
10. Isidattattheragāthā (CXX) Isidatta (Thera. 17) Kệ ngôn của trưởng lão Isidatta.
  Trong thời đức Phật tại thế, ngài sanh trong xứ Avanti, tại vườn Velugàma, làm con một người lữ hành trưởng, ngài trở thành bạn của Citta, một gia chủ ở Macchikasanda, bằng cách giao thiệp thư từ đầu cho hai người chưa gặp nhau. Citta viết cho ngài về sự tuyệt diệu của đức Phật, gửi cho ngài tư liệu về tổ chức giáo hội, ngài cảm thấy xúc động mạnh và xin xuất gia, với sự chỉ đạo của Mahà Kaccàna (Đại Ca-chiên-diên). Cuối cùng ngài chứng được sáu thắng trí, ngài quyết định đi đến yết kiến đức Phật, từ biệt Trưởng lão, và đi đến xứ Trung biên (thung lũng sông Hằng) yết kiến đức Bổn sư. Bậc Đạo Sư hỏi ngài về sự tiến bộ trên đường tu hành, ngài trả lời: ‘Từ khi con tu tập trong Pháp và Luật của Ngài, mọi sầu khổ đều chấm dứt, và con sống không có sợ hãi’. Rồi ngài nói lên chánh trí của mình với bài kệ như sau:  
120. ‘‘Pañcakkhandhā pariññātā, tiṭṭhanti chinnamūlakā; Dukkhakkhayo anuppatto,patto me āsavakkhayo’’ti. 120. Năm uẩn được rõ biết,. Đứng với rễ chặt đứt, Khổ diệt đã đạt được, Lậu hoặc diệt, ta chứng. 120. “Năm uẩn đã được biết toàn diện, chúng tồn tại với gốc rễ đã bị cắt đứt, tôi đã đạt đến sự cạn kiệt của khổ đau, đã đạt được sự cạn kiệt của các lậu hoặc.”
…  Isidatto thero…. Vaggo dvādasamo niṭṭhito.   Đại đức trưởng lão Isidatta đã nói lời kệ như thế.
Tassuddānaṃ –   Phẩm thứ mười hai.
Jento ca vacchagotto ca, vaccho ca vanasavhayo;   TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Adhimutto mahānāmo, pārāpariyo yasopi ca;   “Vị Jenta, và vị Vacchagotta, và vị Vaccha có tên là Vana, vị Adhimutta, vị Mahānāma, vị Pārāsariya, và luôn cả vị Yasa, vị Kimbila, và vị Vajjiputta, vị Isidatta có danh tiếng lớn lao.”
Kimilo vajjiputto ca, isidatto mahāyasoti.   TÓM LƯỢC NHÓM NÀY
Ekakanipāto niṭṭhito.   “Một trăm hai mươi vị trưởng lão có phận sự đã làm xong, không còn lậu hoặc, đã khéo được đọc tụng bởi các vị đại trí thức ở nhóm chỉ có một kệ ngôn.”
Tatruddānaṃ –   Nhóm một được chấm dứt.
Vīsuttarasataṃ therā, katakiccā anāsavā;    
Ekakeva nipātamhi, susaṅgītā mahesibhīti.