Tipitaka.org | Việt dịch: HT. Thích Minh Châu | Việt dịch: TK. Indacanda |
Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati pubbārāme migāramātupāsāde. Tena kho pana samayena bhagavā tadahuposathe pannarase puṇṇāya puṇṇamāya rattiyā bhikkhusaṅghaparivuto abbhokāse nisinno hoti . Atha kho bhagavā tuṇhībhūtaṃ tuṇhībhūtaṃ bhikkhusaṅghaṃ anuviloketvā bhikkhū āmantesi – | Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Đông Viên, tại lâu đài mẹ của Migàra. Lúc bấy giờ, trong ngày trai giới Uposatha, vào ngày rằm, trăng tròn, trong đêm rằm, Thế Tôn ngồi giữa trời với chúng Tỷ-kheo đoanh vây. Rồi Thế Tôn nhìn xung quanh chúng Tỷ-kheo đang yên lặng, nói với các Tỷ-kheo: | Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, tu viện Pubba, ở tòa nhà dài của Mẹ của Migāra Vào lúc bấy giờ, nhằm ngày Uposatha, vào ngày mười lăm, trong đêm trăng tròn vằng vặc, đức Thế Tôn ngồi ở ngoài trời, được vây quanh bởi hội chúng tỳ khưu. Khi ấy, sau khi xem xét thấy hội chúng tỳ khưu có trạng thái im lặng hoàn toàn, đức Thế Tôn đã bảo các vị tỳ khưu rằng: |
‘‘‘Ye te, bhikkhave, kusalā dhammā ariyā niyyānikā sambodhagāmino, tesaṃ vo, bhikkhave, kusalānaṃ dhammānaṃ ariyānaṃ niyyānikānaṃ sambodhagāmīnaṃ kā upanisā savanāyā’ti iti ce, bhikkhave, pucchitāro assu, te evamassu vacanīyā – ‘yāvadeva dvayatānaṃ dhammānaṃ yathābhūtaṃ ñāṇāyā’ti. Kiñca dvayataṃ vadetha? | – Này các Tỷ-kheo, phàm có những thiện pháp nào thuộc bậc Thánh có khả năng hướng thượng, đưa đến giác ngộ; này các Tỷ-kheo, đối với các thiện pháp thuộc bậc Thánh có khả năng hướng thượng đưa đến giác ngộ ấy do lý do gì các Thầy nghe những pháp ấy? Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thể được hỏi như vậy, các Thầy có thể trả lời cho những người câu hỏi ấy như sau: “Vì muốn có như thật trí đối với hai pháp”. Và nếu các Thầy nói: “Thế nào là hai?”. | “Này các tỳ khưu, các pháp thiện nào là cao thượng, dẫn dắt ra khỏi, đưa đến giác ngộ, này các tỳ khưu, lý do gì khiến các ngươi lắng nghe các pháp thiện, cao thượng, dẫn dắt ra khỏi, đưa đến giác ngộ ấy? Này các tỳ khưu, nếu có những người hỏi như thế, những người ấy nên được nói như vầy: ‘Chỉ để đưa đến sự nhận biết đúng theo bản thể đối với các pháp có hai khía cạnh.’ ‘Và các vị nói cái gì là hai khía cạnh?’ |
(1) ‘‘Idaṃ dukkhaṃ, ayaṃ dukkhasamudayoti ayamekānupassanā. Ayaṃ dukkhanirodho, ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadāti, ayaṃ dutiyānupassanā. Evaṃ sammā dvayatānupassino kho, bhikkhave, bhikkhuno appamattassa ātāpino pahitattassa viharato dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ phalaṃ pāṭikaṅkhaṃ – diṭṭheva dhamme aññā, sati vā upādisese anāgāmitā’’ti. | – “Đây là khổ, đây là khổ tập”, đây là tuỳ quán thứ nhất. “Đây là khổ diệt, đây là con đường đưa đến khổ diệt”, đây là tùy quán thứ hai. Này các Tỷ-kheo, như vậy do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp, không có phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, được chờ đợi là một trong hai quả sau đây: Được chánh trí ngay trong hiện tại, và nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn. | ‘Đây là Khổ, đây là Nguyên Nhân của Khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Đây là sự Diệt Khổ, đây là sự Thực Hành theo Con Đường đưa đến sự Diệt Khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì. Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh một cách đúng đắn như vậy, không bị xao lãng, có nhiệt tâm, có bản tánh cương quyết, một quả báu nào đó trong hai quả báu là điều chờ đợi: trí giải thoát ở đời hiện tại, hoặc nếu còn dư sót thì phẩm vị Bất Lai.” |
Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā – | Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Đạo Sư lại nói thêm: | Đức Thế Tôn đã nói điều này. Sau khi nói điều này, đấng Thiện Thệ, bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: |
729. ‘‘Ye dukkhaṃ nappajānanti, atho dukkhassa sambhavaṃ; Yattha ca sabbaso dukkhaṃ, asesaṃ uparujjhati; Tañca maggaṃ na jānanti, dukkhūpasamagāminaṃ. | 724. Ai không tuệ tri khổ,. Và hiện hữu của khổ, Và chỗ khổ hoàn toàn Được đoạn tận không dư, Vị ấy không biết đường, Đưa đến khổ an tịnh. | 727. “Những người nào không nhận biết khổ, rồi nguồn sanh khởi của khổ, và nơi nào khổ được tiêu hoại toàn bộ không dư sót, và không biết về đạo lộ ấy, (đạo lộ) đưa đến sự yên lặng của khổ. |
730. ‘‘Cetovimuttihīnā te, atho paññāvimuttiyā; Abhabbā te antakiriyāya, te ve jātijarūpagā. | 725. Không có tâm giải thoát,. Không có tuệ giải thoát, Vị ấy không có thể Đoạn tận sanh và già. | 728. Những người ấy là thấp kém về sự giải thoát của tâm, rồi sự giải thoát của tuệ, những người ấy không thể thực hiện việc chấm dứt, quả thật họ đi đến sanh và già. |
731. ‘‘Ye ca dukkhaṃ pajānanti, atho dukkhassa sambhavaṃ; Yattha ca sabbaso dukkhaṃ, asesaṃ uparujjhati; Tañca maggaṃ pajānanti, dukkhūpasamagāminaṃ. | 726. Những ai tuệ tri khổ. Và hiện hữu của khổ Và chỗ khổ hoàn toàn Được đoạn tận không dư, Vị ấy biết con đường, Đưa đến khổ an tịnh. | 729. Và những người nào nhận biết khổ, rồi nguồn sanh khởi của khổ, và nơi nào khổ được tiêu hoại toàn bộ không dư sót, và nhận biết đạo lộ ấy, (đạo lộ) đưa đến sự yên lặng của khổ. |
732. ‘‘Cetovimuttisampannā, atho paññāvimuttiyā; Bhabbā te antakiriyāya, na te jātijarūpagā’’ti. | 727. Đầy đủ tâm giải thoát,. Với trí tuệ giải thoát, Những vị ấy có thể Với trí tuệ giải thoát, Đoạn tận sanh và già. | 730. Những người ấy thành tựu sự giải thoát của tâm, rồi sự giải thoát của tuệ, những người ấy có thể thực hiện việc chấm dứt, quả thật họ không đi đến sanh và già.” |
(2) ‘‘‘Siyā aññenapi pariyāyena sammā dvayatānupassanā’ti, iti ce, bhikkhave, pucchitāro assu; ‘siyā’tissu vacanīyā. Kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ upadhipaccayāti, ayamekānupassanā. Upadhīnaṃ tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā. Evaṃ sammā…pe… athāparaṃ etadavoca satthā – | Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: “Có thể có chân chánh tuỳ quán hai pháp, theo một pháp môn khác không?” Các Thầy cần phải trả lời: “Có thể có”. Có thể có như thế nào? “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên sanh y”, đây là tuỳ quán pháp thứ nhất. “Do sự đoạn diệt, ly tham, các sanh y không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán thứ hai. – Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tuỳ quán hai pháp, không có phóng dật, nhiệt tâm tinh cần, được chờ đợi là một trong hai quả sau đây: Được chánh trí ngay trong hiện tại, và nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn. Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Đạo Sư lại nói thêm: | ‘Có thể có sự quán xét hai khía cạnh một cách đúng đắn bằng một phương thức khác,’ này các tỳ khưu, nếu có những người hỏi như thế, những người ấy nên được nói như vầy: ‘Có thể.’ Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do mầm tái sanh là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của các mầm tái sanh, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì. (Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: |
733. ‘‘Upadhinidānā pabhavanti dukkhā, ye keci lokasmimanekarūpā; Yo ve avidvā upadhiṃ karoti, punappunaṃ dukkhamupeti mando; Tasmā pajānaṃ upadhiṃ na kayirā, dukkhassa jātippabhavānupassī’’ti. | 728. Chính do duyên sanh y, Các khổ được sanh khởi, Tất cả các khổ đau, Sai biệt ở trên đời, Ai chính do vô minh Tạo lên sự sanh y, Kẻ ngu ấy gặp khổ Nối tiếp nhau sanh trưởng, Do vậy vị hiểu biết, Không tạo lên sanh y, Tuỳ quán được hiện hữu Của sanh và của khổ. | 731. “Bất cứ các khổ nào, với nhiều hình thức, phát khởi ở thế gian đều có mầm tái sanh là căn nguyên. Thật vậy, kẻ ngu nào, không biết, tạo ra mầm tái sanh, (sẽ) đi đến khổ lần này lần khác. Vì thế, người có sự quán xét về sự sanh ra và phát khởi của khổ, trong khi nhận biết, không nên tạo ra mầm tái sanh.” |
(3) ‘‘‘Siyā aññenapi pariyāyena sammā dvayatānupassanā’ti, iti ce, bhikkhave, pucchitāro assu; ‘siyā’tissu vacanīyā. Kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ avijjāpaccayāti, ayamekānupassanā. Avijjāya tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā. Evaṃ sammā…pe… athāparaṃ etadavoca satthā –. | Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: “Có thể có chân chánh tùy quán hai pháp theo một pháp môn khác không?” Các Thầy cần phải trả lời: “Có thể có”. Có thể có như thế nào? “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên vô minh”, đây là tùy quán thứ nhất. “Do đoạn diệt, ly tham, vô minh không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp, không có phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, được chờ đợi là một trong hai quả sau đây: Được chánh trí ngay trong hiện tại, và nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn. Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Đạo sư lại nói thêm: | ‘Có thể có sự quán xét hai khía cạnh một cách đúng đắn bằng một phương thức khác,’ này các tỳ khưu, nếu có những người hỏi như thế, những người ấy nên được nói như vầy: ‘Có thể.’ Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do vô minh là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của vô minh, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì. (Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: |
734. ‘‘Jātimaraṇasaṃsāraṃ , ye vajanti punappunaṃ; Itthabhāvaññathābhāvaṃ, avijjāyeva sā gati. | 729. Những ai tiếp tục rơi,. Dòng luân chuyển sanh tử, Đến hữu này hữu khác, Sanh thú do vô minh. | 732. “Những người nào đi đến sanh, tử, luân hồi lần này lần khác, đến sự hiện hữu này và sự hiện hữu khác, tiến trình ấy là do chính vô minh. |
735. ‘‘Avijjā hāyaṃ mahāmoho, yenidaṃ saṃsitaṃ ciraṃ; Vijjāgatā ca ye sattā, na te gacchanti [nāgacchanti (sī. pī.)] punabbhava’’nti. | 730. Vô minh này, đại si,. Đưa đến luân chuyển dài, Chúng sanh, minh đạt được, Không còn phải tái sanh. | 733. Bởi vì vô minh này là sự mê muội lớn lao, do nó việc bị luân hồi này là lâu dài. Và những chúng sanh nào đạt được minh, họ không đi đến sự hiện hữu lại nữa.” |
(4) ‘‘Siyā aññenapi…pe… kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ saṅkhārapaccayāti, ayamekānupassanā. Saṅkhārānaṃ tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā. Evaṃ sammā…pe… athāparaṃ etadavoca satthā –. | Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:… “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên các hành”, đây là tuỳ quán pháp thứ nhất. “Do đoạn diệt, ly tham, các hành không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Đạo sư lại nói thêm: | ‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do các hành là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của các hành, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì. (Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: |
736. ‘‘Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti, sabbaṃ saṅkhārapaccayā; Saṅkhārānaṃ nirodhena, natthi dukkhassa sambhavo. | 731. Phàm khổ gì hiện hữu,. Tất cả duyên các hành, Do đoạn diệt các hành, Khổ không có hiện hữu. | 734. “Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do các hành là duyên. Do sự diệt tận của các hành, không có sự hình thành của khổ. |
737. ‘‘Etamādīnavaṃ ñatvā, dukkhaṃ saṅkhārapaccayā; Sabbasaṅkhārasamathā, saññānaṃ uparodhanā; Evaṃ dukkhakkhayo hoti, etaṃ ñatvā yathātathaṃ. | 732. Do biết nguy hiểm này,. Khổ do duyên các hành, Tịnh chỉ tất cả hành, Do phá hoại các tưởng, Như vậy, khổ được diệt, Biết như thực là vậy. | 735. Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) khổ do các hành là duyên. Do sự yên lặng của tất cả các hành, do sự ngưng lại của tưởng, như vậy có sự cạn kiệt của khổ, sau khi biết điều này đúng theo thực thể … |
738. ‘‘Sammaddasā vedaguno, sammadaññāya paṇḍitā; Abhibhuyya mārasaṃyogaṃ, na gacchanti [nāgacchanti (sī. pī.)] punabbhava’’nti. | 733. Bậc Hiền trí chánh kiến,. Hiểu biết, với chánh trí, Nhiếp phục Ma kiết sử, Không đi đến tái sanh. | 736. … các bậc đạt được sự thông hiểu đã nhìn thấy đúng đắn; với sự nhận biết đúng đắn, các bậc sáng suốt, sau khi chế ngự sự ràng buộc của Ma Vương, không đi đến sự hiện hữu lại nữa.” |
(5) ‘‘Siyā aññenapi…pe… kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ viññāṇapaccayāti, ayamekānupassanā. Viññāṇassa tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā. Evaṃ sammā…pe… athāparaṃ etadavoca satthā –. | Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:… “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên thức”, đây là tùy quán pháp thứ nhất. “Do đoạn diệt, ly tham thức không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp, bậc Đạo sư lại nói thêm: | ‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do thức là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của thức, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì. (Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: |
739. ‘‘Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti, sabbaṃ viññāṇapaccayā; Viññāṇassa nirodhena, natthi dukkhassa sambhavo. | 734. Phàm khổ gì hiện hữu,. Tất cả do duyên thức, Với thức được đoạn diệt, Khổ không có hiện hữu. | 737. “Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do thức là duyên. Do sự diệt tận của thức, không có sự hình thành của khổ. |
740. ‘‘Etamādīnavaṃ ñatvā, dukkhaṃ viññāṇapaccayā; Viññāṇūpasamā bhikkhu, nicchāto parinibbuto’’ti. | 735. Do biết nguy hiểm hày,. Khổ do duyên các thức, Tỷ-kheo tịnh chỉ thức, Không dục ái, tịch tịnh. | 738. Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) khổ do thức là duyên, do sự yên tịnh của thức, vị tỳ khưu không còn sự khao khát, được hoàn toàn tịch tịnh.” |
(6) ‘‘Siyā aññenapi…pe… kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ phassapaccayāti, ayamekānupassanā. Phassassa tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā. Evaṃ sammā…pe… athāparaṃ etadavoca satthā –. | Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:…. “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên xúc”, đây là pháp tùy quán thứ nhất. “Do đoạn diệt, ly tham xúc không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Đạo Sư lại nói thêm: | ‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do xúc là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của xúc, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì. (Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: |
741. ‘‘Tesaṃ phassaparetānaṃ, bhavasotānusārinaṃ; Kummaggapaṭipannānaṃ, ārā saṃyojanakkhayo. | 736. Những ai, xúc chi phối,. Chạy theo dòng sanh hữu, Những người hành tà đạo, Xa vời diệt kiết sử. | 739. “Đối với những người bị quấy nhiễu bởi (sáu) xúc, có sự xuôi theo dòng chảy của hiện hữu, đang thực hành đường lối xấu xa, sự cạn kiệt các mối ràng buộc là xa xôi. |
742. ‘‘Ye ca phassaṃ pariññāya, aññāyupasame [paññāya upasame (syā.)] ratā; Te ve phassābhisamayā, nicchātā parinibbutā’’ti. | 737. Những ai liễu tri xúc,. Nhờ trí, thích an tịnh, Do họ thắng tri xúc, Không dục ái, tịch tịnh. | 740. Và những người nào, sau khi biết toàn diện về xúc, được thích thú ở sự an tịnh nhờ vào trí hiểu biết, những người ấy, thật vậy, do sự lãnh hội về xúc, không còn sự khao khát, được hoàn toàn tịch tịnh.” |
(7) ‘‘Siyā aññenapi…pe… kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ vedanāpaccayāti, ayamekānupassanā. Vedanānaṃ tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā. Evaṃ sammā…pe… athāparaṃ etadavoca satthā –. | Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:… “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên thọ”, đây là pháp tùy quán thứ nhất. “Do đoạn diệt, ly tham thọ không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Đạo Sư lại nói thêm: | ‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do thọ là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của thọ, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì. (Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: |
743. ‘‘Sukhaṃ vā yadi vā dukkhaṃ, adukkhamasukhaṃ saha; Ajjhattañca bahiddhā ca, yaṃ kiñci atthi veditaṃ. | 738. Với lạc thọ, khổ thọ,. Hay bất khổ, bất lạc; Nội thọ và ngoại thọ, Phàm có cảm thọ gì. | 741. “Bất cứ điều gì có sự được cảm thọ, dầu là lạc hay là khổ, (hay là) với không khổ không lạc, ở nội phần và ở ngoại phần, … |
744. ‘‘Etaṃ dukkhanti ñatvāna, mosadhammaṃ palokinaṃ [palokitaṃ (sī.)]; Phussa phussa vayaṃ passaṃ, evaṃ tattha vijānati [virajjati (ka. sī.)]; Vedanānaṃ khayā bhikkhu, nicchāto parinibbuto’’ti. | 739. Biết được đây là khổ,. Giả dối bị hủy hoại. Thấy các xúc hoại diệt, Như vậy, đây ly tham, Tỷ-kheo diệt các thọ, Không dục ái, tịch tịnh. | 742. … Sau khi biết được ‘điều ấy là khổ, có tính chất giả trá, bị đổ vỡ, trong khi nhìn thấy sự hoại diệt sau mỗi lượt xúc chạm và nhận thức như vậy tại nơi ấy, do sự cạn kiệt của các thọ, vị tỳ khưu không còn sự khao khát, được hoàn toàn tịch tịnh.” |
(8) ‘‘Siyā aññenapi…pe… kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ taṇhāpaccayāti, ayamekānupassanā. Taṇhāya tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā. Evaṃ sammā…pe… athāparaṃ etadavoca satthā –. | Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:… “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên ái”, đây là pháp tùy quán thứ nhất. “Do đoạn diệt, ly tham ái, không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chán tùy quán hai pháp. Bậc Đạo Sư lại nói thêm: | ‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do ái là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của ái, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì. (Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: |
745. ‘‘Taṇhādutiyo puriso, dīghamaddhāna saṃsaraṃ; Itthabhāvaññathābhāvaṃ, saṃsāraṃ nātivattati. | 740. Người có ái bạn đường,. Bị luân chuyển dài dài, Đến hữu này, hữu khác, Luân chuyển không dừng nghỉ. | 743. “Có tham ái là bạn lữ, trong khi luân chuyển một thời gian dài đến sự hiện hữu này và sự hiện hữu khác, con người không vượt qua được luân hồi. |
746. ‘‘Etamādīnavaṃ ñatvā, taṇhaṃ [taṇhā (bahūsu) itivuttake 15 passitabbaṃ] dukkhassa sambhavaṃ; Vītataṇho anādāno, sato bhikkhu paribbaje’’ti. | 741. Do biết nguy hiểm nầy,. Chính ái tác thành khổ, Ly ái, không chấp thủ, Chánh niệm, Tỷ-kheo hành. | 744. Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) tham ái là nguồn sanh khởi của khổ, vị tỳ khưu có tham ái đã được xa lìa, không có nắm giữ, có niệm, nên ra đi du phương.” |
(9) ‘‘Siyā aññenapi…pe… kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ upādānapaccayāti, ayamekānupassanā. Upādānānaṃ [upādānassa (syā. ka.)] tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā. Evaṃ sammā…pe… athāparaṃ etadavoca satthā – | Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:…. “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên thủ”, đây là pháp tùy quán thứ nhất. “Do đoạn diệt, ly tham thủ không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Đạo Sư lại nói thêm: | ‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do thủ là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của thủ, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì. (Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: |
747. ‘‘Upādānapaccayā bhavo, bhūto dukkhaṃ nigacchati; Jātassa maraṇaṃ hoti, eso dukkhassa sambhavo. | 742. Do duyên thủ, có hữu,. Do hữu, đi đến khổ, Từ sanh nên có chết, Đây hiện hữu của khổ. | 745. “Do thủ là duyên, có hữu. Ngưỡi đã được hiện hữu phải chịu khổ. Có cái chết dành cho người đã được sanh ra; điều ấy là nguồn sanh khởi của khổ. |
748. ‘‘Tasmā upādānakkhayā, sammadaññāya paṇḍitā; Jātikkhayaṃ abhiññāya, na gacchanti punabbhava’’nti. | 743. Do vậy, bậc Hiền trí,. Diệt thủ, nhờ chánh trí, Nhờ thắng trí sanh diệt, Không đi đến tái sanh. | 746. Vì thế, do sự cạn kiệt của thủ, các bậc sáng suốt, với sự nhận biết đúng đắn, sau khi biết rõ sự cạn kiệt của sanh, không đi đến sự hiện hữu lại nữa.” |
(10) ‘‘Siyā aññenapi…pe… kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ ārambhapaccayāti, ayamekānupassanā. Ārambhānaṃ tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā. Evaṃ sammā…pe… athāparaṃ etadavoca satthā – | Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:… “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên khởi xướng”, đây là pháp tùy quán thứ nhất. “Do đoạn diệt ly tham khởi xướng không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Đạo Sư lại nói thêm: | ‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do sự khởi động (gắn liền với nghiệp) là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của sự khởi động, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì. (Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: |
749. ‘‘Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti, sabbaṃ ārambhapaccayā; Ārambhānaṃ nirodhena, natthi dukkhassa sambhavo. | 744. Phàm khổ gì hiện hữu,. Tất cả duyên khởi xướng, Do đoạn diệt khởi xướng, Khổ không có hiện hữu. | 747. “Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do sự khởi động là duyên. Do sự diệt tận của sự khởi động, không có sự hình thành của khổ. |
750. ‘‘Etamādīnavaṃ ñatvā, dukkhaṃ ārambhapaccayā; Sabbārambhaṃ paṭinissajja, anārambhe vimuttino. | 745. Do biết nguy hiểm này,. Khổ do duyên khởi xướng, Từ bỏ mọi khởi xướng, Không khởi xướng, giải thoát. | 748. Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) khổ do sự khởi động là duyên, sau khi từ bỏ mọi sự khởi động, đối với vị đã giải thoát khỏi sự khởi động, … |
751. ‘‘Ucchinnabhavataṇhassa, santacittassa bhikkhuno; Vikkhīṇo [vitiṇṇo (sī.)] jātisaṃsāro, natthi tassa punabbhavo’’ti. | 746. Do đoạn tận hữu ái,. Tâm Tỷ-kheo tịch tịnh, Vượt khỏi sanh luân chuyển Vị ấy không tái sanh. | 749. … đối với vị tỳ khưu có hữu ái đã được trừ tuyệt, có tâm an tịnh, việc luân hồi tái sanh đã được triệt tiêu, đối với vị ấy không có sự hiện hữu lại nữa.” |
(11) ‘‘Siyā aññenapi…pe… kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ āhārapaccayāti, ayamekānupassanā. Āhārānaṃ tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā. Evaṃ sammā…pe… athāparaṃ etadavoca satthā – | Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:… “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên thức ăn”, đây là pháp tùy quán quán thứ nhất. “Do đoạn diệt, ly tham thức ăn không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Đạo Sư lại nói thêm: | ‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do dưỡng chất là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của các dưỡng chất, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì. (Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: |
752. ‘‘Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti, sabbaṃ āhārapaccayā; Āhārānaṃ nirodhena, natthi dukkhassa sambhavo. | 747. Phàm khổ gì hiện hữu,. Tất cả duyên thức ăn, Do đoạn diệt thức ăn, Khổ không có hiện hữu. | 750. “Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do dưỡng chất là duyên. Do sự diệt tận của các dưỡng chất, không có sự hình thành của khổ. |
753. ‘‘Etamādīnavaṃ ñatvā, dukkhaṃ āhārapaccayā; Sabbāhāraṃ pariññāya, sabbāhāramanissito. | 748. Do biết nguy hiểm này,. Khổ do duyên thức ăn, Liễu tri mọi thức ăn, Không y mọi thức ăn. | 751. Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) khổ do dưỡng chất là duyên, sau khi biết toàn diện về mọi dưỡng chất thì không bị lệ thuộc vào mọi dưỡng chất. |
754. ‘‘Ārogyaṃ sammadaññāya, āsavānaṃ parikkhayā; Saṅkhāya sevī dhammaṭṭho, saṅkhyaṃ [saṅkhaṃ (sī. pī.)] nopeti vedagū’’ti. | 749. Nhờ chánh trí không bệnh,. Đoạn diệt các lậu hoặc, Thọ dụng các thức ăn, Giác sát, trú Chánh pháp, Vị đạt được trí tuệ, Không rơi vào ước lượng. | 752. Với sự nhận biết đúng đắn về vô bệnh (Niết Bàn), do sự hoàn toàn cạn kiệt của các lậu hoặc, vị có sự hành trì, sau khi phán xét, đứng vững ở Giáo Pháp; các bậc đạt được sự thông hiểu không đi đến sự phán xét.” |
(12) ‘‘Siyā aññenapi…pe… kathañca siyā? Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti sabbaṃ iñjitapaccayāti, ayamekānupassanā. Iñjitānaṃ tveva asesavirāganirodhā natthi dukkhassa sambhavoti, ayaṃ dutiyānupassanā. Evaṃ sammā…pe… athāparaṃ etadavoca satthā – | Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:… “Phàm có khổ gì hiện hữu, tất cả đều do duyên dao động”, đây là pháp tùy quán quán thứ nhất. “Do đoạn diệt, ly tham dao động không có dư tàn, khổ không có hiện hữu”, đây là tùy quán pháp thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Đạo Sư lại nói thêm: | ‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do sự loạn động là duyên,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Nhưng chính do sự hoàn toàn không còn ái luyến và sự diệt tận của các sự loạn động, không có sự hình thành của khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhì. (Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: |
755. ‘‘Yaṃ kiñci dukkhaṃ sambhoti, sabbaṃ iñjitapaccayā; Iñjitānaṃ nirodhena, natthi dukkhassa sambhavo. | 750. Phàm khổ gì hiện hữu,. Tất cả duyên dao động, Do đoạn diệt dao động, Khổ không có hiện hữu. | 753. “Bất cứ khổ nào được hình thành, tất cả do sự loạn động là duyên. Do sự diệt tận của các sự loạn động, không có sự hình thành của khổ. |
756. ‘‘Etamādīnavaṃ ñatvā, dukkhaṃ iñjitapaccayā; Tasmā hi ejaṃ vossajja, saṅkhāre uparundhiya; Anejo anupādāno, sato bhikkhu paribbaje’’ti. | 751. Do biết nguy hiểm này,. Khổ do duyên dao động, Do vậy, bỏ dao động, Chận dừng lại các hành, Không có gì chướng ngại Không chấp thủ, chánh niệm, Vị Tỷ-kheo bộ hành, Khắp tất cả chân trời. | 754. Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) khổ do sự loạn động là duyên, chính vì thế, sau khi buông bỏ dục vọng, sau khi chận đứng các hành, vị tỳ khưu không còn dục vọng, không có nắm giữ, có niệm, nên ra đi du phương.” |
(13) ‘‘Siyā aññenapi…pe… kathañca siyā? Nissitassa calitaṃ hotīti, ayamekānupassanā. Anissito na calatīti, ayaṃ dutiyānupassanā. Evaṃ sammā…pe… athāparaṃ etadavoca satthā – | Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau:… “Ai có nương tựa, thì bị dao động”, đây là pháp tùy quán quán thứ nhất. “Ai không có nương tựa, không bị dao động”, đây là pháp tùy quán thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Đạo Sư lại nói thêm: | ‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Người bị lệ thuộc có sự bị dao động,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Người không bị lệ thuộc không dao động,’ đây là sự quán xét thứ nhì. (Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: |
757. ‘‘Anissito na calati, nissito ca upādiyaṃ; Itthabhāvaññathābhāvaṃ, saṃsāraṃ nātivattati. | 752. Không nương tựa, không động,. Nương tựa có chấp thủ, Chấp hữu này, hữu khác, Không chinh phục luân chuyển. | 755. “Người không bị lệ thuộc không dao động, và người bị lệ thuộc, trong khi chấp thủ sự hiện hữu này và sự hiện hữu khác, không vượt qua được luân hồi. |
758. ‘‘Etamādīnavaṃ ñatvā, nissayesu mahabbhayaṃ; Anissito anupādāno, sato bhikkhu paribbaje’’ti. | 753. Sau khi rõ biết được,. Nguy hiểm tai hại nầy, Trong các sự nương tựa, Có sợ hãi lớn lao, Không nương tựa y chỉ, Không chấp thủ, chánh niệm, Vị Tỷ-kheo bộ hành, Khắp tất cả chân trời. | 756. Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) nỗi sợ hãi lớn lao ở các sự lệ thuộc, vị tỳ khưu không bị lệ thuộc, không có nắm giữ, có niệm, nên ra đi du phương.” |
(14) ‘‘Siyā aññenapi…pe… kathañca siyā? Rūpehi, bhikkhave, arūpā [āruppā (sī. pī.)] santatarāti, ayamekānupassanā. Arūpehi nirodho santataroti, ayaṃ dutiyānupassanā. Evaṃ sammā…pe… athāparaṃ etadavoca satthā – | Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: “Có thể có như thế nào?” Này các Tỷ-kheo “Các pháp vô sắc an tịnh hơn các sắc pháp”, đây là pháp tùy quán thứ nhất. “Sự đoạn diệt an tinh hơn các pháp vô sắc”, đây là pháp tùy quán thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Đạo Sư lại nói thêm: | ‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Này các tỳ khưu, các trạng thái vô sắc an tịnh hơn các trạng thái sắc,’ đây là sự quán xét thứ nhất. ‘Sự diệt tận an tịnh hơn các trạng thái vô sắc,’ đây là sự quán xét thứ nhì. (Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: |
759. ‘‘Ye ca rūpūpagā sattā, ye ca arūpaṭṭhāyino [āruppavāsino (sī. pī.)]; Nirodhaṃ appajānantā, āgantāro punabbhavaṃ. | 754. Chúng sanh thuộc sắc giới,. Chúng sanh trú vô sắc, Không tuệ tri đoạn diệt, Chúng đi đến tái sanh. | 757. “Và những chúng sanh nào đã đi đến sắc giới, và những người nào trú ở vô sắc giới, trong khi không biết toàn diện về tịch diệt (Niết Bàn), là những người đi đến sự hiện hữu lại nữa. |
760. ‘‘Ye ca rūpe pariññāya, arūpesu asaṇṭhitā [susaṇṭhitā (sī. syā. pī.)]; Nirodhe ye vimuccanti, te janā maccuhāyino’’ti. | 755. Những ai liễu tri sắc,. Khéo an trú vô sắc, Giải thoát trong đoạn diệt, Họ từ bỏ sự chết. | 758. Và những người nào sau khi biết toàn diện về sắc giới, đã khéo đứng vững ở vô sắc giới, những người nào được giải thoát ở tịch diệt (Niết Bàn), những người ấy có sự từ bỏ Tử Thần.” |
(15) ‘‘Siyā aññenapi…pe… kathañca siyā? Yaṃ, bhikkhave, sadevakassa lokassa samārakassa sabrahmakassa sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya idaṃ saccanti upanijjhāyitaṃ tadamariyānaṃ etaṃ musāti yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhaṃ, ayamekānupassanā. Yaṃ , bhikkhave, sadevakassa…pe… sadevamanussāya idaṃ musāti upanijjhāyitaṃ, tadamariyānaṃ etaṃ saccanti yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhaṃ, ayaṃ dutiyānupassanā. Evaṃ sammā…pe… athāparaṃ etadavoca satthā – | Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: “Có thể có như thế nào?” Này các Tỷ-kheo, “Cái gì được thế giới với chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên, được thế giới này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người suy tưởng: “Đây là sự thật”, cái ấy được các vị Thánh khéo thấy như thật với chánh trí tuệ là: “Cái này là hư vọng”, đây là pháp tùy quán thứ nhất. Này các Tỷ-kheo, “Cái gì được thế giới với chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên, được thế giới này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người suy tưởng: “Đây là hư vọng”, cái ấy được các vị Thánh khéo thấy như thật với chánh trí tuệ là: “Cái này là chân thật”, đây là pháp tùy quán thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Đạo Sư lại nói thêm: | ‘Có thể có —như trên— bằng một phương thức khác,’ —như trên— Và có thể như thế nào? ‘Này các tỳ khưu, điều nào mà đối với thế gian, tính luôn cõi chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài người,được suy tưởng rằng: ‘Điều này là sự thật,’ điều ấy đấy đối với các bậc Thánh được nhìn thấy rõ bằng tuệ chân chánh đúng theo bản thể rằng: ‘Diều này là giả trá,’ đây là sự quán xét thứ nhất. Này các tỳ khưu, điều nào mà đối với thế gian, tính luôn cõi chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài người,được suy tưởng rằng: ‘Điều này là giả trá,’ điều ấy đấy đối với các bậc Thánh được nhìn thấy rõ bằng tuệ chân chánh đúng theo bản thể rằng: ‘Diều này là sự thật,’ đây là sự quán xét thứ hai. (Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh) một cách đúng đắn như vậy —như trên— bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: |
761. ‘‘Anattani attamāniṃ [attamānī (syā.), attamānaṃ (pī. ka.)], passa lokaṃ sadevakaṃ; Niviṭṭhaṃ nāmarūpasmiṃ, idaṃ saccanti maññati. | 756. Hãy xem thế giới nầy,. Với thế giới chư Thiên, Hoan hỷ với phi ngã, An trú trên danh sắc, Nghĩ rằng danh sắc này Là chân thật không ngụy. | 759. “Hãy nhìn xem thế gian, tính luôn cõi chư Thiên, có sự hoan hỷ ở vô ngã (và) bị chìm đắm ở danh và sắc. Họ nghĩ rằng: ‘Điều này là sự thật.’ |
762. ‘‘Yena yena hi maññanti, tato taṃ hoti aññathā; Tañhi tassa musā hoti, mosadhammañhi ittaraṃ. | 757. Dầu họ nghĩ thế nào,. Khi danh sắc đổi khác, Danh sắc là hư vọng, Giả dối sống tạm bợ, | 760. Dẫu cho họ nghĩ thế nào, cái ấy trở thành cái khác so với chính nó. Chính cái ấy trở nên giả trá đối với nó, bởi vì nó có tính chất giả trá và ngắn ngủi. |
763. ‘‘Amosadhammaṃ nibbānaṃ, tadariyā saccato vidū; Te ve saccābhisamayā, nicchātā parinibbutā’’ti. | 758. Niết-bàn không hư ngụy, Bậc Thánh chân thật biết, Họ thắng tri chân thật, Không ái dục, tịch tịnh. | 761. Niết Bàn là pháp không giả trá, các bậc Thánh đã biết điều ấy là sự thật. Những vị ấy, thật vậy, do sự lãnh hội về sự thật, không còn sự khao khát, được hoàn toàn tịch tịnh.” |
(16) ‘‘‘Siyā aññenapi pariyāyena sammā dvayatānupassanā’ti, iti ce, bhikkhave, pucchitāro assu; ‘siyā’tissu vacanīyā. Kathañca siyā? Yaṃ, bhikkhave, sadevakassa lokassa samārakassa sabrahmakassa sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya idaṃ sukhanti upanijjhāyitaṃ, tadamariyānaṃ etaṃ dukkhanti yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhaṃ, ayamekānupassanā . Yaṃ, bhikkhave, sadevakassa…pe… sadevamanussāya idaṃ dukkhanti upanijjhāyitaṃ tadamariyānaṃ etaṃ sukhanti yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhaṃ, ayaṃ dutiyānupassanā. Evaṃ sammā dvayatānupassino kho, bhikkhave, bhikkhuno appamattassa ātāpino pahitattassa viharato dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ phalaṃ pāṭikaṅkhaṃ – diṭṭheva dhamme aññā, sati vā upādisese anāgāmitāti. Idamavoca bhagavā. Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā – | Này các Tỷ-kheo, có thể các Thầy được hỏi thêm nữa như sau: “Có thể có như thế nào?” Này các Tỷ-kheo, “Cái gì được thế giới với chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên, được thế giới này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người suy tưởng: “Đây là an lạc”, cái ấy được các vị Thánh khéo thấy như thật với chánh trí tuệ là: “Cái này là khổ”, đây là pháp tùy quán thứ nhất. Này các Tỷ-kheo, “Cái gì được thế giới với chư Thiên, các Ma, các Phạm thiên, được thế giới này với quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người suy tưởng: “Đây là khổ”, cái ấy được các vị Thánh khéo thấy như thật với chánh trí tuệ là: “Cái này là lạc”, đây là pháp tùy quán thứ hai. Này các Tỷ-kheo, do Tỷ-kheo chơn chánh tùy quán hai pháp. Bậc Đạo Sư lại nói thêm: | ‘Có thể có sự quán xét hai khía cạnh một cách đúng đắn bằng một phương thức khác,’ này các tỳ khưu, nếu có những người hỏi như thế, những người ấy nên được nói như vầy: ‘Có thể.’ Và có thể như thế nào? ‘Này các tỳ khưu, điều nào mà đối với thế gian, tính luôn cõi chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài người, được suy tưởng rằng: ‘Điều này là lạc,’ điều ấy đấy đối với các bậc Thánh được nhìn thấy rõ bằng tuệ chân chánh đúng theo bản thể rằng: ‘Diều này là khổ,’ đây là sự quán xét thứ nhất. Này các tỳ khưu, điều nào mà đối với thế gian, tính luôn cõi chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài người,được suy tưởng rằng: ‘Điều này là khổ,’ điều ấy đấy đối với các bậc Thánh được nhìn thấy rõ bằng tuệ chân chánh đúng theo bản thể rằng: ‘Diều này là lạc,’ đây là sự quán xét thứ hai. Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu sống có sự quán xét hai khía cạnh một cách đúng đắn như vậy, không bị xao lãng, có nhiệt tâm, có bản tánh cương quyết, một quả báu nào đó trong hai quả báu là điều chờ đợi: trí giải thoát ở đời hiện tại, hoặc nếu còn dư sót thì phẩm vị Bất Lai. Đức Thế Tôn đã nói điều này. Sau khi nói điều này, đấng Thiện Thệ, bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: |
764. ‘‘Rūpā saddā rasā gandhā, phassā dhammā ca kevalā; Iṭṭhā kantā manāpā ca, yāvatatthīti vuccati. | 759. Sắc, tiếng, hương, vị, xúc,. Tất cả những pháp này, Khả lạc, hỷ, khả ý, Khi nào chúng hiện hữu. | 762. “Các sắc, các thinh, các vị, các hương, các xúc, và các pháp, tất cả là đáng mong, đáng yêu, và đáng mến khi nào chúng còn (có trạng thái) được gọi là ‘hiện hữu.’ |
765. ‘‘Sadevakassa lokassa, ete vo sukhasammatā; Yattha cete nirujjhanti, taṃ nesaṃ dukkhasammataṃ. | 760. Thế giới với chư Thiên. Xem chúng là khả lạc, Khi chúng bị hoại diệt, Mới thấy chúng là khổ. | 763. Đối với thế gian, tính luôn cõi chư Thiên, các pháp này được công nhận là lạc, và nơi nào các pháp này được diệt tận, điều ấy đối với chúng được công nhận là khổ. |
766. ‘‘Sukhanti diṭṭhamariyehi, sakkāyassuparodhanaṃ; Paccanīkamidaṃ hoti, sabbalokena passataṃ. | 761. Bậc Thánh thấy là lạc,. Khi có thân đoạn diệt, Đây hoàn toàn trái ngược, Điều mọi giới được thấy. | 764. Sự hoại diệt của bản thân này được các bậc Thánh xem là ‘lạc,’ điều (nhận thức) này của các bậc đang nhìn thấy là đối nghịch với tất cả thế gian. |
767. ‘‘Yaṃ pare sukhato āhu, tadariyā āhu dukkhato; Yaṃ pare dukkhato āhu, tadariyā sukhato vidū. | 762. Điều người khác gọi lạc,. Bậc Thánh gọi là khổ, Điều người khác gọi khổ, Bậc Thánh biết là lạc, Hãy xem pháp khó biết, Kẻ không thấy mê mờ. | 765. Điều nào những kẻ khác đã nói là lạc, điều ấy các bậc Thánh đã nói là khổ. Điều nào những kẻ khác đã nói là khổ, điều ấy các bậc Thánh đã biết là lạc. |
768. ‘‘Passa dhammaṃ durājānaṃ, sampamūḷhetthaviddasu [sampamūḷhettha aviddasu (sī. pī.), sammūḷhettha aviddasu (?)]; Nivutānaṃ tamo hoti, andhakāro apassataṃ. | 763. Kẻ bị che, tối tăm,. Kẻ không thấy, tối mù, Bậc thiện, được rộng mở, Bậc thấy, được ánh sáng, Kẻ ngu dầu có gần, Cũng không biết con đường, Cũng không có thiện xảo, Đối Chánh pháp Phật dạy. | 766. Hãy nhìn xem Pháp khó nhận biết (Niết Bàn), ở đây những kẻ ngu muội không nhìn thấy. Sự tối tăm là dành cho những kẻ bị che đậy, bóng đêm là dành cho những kẻ không nhìn thấy. |
769. ‘‘Satañca vivaṭaṃ hoti, āloko passatāmiva; Santike na vijānanti, maggā dhammassa kovidā. | 767. Sự mở ra (Niết Bàn) là dành cho những người tốt lành, ví như ánh sáng là dành cho những người đang nhìn thấy. Những kẻ ngu không thông thạo Giáo Pháp không nhận thức được (dầu) ở gần bên. | |
770. ‘‘Bhavarāgaparetehi , bhavasotānusāribhi; Māradheyyānupannehi, nāyaṃ dhammo susambudho. | 764. Bị hữu tham chiến bại,. Bị trôi theo dòng hữu, Rơi vào Ma chi phối, Pháp này khó chánh giác. | 768. Pháp này không dễ dàng giác ngộ bởi những kẻ bị quấy nhiễu bởi hữu ái, bởi những kẻ xuôi theo dòng chảy của hữu, bởi những kẻ đã đi vào tầm khống chế của Ma Vương. |
771. ‘‘Ko nu aññatramariyehi, padaṃ sambuddhumarahati; Yaṃ padaṃ sammadaññāya, parinibbanti anāsavā’’ti. | 765. Ai ngoài các bậc Thánh, Xứng đáng đạo chánh giác. Do chánh trí đạo ấy Chứng vô lậu Niết-bàn. | 769. Vậy người nào xứng đáng để giác ngộ vị thế (Niết Bàn) ngoại trừ các bậc Thánh? Với sự nhận biết đúng đắn về vị thế ấy, các ngài chứng đạt Niết Bàn, không còn lậu hoặc.” |
Idamavoca bhagavā. Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti. Imasmiṃ ca [imasmiṃ kho (sī.)] pana veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne saṭṭhimattānaṃ bhikkhūnaṃ anupādāya āsavehi cittāni vimucciṃsūti. | Thế Tôn thuyết như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỉ tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi pháp này được giảng, tâm của hơn sáu mươi Tỷ-kheo giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ. | Đức Thế Tôn đã nói điều này. Được hoan hỷ, các vị tỳ khưu ấy thỏa thích lời dạy của đức Thế Tôn. Hơn nữa, trong khi sự thuyết giảng này được nói lên, tâm của sáu mươi tỳ khưu ấy đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc, do không còn chấp thủ. |
Dvayatānupassanāsuttaṃ dvādasamaṃ niṭṭhitaṃ. | Dứt Kinh Quán Xét Hai Khía Cạnh. | |
Tassuddānaṃ – | TÓM LƯỢC KINH NÀY | |
Saccaṃ upadhi avijjā ca, saṅkhāre viññāṇapañcamaṃ; | Sự thật, mầm tái sanh, vô minh, các hành, và thức là thứ năm, | |
Phassavedaniyā taṇhā, upādānārambhaāhārā; | xúc, thọ, ái, thủ, sự khởi động, các dưỡng chất, | |
Iñjitaṃ calitaṃ rūpaṃ, saccaṃ dukkhena soḷasāti. | sự loạn động, sự bị dao động, sắc, sự thật, với khổ là mười sáu. | |
Mahāvaggo tatiyo niṭṭhito. | Đại Phẩm là thứ ba. | |
Tassuddānaṃ – | TÓM LƯỢC PHẨM NÀY | |
Pabbajjā ca padhānañca, subhāsitañca sundari; | Việc xuất gia, sự nỗ lực, việc khéo nói, và phần bánh cúng tế, | |
Māghasuttaṃ sabhiyo ca, selo sallañca vuccati. | và Kinh về vị Māgha, vị Sabhiya, vị Sela, và mũi tên được nói đến, | |
Vāseṭṭho cāpi kokāli, nālako dvayatānupassanā; | và vị Vāseṭṭha nữa, vị Kokāli, vị Nālaka, việc quán xét hai khía cạnh, | |
Dvādasetāni suttāni, mahāvaggoti vuccatīti. | mười hai bài Kinh này gọi là Đại Phẩm. |