14. Dhammikasuttaṃ
(XIV) Kinh Dhammika (Sn 66)
14. Kinh Dhammika
Tipitaka.org Việt dịch: HT. Thích Minh Châu Việt dịch: TK. Indacanda
Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho dhammiko upāsako pañcahi upāsakasatehi saddhiṃ yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho dhammiko upāsako bhagavantaṃ gāthāhi ajjhabhāsi – Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, trong khu vườn ông Anàthapindika. Rồi nam cư sĩ Dhammika đi đến Thế Tôn với năm trăm nam cư sĩ, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Dhammika nói lên những bài kệ với Thế Tôn: Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy, cư sĩ Dhammika cùng với năm trăm cư sĩ đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, cư sĩ Dhammika đã nói với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:
378. ‘‘Pucchāmi taṃ gotama bhūripañña, kathaṃkaro sāvako sādhu hoti; Yo vā agārā anagārameti, agārino vā panupāsakāse. Dhammika: 376. Kính thưa Gotama, Bậc trí tuệ rộng lớn, Con xin kính hỏi Ngài, Vấn đề đặc biệt này: Với vị đệ tử Ngài, Làm thế nào là thiện? Nếu là vị xuất gia, Bỏ nhà, sống không nhà, Hay là vị có nhà, Sống đời nam cư sĩ? 378. “Bạch ngài Gotama, bạch đấng có trí tuệ quảng đại, con xin hỏi Ngài: Người đệ tử tốt lành là người có hành động như thế nào, người (đệ tử) này hoặc là vị (xuất gia) rời nhà đi đến đời sống không nhà, hoặc là những vị cư sĩ có sở hữu căn nhà?
379. ‘‘Tuvañhi lokassa sadevakassa, gatiṃ pajānāsi parāyaṇañca; Na catthi tulyo nipuṇatthadassī, tuvañhi buddhaṃ pavaraṃ vadanti. 377. Ngài rõ biết đường đi,. Cùng mục đích tối hậu, Của Thế Tôn đời này, Và thế giới chư Thiên. Không ai so sánh Ngài, Bậc thấy nghĩa thù diệu, Chính Ngài được tôn xưng, Là đức Phật thù thắng. 379. Bởi vì Ngài nhận biết cảnh giới tái sanh và việc đi đến bờ kia của thế gian luôn cả chư Thiên, và người có sự nhìn thấy ý nghĩa vi tế có thể sánh bằng (với Ngài) là không có, bởi vì người ta nói Ngài là đức Phật quý cao.
380. ‘‘Sabbaṃ tuvaṃ ñāṇamavecca dhammaṃ, pakāsesi satte anukampamāno; Vivaṭṭacchadosi samantacakkhu, virocasi vimalo sabbaloke. 378. Ngài biết tất cả trí,. Ngài trình bày Chánh pháp, Vì lòng thương, từ mẫn, Đối với mọi chúng sanh, Ngài mở rộng bức màn, Bậc có mắt mọi nơi Không cấu uế, thanh tịnh, Ngài chói toàn thế giới. 380. Sau khi biết mọi loại trí tuệ, trong lúc thương tưởng đến chúng sanh, Ngài (đã) giảng giải Giáo Pháp. Bạch đấng Toàn Nhãn, Ngài có màn che đã được cuốn lên. Không bị vết nhơ, Ngài chiếu sáng tất cả thế gian.
381. ‘‘Āgañchi te santike nāgarājā, erāvaṇo nāma jinoti sutvā; Sopi tayā mantayitvājjhagamā, sādhūti sutvāna patītarūpo. 379. Vị vua loài Nàgà. Tên Eràvano, Đã đến gần bên Ngài, Được nghe: Ngài chiến thắng. Vị ấy tìm đến Ngài, Để nghe lời khuyên nhủ, Sau khi nghe, thích thú Nói lên lời: Lành thay!. 381. Vị vua của loài voi tên là Erāvaṇa đã đi đến gặp Ngài. Sau khi nghe rằng: ‘Đấng Chiến Thắng,’ vị ấy cũng đã thảo luận với Ngài, đã lắng nghe và (đã nói) rằng: ‘Lành thay,’ rồi đã ra đi với dáng vẻ hân hoan.
382. ‘‘Rājāpi taṃ vessavaṇo kuvero, upeti dhammaṃ paripucchamāno; Tassāpi tvaṃ pucchito brūsi dhīra, so cāpi sutvāna patītarūpo. 380. Vua Vessavana,. Kuvera đến Ngài, Tìm hiểu hỏi han Ngài Về vấn đề diệu pháp, Được hỏi, ôi bậc trí, Hãy nói lên cho vua! Sau khi nghe, vị ấy, Cũng thích thú, ưa thích. 382. Vị vua Vessavaṇa Kuvera cũng đã đi đến gặp Ngài hỏi han về Giáo Pháp. Bạch bậc Sáng Trí, ngay cả đối với vị ấy, Ngài đã trả lời khi được hỏi. Và vị ấy nữa, sau khi lắng nghe cũng có dáng vẻ hân hoan.
383. ‘‘Ye kecime titthiyā vādasīlā, ājīvakā vā yadi vā nigaṇṭhā; Paññāya taṃ nātitaranti sabbe, ṭhito vajantaṃ viya sīghagāmiṃ. 381. Các bậc ngoại đạo này. Ưa luận tranh khẩu chiến, Các tà mạng ngoại đạo, Hay các Ni-kiền Tử, Tất cả không vượt qua, Hơn thắng trí của Ngài, Như người đang đứng lại, Không thắng kẻ đi mau. 383. Những ngoại đạo này, bất cứ những vị nào có bản tánh tranh luận, dầu là các đạo sĩ khổ hạnh hay là các đạo sĩ lõa thể, tất cả không vượt qua được Ngài về tuệ, tựa như kẻ đứng lại không vượt qua được người đi nhanh đang tiến bước.
384. ‘‘Ye kecime brāhmaṇā vādasīlā, vuddhā cāpi brāhmaṇā santi keci; Sabbe tayi atthabaddhā bhavanti, ye cāpi aññe vādino maññamānā. 382. Các Bà-la-môn này,. Ưa luận tranh khẩu chiến, Có những bậc Phạm-chí, Đã đến tuổi trưởng thượng, Tất cả đều trói buộc, Bởi tư tưởng của Ngài, Kể cả những hạng người, Tự phụ nói khoe khoang. 384. Những Bà-la-môn này, bất cứ những vị nào có bản tánh tranh luận, và có cả những vị Bà-la-môn trưởng thượng nào đó nữa, luôn cả những kẻ khác đang nghĩ họ là những người tranh luận, tất cả đều bám vào ý nghĩa (của lời giải đáp) ở nơi Ngài.
385. ‘‘Ayañhi dhammo nipuṇo sukho ca, yoyaṃ tayā bhagavā suppavutto; Tameva sabbepi [sabbe mayaṃ (syā.)] sussūsamānā, taṃ no vada pucchito buddhaseṭṭha. 383. Pháp này là tế nhị,. Đem lại nguồn an lạc, Đã được bậc Thế Tôn Khéo nói, khéo thuyết giảng, Tất cả mọi hạng người, Đều thích thú ưa nghe, Được hỏi, hãy nói lên, Ôi đức Phật tối thượng. 385. Bạch đức Thế Tôn, bởi vì Giáo Pháp này là vi tế và (đem lại) an lạc, đã khéo được tuyên thuyết bởi Ngài. Tất cả đang mong muốn lắng nghe chính điều ấy. Bạch đức Phật tối thượng, đã được hỏi, xin Ngài hãy nói cho chúng con điều ấy.
386. ‘‘Sabbepi me bhikkhavo sannisinnā, upāsakā cāpi tatheva sotuṃ; Suṇantu dhammaṃ vimalenānubuddhaṃ, subhāsitaṃ vāsavasseva devā’’. 384. Các vị Tỷ-kheo này,. Đang ngồi đây tất cả, Kể cả nam cư sĩ, Tất cả đều chờ nghe, Hãy để họ nghe pháp, Bậc Vô uế Giác ngộ, Như chư Thiên nghe lời, Vàsava khéo nói! 386. Tất cả các vị tỳ khưu này cũng đã cùng nhau ngồi xuống để lắng nghe, các cư sĩ cũng tương tự y như thế. Hãy để họ lắng nghe Giáo Pháp đã được giác ngộ bởi bậc Vô Nhiễm, tựa như chư Thiên lắng nghe lời khéo nói của (Thiên Vương) Vāsava.
387. ‘‘Suṇātha me bhikkhavo sāvayāmi vo, dhammaṃ dhutaṃ tañca carātha sabbe; Iriyāpathaṃ pabbajitānulomikaṃ, sevetha naṃ atthadaso mutīmā. Thế Tôn: 385. Tỷ-kheo, hãy nghe Ta, Ta khiến các Thầy nghe, Pháp đoạn trừ điều ác, Tất cả hãy trọ trì, Với ai thấy ý nghĩa, Nghĩ ngợi có suy tư, Hãy sống theo chánh hạnh, Thích hợp với xuất gia. 387. “Này các tỳ khưu, các ngươi hãy lắng nghe Ta. Ta nói cho các ngươi nghe về pháp từ khước; và tất cả hãy ghi nhớ điều ấy. Vị có sự nhìn thấy điều lợi ích, có niệm, nên thực hành (bốn) oai nghi phù hợp đối với các bậc xuất gia.
388. ‘‘No ve vikāle vicareyya bhikkhu, gāme ca piṇḍāya careyya kāle; Akālacāriñhi sajanti saṅgā, tasmā vikāle na caranti buddhā. 386. Tỷ-kheo chớ ra ngoài,. Trong thời gian phi thời, Hãy vào làng khất thực, Đúng thời, thì hãy đi, Ai đi đứng phi thời, Bị bẫy sập trói buộc. Do vậy các đức Phật, Không có đi phi thời. 388. Thật vậy, vị tỳ khưu không nên đi đâu vào lúc không đúng thời,. và nên đi vào làng để khất thực lúc đúng thời. Bởi vì, sự quyến luyến bám vào kẻ du hành không đúng thời. Vì thế, chư Phật không đi vào lúc không đúng thời.
389. ‘‘Rūpā ca saddā ca rasā ca gandhā, phassā ca ye sammadayanti satte; Etesu dhammesu vineyya chandaṃ, kālena so pavise pātarāsaṃ. 387. Các sắc và các tiếng,. Các vị, hương và xúc, Chính những loại pháp ấy Làm mê hoặc chúng sanh. Hãy nhiếp phục, lòng dục, Đối với các pháp ấy, Hãy vào cho đúng thời, Để dùng buổi ăn sáng. 389. Các sắc, các thinh, các vị, các hương,. và các xúc, chúng làm say đắm các chúng sanh. Sau khi xua đi sự mong muốn ở các pháp ấy, vị ấy vào lúc đúng thời có thể đi vào (làng để khất thực) cho buổi ăn sáng.
390. ‘‘Piṇḍañca bhikkhu samayena laddhā, eko paṭikkamma raho nisīde; Ajjhattacintī na mano bahiddhā, nicchāraye saṅgahitattabhāvo. 388. Tỷ-kheo được đúng thời,. Các đồ ăn khất thực, Hãy đi về một mình, Ngồi tại chỗ an tịnh, Suy tư hướng nội tâm, Ý không chạy ra ngoài, Làm cho thoát ra khỏi, Mọi chấp thủ tự ngã. 390. Và sau khi đã nhận được vật thực hợp thời, vị tỳ khưu, một mình, sau khi quay trở về nên ngồi xuống ở nơi vắng vẻ, có tâm hướng nội phần, có bản ngã đã được nắm giữ tốt đẹp, không để cho ý buông lung ở ngoại cảnh.
391. ‘‘Sacepi so sallape sāvakena, aññena vā kenaci bhikkhunā vā; Dhammaṃ paṇītaṃ tamudāhareyya, na pesuṇaṃ nopi parūpavādaṃ. 389. Nếu vị ấy có nói,. Với một vị đệ tử, Hay nói với một vị Một Tỷ-kheo nào khác, Hãy nói cho vị ấy, Sự thù diệu Chánh pháp, Không có nói hai lưỡi, Không bài xích một ai, 391. Thậm chí, nếu vị ấy phải chuyện trò với người đệ tử,. hoặc với kẻ khác, hoặc với bất cứ vị tỳ khưu nào, thì nên đề cập đến Giáo Pháp hảo hạng ấy, không nói đâm thọc, cũng không nói chỉ trích kẻ khác.
392. ‘‘Vādañhi eke paṭiseniyanti, na te pasaṃsāma parittapaññe; Tato tato ne pasajanti saṅgā, cittañhi te tattha gamenti dūre. 390. Nhưng có những hạng người,. Dùng khẩu chiến bằng lời, Những hạng người tuệ nhỏ, Chúng ta không tán thán, Triền phược trói buộc họ, Từ chỗ này chỗ kia, Ở đây họ dẫn tâm, Đưa tâm đi quá xa. 392. Bởi vì một số người phản kháng lại lời nói,. chúng ta không ca ngợi những kẻ có tuệ nhỏ nhoi ấy. Các sự quyến luyến từ nơi này nơi khác đeo bám những kẻ ấy, bởi vì những kẻ ấy để cho tâm đi xa khỏi nơi ấy.
393. ‘‘Piṇḍaṃ vihāraṃ sayanāsanañca, āpañca saṅghāṭirajūpavāhanaṃ; Sutvāna dhammaṃ sugatena desitaṃ, saṅkhāya seve varapaññasāvako. 391. Đồ khất thực, tinh xá,. Cùng sàng tọa trú xứ, Nước để trừ bụi nhớp, Y áo Tăng-già-lê, Sau khi nghe Chánh pháp, Do Thiện Thệ thuyết giảng, Bậc đệ tử thắng tuệ, Quán sát, hãy dùng chúng. 393. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp được thuyết giảng bởi bậc Thiện Thệ, vị đệ tử có tuệ cao quý suy xét rồi thọ dụng đồ ăn khất thực, trú xá, chỗ nằm ngồi (giường ghế), và nước gột sạch bụi bám ở y hai lớp.
394. ‘‘Tasmā hi piṇḍe sayanāsane ca, āpe ca saṅghāṭirajūpavāhane; Etesu dhammesu anūpalitto, bhikkhu yathā pokkhare vāribindu. 392. Do vậy đồ khất thực,. Sàng tọa và trú xứ, Nước để trừ bụi nhớp, Y áo Tăng-già-lê, Đối với những pháp ấy, Đừng để cho dính nhiễm. Tỷ-kheo như giọt nước, Không dính trên lá sen. 394. Chính vì thế, về đồ ăn khất thực, về chỗ nằm ngồi (giường ghế), và về nước gột sạch bụi bám ở y hai lớp, vị tỳ khưu không bám víu vào những pháp này, giống như những giọt nước ở lá sen.
395. ‘‘Gahaṭṭhavattaṃ pana vo vadāmi, yathākaro sāvako sādhu hoti; Na hesa [na heso (sī.)] labbhā sapariggahena, phassetuṃ yo kevalo bhikkhudhammo. 393. Trách nhiệm của gia chủ,. Ta cũng nói các Ông, Làm theo đúng như vậy, Đệ tử là tốt lành. Pháp Tỷ-kheo toàn diện, Khó thành tựu đầy đủ, Vì là người gia chủ, Phải làm nhiều việc đời. 395. Giờ đây, Ta nói về phận sự của người tại gia cho các ngươi. Có hành động như thế nào thì trở nên người đệ tử tốt lành. Bởi vì toàn bộ pháp hành ấy của tỳ khưu, người có vật sở hữu thì không thể nào đạt đến.
396. ‘‘Pāṇaṃ na hane [na hāne (sī.)] na ca ghātayeyya, na cānujaññā hanataṃ paresaṃ; Sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṃ, ye thāvarā ye ca tasā santi [tasanti (sī. pī.)] loke. 394. Chớ giết loài hữu tình,. Chớ bảo người giết hại, Hay chấp nhận kẻ khác, Giết hại các người khác, Đối với mọi sanh loại, Từ bỏ các hình phạt, Đối với kẻ mạnh bạo, Như đối kẻ run sợ. 396. Không nên giết hại mạng sống và không nên bảo (kẻ khác) giết hại,. không nên chấp thuận cho những kẻ khác đang giết hại. Sau khi bỏ xuống gậy gộc đối với tất cả chúng sanh, những loài không di động và những loài di động hiện hữu ở thế gian.
397. ‘‘Tato adinnaṃ parivajjayeyya, kiñci kvaci sāvako bujjhamāno; Na hāraye harataṃ nānujaññā, sabbaṃ adinnaṃ parivajjayeyya. 385. Rồi hãy quyết từ bỏ,. Lấy của không được cho, Đệ tử khéo sáng suốt, Vật gì, vật của ai, Chớ khiến người khác lấy, Chớ chấp nhận lấy trộm. Hãy từ bỏ, chấm dứt, Mọi của cải không cho. 397. Kế đến, người đệ tử sáng suốt nên xa lánh bất cứ vật gì không được cho, ở bất cứ nơi đâu. Không nên bảo (kẻ khác) lấy trộm, không nên chấp nhận những kẻ đang lấy trộm, nên xa lánh mọi vật không được cho.
398. ‘‘Abrahmacariyaṃ parivajjayeyya, aṅgārakāsuṃ jalitaṃva viññū; Asambhuṇanto pana brahmacariyaṃ, parassa dāraṃ na atikkameyya. 396. Hãy từ bỏ, tránh xa. Đời sống phi Phạm hạnh, Như bậc trí tránh né, Lửa cháy hố than hừng. Nếu tự mình bất lực, Không thể sống Phạm hạnh, Thời chớ có xâm phạm Vợ của các người khác. 398. Người có sự hiểu biết nên xa lánh việc phi Phạm hạnh, tựa như (xa lánh) đống than hừng đang cháy rực. Hơn nữa, trong khi không đủ khả năng (sống) Phạm hạnh, không nên xâm phạm vợ của người khác.
399. ‘‘Sabhaggato vā parisaggato vā, ekassa veko [ceto (sī. syā.)] na musā bhaṇeyya; Na bhāṇaye bhaṇataṃ nānujaññā, sabbaṃ abhūtaṃ parivajjayeyya. 397. Khi đi đến hội chúng,. Hay đi đến đoàn chúng, Hay một mình một người, Chớ nói lời nói láo, Chớ khiến người nói láo, Chớ chấp nhận nói láo, Tất cả điều không thật, Hãy tránh xa từ bỏ. 399. Một người đi đến cuộc hội họp hoặc đi đến hội chúng không nên nói lời dối trá đối với người khác, không nên bảo (kẻ khác) nói (dối), không nên chấp nhận những kẻ đang nói (dối), nên xa lánh mọi điều không phải sự thật.
400. ‘‘Majjañca pānaṃ na samācareyya, dhammaṃ imaṃ rocaye yo gahaṭṭho; Na pāyaye pivataṃ nānujaññā, ummādanantaṃ iti naṃ viditvā. 398. Chớ sống theo nếp sống,. Uống rượu và say rượu, Với vị là cư sĩ, Đã chấp nhận pháp này, Chớ khiến nguời uống rượu, Chớ chấp thuận uống rượu Sau khi biết uống rượu, Cuối đường là điên cuồng. 400. Người tại gia nào thích thú với Giáo Pháp này không nên thực hành việc uống chất say, không nên bảo (kẻ khác) uống (chất say), không nên chấp nhận những kẻ đang uống (chất say), sau khi biết rằng việc (uống chất say) ấy có sự điên cuồng là kết cuộc.
401. ‘‘Madā hi pāpāni karonti bālā, kārenti caññepi jane pamatte; Etaṃ apuññāyatanaṃ vivajjaye, ummādanaṃ mohanaṃ bālakantaṃ. 399. Chỉ kẻ ngu say rượu,. Mới làm các điều ác, Và khiến các người khác, Sống buông lung phóng dật, Hãy từ bỏ, tránh xa Xứ phi công đức này, Khiến điên cuồng si mê, Làm kẻ ngu thỏa thích. 401. Bởi vì do say sưa, những kẻ ngu làm những việc xấu xa. và còn làm cho những người khác cũng bị xao lãng. Nên xa lánh hẳn việc này, lãnh vực không có phước báu, sự điên cuồng, sự đần độn, được ưa thích bởi kẻ ngu.
402. ‘‘Pāṇaṃ na hane na cādinnamādiye, musā na bhāse na ca majjapo siyā; Abrahmacariyā virameyya methunā, rattiṃ na bhuñjeyya vikālabhojanaṃ. 400. Chớ có giết hữu tình,. Chớ lấy của không cho, Chớ nói láo không thật, Chớ uống rượu say mê, Từ bỏ phi Phạm hạnh, Không hành trì dâm dục Không có ăn ban đêm, Không ăn lúc phi thời. 402. Không nên giết hại sinh mạng, và không nên lấy vật không được cho,. không nên nói lời dối trá, và không nên uống chất say, nên kiêng cử việc đôi lứa, việc phi Phạm hạnh, không nên ăn vật thực lúc phi thời, vào ban đêm.
403. ‘‘Mālaṃ na dhāre na ca gandhamācare, mañce chamāyaṃ va sayetha santhate; Etañhi aṭṭhaṅgikamāhuposathaṃ, buddhena dukkhantagunā pakāsitaṃ. 401. Chớ mang các vòng hoa,. Chớ dùng các nước thơm, Hãy nằm trên mặt đất, Trên thảm chiếu trải dài, Tám hạnh này được gọi Là hạnh ngày trai giới, Do đức Phật giảng dạy, Để chấm dứt khổ đau. 403. Không nên đeo tràng hoa, và không nên sử dụng chất thơm,. nên nằm ở chiếc giường, hoặc ở mặt đất đã được trải lót. Bởi vì việc ấy được gọi là là hạnh trai giới gồm có tám chi phần, đã được giảng giải bởi đức Phật, bậc đã đi đến sự chấm dứt của khổ đau.
404. ‘‘Tato ca pakkhassupavassuposathaṃ, cātuddasiṃ pañcadasiñca aṭṭhamiṃ; Pāṭihāriyapakkhañca pasannamānaso, aṭṭhaṅgupetaṃ susamattarūpaṃ. 402. Từ nay ngày trai giới,. Chia nửa tháng hai phần, Ngày mười bốn, mười lăm, Hay ngày tám mỗi tháng, Với tâm ý hoan hỷ, Thực hành thần thông pháp Gồm có đủ tám phần, Khéo đầy đủ vẹn toàn. 404. Và kế đó, sau khi hành trì ngày trai giới hội đủ tám chi phần, có hình thức được hoàn toàn đầy đủ, với tâm tịnh tín, vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, ngày thứ tám của nửa tháng, và (các) ngày phụ trội của nửa tháng,[1] …
405. ‘‘Tato ca pāto upavutthuposatho, annena pānena ca bhikkhusaṅghaṃ; Pasannacitto anumodamāno, yathārahaṃ saṃvibhajetha viññū. 403. Do vậy, vào buổi sáng,. Thực hành ngày trai giới, Bậc có trí sáng suốt, Với tâm tư tín thành, Với tâm ý tùy hỷ, Cúng dường Tỷ-kheo Tăng, Với món ăn đồ uống, Hợp với khả năng mình. 405. … và sau đó vào buổi sáng, khi ngày trai giới đã được hành trì xong, người có sự hiểu biết, với tâm tịnh tín, trong khi đang hoan hỷ, nên dâng cúng cơm nước phù hợp với khả năng đến hội chúng tỳ khưu.
406. ‘‘Dhammena mātāpitaro bhareyya, payojaye dhammikaṃ so vaṇijjaṃ; Etaṃ gihī vattayamappamatto, sayampabhe nāma upeti deve’’ti. 404. Hãy nuôi dưỡng mẹ cha,. Hợp pháp và đúng pháp, Và cũng đúng với pháp, Hãy làm nghề buôn bán, Người gia chủ như vậy, Sở hành không phóng dật, Được sanh làm Thiên nhân, Tên là: “Tự chói sáng”. 406. Người ấy nên phụng dưỡng mẹ cha đúng theo bổn phận, nên áp dụng việc buôn bán một cách đúng pháp. Người tại gia này, trong lúc duy trì cuộc sống (như vậy), không xao lãng, (sẽ) đi đến với chư Thiên có tên là ‘Sayaṃpabhā’ (tự mình có hào quang).
Dhammikasuttaṃ cuddasamaṃ niṭṭhitaṃ.   Dứt Kinh Dhammika.
Cūḷavaggo dutiyo niṭṭhito.   Tiểu Phẩm là thứ nhì.
Tassuddānaṃ –   TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Ratanāmagandho hiri ca, maṅgalaṃ sūcilomena;   Kinh châu báu, và kinh mùi tanh hôi, kinh hổ thẹn, kinh điềm lành tối thượng, kinh Sūciloma, kinh Kapila, và kinh truyền thống Bà-la-môn nữa, kinh Giáo Pháp, kinh với giới gì, kinh đứng lên, và kinh Rāhula, kinh Kappa, kinh du hành (chân chánh), và còn có kinh Dhammika khác nữa; mười bốn bài kinh này gọi là Tiểu Phẩm.
Dhammacariyañca brāhmaṇo [kapilo brāhmaṇopi ca (syā. ka.)], nāvā kiṃsīlamuṭṭhānaṃ.    
Rāhulo puna kappo ca, paribbājaniyaṃ tathā;    
Dhammikañca viduno āhu, cūḷavagganti cuddasāti.