10. Dhātuvivaṇṇapetavatthu
10. (35) Chuyện Khinh Khi Xá Lợi
Chuyện Ngạ Quỷ Do Chê Bai Xá-Lợi là thứ mười
Tipitaka.org Việt dịch: GS. Trần Phương Lan Việt dịch: TK. Indacanda
  Khi đức Thế Tôn diệt độ tại Kusinara (Câu-thi-na), ở Lâm Viên Upavattana trong rừng Sàla song thọ, và sau khi việc phân chia xá lợi đã hoàn thành, vua Ajàtasattu (A-xà-thế) nhận phần của mình xong, liền làm lễ cúng dường suốt bảy năm bảy tháng bảy ngày.  
  Nhưng có tám vạn sáu ngàn người, vì không có lòng tin và đầy tà kiến từ lâu, đã mê lầm và có nhiều vọng tưởng điên đảo, cho nên dù đã sống trong một hoàn cảnh an lành, cũng tái sanh vào loài ngạ quỷ.  
  Chính trong thành Vương Xá này, có bà vợ, con gái, con dâu của một phú gia kia với tâm thành tín đem hương liệu, vòng hoa và nhiều lễ vật khác khởi hành đi đến bảo Tháp xá-lợi, bảo nhau:  
  – Chúng ta muốn đi cúng dường xá-lợi.   
  Người gia chủ phỉ báng việc cúng dường này với những lời mạ lỵ:  
  – Cúng dường đống xương thì có ý nghĩa gì chứ?  
  Song họ không quan tâm đến lời nói của kẻ ấy và ra đi. Khi từ trần họ tái sanh lên thiên giới, còn kẻ ấy tái sanh làm ngạ quỷ.  
  Thế rồi một hôm, Tôn giả Mahà-Kassapa vì lòng bi mẫn đứng tại khuôn viên bảo Tháp, ngâm ba vần kệ hỏi ngạ quỷ đã khinh thường xá-lợi:  
507. ‘‘Antalikkhasmiṃ tiṭṭhanto, duggandho pūti vāyasi; Mukhañca te kimayo pūtigandhaṃ, khādanti kiṃ kammamakāsi pubbe. 1. Ngươi đang lơ lửng giữa hư không,. Ngươi thở mùi hôi thối nặc nồng, Sâu bọ đang đua nhau cấu xé Mặt người rách nát thối vô cùng. 516. “Ngươi đứng ở không trung, có mùi hôi, toát ra mùi thối tha, và những con dòi rúc rỉa cái miệng có mùi hôi thối của ngươi; ngươi đã tạo nghiệp gì trước đây?
508. ‘‘Tato satthaṃ gahetvāna, okkantanti punappunaṃ; Khārena paripphositvā, okkantanti punappunaṃ. 2. Ngày xưa ngươi phạm ác hành nào,. Nay chúng cầm gươm mãi chém vào, Chúng rảy cường toan khắp cả mặt, Thân ngươi, rồi cắt mãi, vì sao? 517. Sau đó, chúng cầm lấy cây dao cắt xẻo lần này đến lần khác. Chúng rưới khắp (thân ngươi) với chất kiềm rồi cắt xẻo lần này đến lần khác.
509. ‘‘Kiṃ nu kāyena vācāya, manasā dukkaṭaṃ kataṃ; Kissa kammavipākena, idaṃ dukkhaṃ nigacchasī’’ti. 3. Ngươi đã làm nên ác nghiệp gì. Do từ thân, khẩu, ý tư duy? Hành vi nào kiếp xưa gây tạo, Nay phải chịu đau khổ cực kỳ? 518. Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà ngươi lại trải nghiệm sự khổ đau này?”
  Ngạ quỷ đáp lại như sau:  
510. ‘‘Ahaṃ rājagahe ramme, ramaṇīye giribbaje; Issaro dhanadhaññassa, supahūtassa mārisa. 4. Trong thành Vương Xá thật xinh tươi, . Cổ lũy Đa Sơn, cảnh tuyệt vời, Tôn giả, tôi là người đại phú Bạc vàng thóc lúa khắp nơi nơi. 519. “Thưa ngài, ở thành Rājagaha đáng yêu, nơi Giribbaja xinh xắn, tôi đã là chủ nhân của tài sản và lúa gạo vô cùng dồi dào.
511. ‘‘Tassāyaṃ me bhariyā ca, dhītā ca suṇisā ca me; Tā mālaṃ uppalañcāpi, paccagghañca vilepanaṃ; Thūpaṃ harantiyo vāresiṃ, taṃ pāpaṃ pakataṃ mayā. 5. Vợ tôi, con gái, vợ con trai. Đem đủ sen xanh, các đóa lài, Cùng với dầu thơm dâng bảo Tháp, Tôi ngăn cản họ mãi không thôi. Đó là ác nghiệp ngày xưa ấy. Đã được tạo ra bởi chính tôi.   520. Người vợ này của tôi đây, con gái và con dâu của tôi, trong khi các cô ấy đang mang tràng hoa, luôn cả hoa sen xanh, và dầu thoa đắt giá đến ngôi bảo tháp, tôi đã ngăn cản; việc xấu xa ấy đã do tôi gây ra.
512. ‘‘Chaḷāsītisahassāni , mayaṃ paccattavedanā; Thūpapūjaṃ vivaṇṇetvā, paccāma niraye bhusaṃ. 6. Tám vạn sáu ngàn bọn chúng tôi. Chịu bao đau khổ chẳng riêng ai, Vì tôi khinh việc người dâng cúng Bảo Tháp, nay tôi chịu khổ hoài. 521. Tám mươi sáu ngàn người chúng tôi có cảm thọ (khổ) riêng biệt, sau khi chê bai việc cúng dường đến ngôi bảo tháp, chúng tôi bị nung nấu dữ dội ở địa ngục.
513. ‘‘Ye ca kho thūpapūjāya, vattante arahato mahe; Ādīnavaṃ pakāsenti, vivecayetha [vivecayatha (sī.)] ne tato. 7. Vậy người nào lộ vẻ hung tàn,. Khi Thánh lễ đang được cúng dường Lên bảo Tháp tôn vinh xá-lợi, Xin Tôn giả cất tiếng khuyên can. 522. Và trong khi lễ hội của bậc A-la-hán đang được cử hành, những kẻ nào công bố điều bất lợi đối với việc cúng dường ngôi bảo tháp, quý vị hãy tách ly những kẻ ấy khỏi nơi đó.
514. ‘‘Imā ca passa āyantiyo, māladhārī alaṅkatā; Mālāvipākaṃnubhontiyo [anubhavanti (sī. pī.)], samiddhā ca tā [samiddhā tā (sī. syā.)] yasassiniyo. 8. Tôn giả nhìn kìa đám mỹ nương. Đeo vòng hoa đẹp khéo trang hoàng, Hưởng nhiều phước báo vì dâng lễ, Phú quý vinh hoa thật rỡ ràng. 523. Và quý vị hãy nhìn xem các cô nàng đang đi đến, có mang tràng hoa, đã được trang điểm, các cô ấy hưởng thụ quả thành tựu về tràng hoa, có sự thành công, có danh tiếng.
515. ‘‘Tañca disvāna accheraṃ, abbhutaṃ lomahaṃsanaṃ; Namo karonti sappaññā, vandanti taṃ mahāmuniṃ. 9. Khi các trí nhân thấy việc này. Gây niềm cảm xúc, diệu kỳ thay, Họ liền sùng bái và tôn kính Bậc đại hiền nhân ấy chính ngài. 524. Và sau khi nhìn thấy điều kỳ diệu, phi thường, khiến nổi da gà ấy, các bậc có trí tuệ thực hiện việc nghiêng mình đảnh lễ ngài, bậc đại hiền trí.
516. ‘‘Sohaṃ nūna ito gantvā, yoniṃ laddhāna mānusiṃ; Thūpapūjaṃ karissāmi, appamatto punappuna’’nti. 10. Khi tôi rời cảnh ngộ thương đau,. Và được làm người ở kiếp sau, Tôi sẽ tinh cần dâng lễ bái Cúng dường Tháp xá-lợi dài lâu. 525. Chắc chắn rằng chính tôi đây, sau khi đi khỏi nơi này, sau khi đạt được sự xuất thân thuộc loài người, sẽ thực hiện việc đảnh lễ ngôi bảo tháp, không bị xao lãng, lần này đến lần khác.”
Dhātuvivaṇṇapetavatthu dasamaṃ. Cūḷavaggo tatiyo niṭṭhito.   Tiểu Phẩm là thứ ba.
Tassuddānaṃ –   TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Abhijjamāno kuṇḍiyo [koṇḍañño (sabbattha)], rathakārī bhusena ca;   Chuyện không làm (mặt) nước bị vỡ ra, vị Koṇḍañña, ở hồ Rathakāra, và với vỏ trấu, đứa bé trai, luôn cả cô kỹ nữ, hai người thợ săn, (nói xấu) sau lưng, cúng dường; bởi vậy phẩm được gọi tên thế ấy.
Kumāro gaṇikā ceva, dve luddā piṭṭhipūjanā;    
Vaggo tena pavuccatīti.