13. Ubbaripetavatthu
13. (25) Chuyện Hoàng Hậu Ubbarì
Chuyện Ngạ Quỷ của Ubbarī là thứ mười ba
Tipitaka.org Việt dịch: GS. Trần Phương Lan Việt dịch: TK. Indacanda
  Bậc Đạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana.  
  Ở Sàvatthi, người chồng của một nữ đệ tử tại gia vừa từ trần. Nàng ưu phiền đi đến nghĩa địa khóc than. Khi đức Thế Tôn nhận thấy nàng đã đạt thành các đức tính đưa đến quả Dự Lưu, ngài động lòng bi mẫn, đi đến nhà nàng và hỏi tại sao nàng khóc. Nàng đáp:  
  – Bạch đức Thế Tôn, quả con đang đau buồn vì xa cách một người thân của con.  
  Sau đó đức Thế Tôn kể một chuyện quá khứ.  
  Thuở xưa trong quốc độ Pancala ở thành Kapila có một vị vua mệnh danh Cùlani Brahmadatta chuyên tâm làm phước nghiệp sự lợi ích cho thần dân và không hề phạm Thập Vương pháp.  
  Một hôm mong muốn nghe thần dân bàn tán việc gì trong xứ sở của mình, ngài bèn cải trang làm một thợ may và rời kinh thành mà không có ai hầu cận.  
  Trong lúc ngài du hành từ làng này sang làng khác, quận này sang quận khác, ngài nhận thấy toàn quốc không có trộm cướp và bất công đàn áp, dân chúng sống thân thiện với nhau và có thể là an trú trong mọi nhà cửa mở toang.  
  Lòng vui mừng hớn hở, ngài khởi hành quay về kinh và đi đến một thị trấn nọ, ngài vào nhà một góa phụ nghèo khó. Khi thấy ngài, bà ấy hỏi:  
  – Này Tôn ông là ai? Tôn ông từ đâu đến đây?  
  Ngài đáp:  
  – Này hiền phụ, ta là một thợ may; ta đang đi quanh quẩn may thuê vá mướn để kiếm tiền. Nếu bà có vật gì cần may, bà hãy đưa cho ta, cả quần áo lẫn khăn đội đầu, ta sẽ may cho bà.  
  Bà liền nói:  
  – Chúng tôi không có việc gì cần làm về quần áo hoặc khăn đội đầu cả. Ông đi làm cho các người khác nhé.  
  Trong khi ngài ở vùng đó vài ngày, ngài thấy con gái bà có đủ tướng mạo tốt lành của phúc phận và đức hạnh, ngày sau ngài liền bảo bà mẹ:  
  – Nếu con gái bà chưa gả cho ai, thì xin bà hãy gả cho tôi. Tôi có đủ khả năng tìm kế sinh nhai để mẹ con bà no ấm.  
  Bà ấy gả con gái cho ngài. Sau khi đã ở lại với nàng vài ngày, ngài đưa cho nàng một ngàn đồng tiền vàng Kahàpana và nói:  
  – Ta sẽ trở lại trong vòng vài ngày thôi. Hiền thê chớ lo buồn gì cả.  
  Ngay sau đó ngài trở về kinh thành. Khi đã truyền lệnh đắp đường thật bằng phẳng giữa kinh đô và làng ấy cùng trang hoàng mọi sự xong xuôi, ngài đi đến nơi kia trong cảnh huy hoàng rực rỡ. Sau khi đã chất một đống tiền vàng lớn trên thân cô thiếu nữ và truyền đem nàng đi tắm rửa trong các chậu bằng vàng bạc, ngài đặt tên nàng là Ubbarì và phong nàng ngôi hoàng hậu.  
  Ngài ban cho quyến thuộc nàng ngôi làng ấy và sau đó đưa nàng về kinh trong cảnh oai nghi lộng lẫy. Ngài sống đời hạnh phúc với nàng, trị nước phồn vinh và sau đó băng hà.  
  Nỗi ưu phiền của Ubbarì được các vị kết tập Kinh điển kể lại như vầy:  
368. Ahu rājā brahmadatto, pañcālānaṃ rathesabho; Ahorattānamaccayā, rājā kālamakrubbatha [rājā kālaṅkarī tadā (sī.)]. 1. Brah-ma-dat, đại đế ngày xưa,. Chúa tể của dòng Pan-ca-la, Sau khoảng ngày đêm cai trị nước, Mạng chung, đại đế đã băng hà. 372. Xưa có đức vua Brahmadatta, vị chúa của các kỵ sĩ thuộc xứ sở Pañcāla. Khi ấy, sau khi trải qua những ngày và đêm, đức vua đã từ trần.
369. Tassa āḷāhanaṃ gantvā, bhariyā kandati ubbarī [uppari (ka.)]; Brahmadattaṃ apassantī, brahmadattāti kandati. 2. Hoàng hậu Ub-ba-rì khóc hoài,. Lên đàn tế lễ hỏa thiêu ngài, Dù không còn thấy hình tiên đế, Bà vẫn gào: ‘Brah-ma-dat ôi! 373. Người vợ Ubbarī đã đi đến nơi hỏa táng của vị ấy than khóc. Trong khi không nhìn thấy Brahmadatta, nàng than khóc rằng: “Ôi Brahmadatta!”
370. Isi ca tattha āgacchi, sampannacaraṇo muni; So ca tattha apucchittha, ye tattha susamāgatā. 3. Đến nơi kia một vị hiền nhân,. Bậc Thánh đầy đức hạnh chánh chân, Vào dịp lễ tang, ngài muốn hỏi Những người đang tụ tập quây quần: 374. Và vị ẩn sĩ ở nơi ấy, bậc hiền trí đầy đủ đức hạnh, đã đi đến. Và ở nơi ấy, vị ấy đã hỏi những người đã tụ tập ở nơi ấy rằng:
371. ‘‘Kassa idaṃ āḷāhanaṃ, nānāgandhasameritaṃ; Kassāyaṃ kandati bhariyā, ito dūragataṃ patiṃ; Brahmadattaṃ apassantī, ‘brahmadattā’ti kandati’’. 4. ‘Dàn hỏa táng ai chết thế này?. Các vòng hoa tỏa ngát hương bay, Vợ ai đang khóc chồng nàng vậy? Người ấy là ai quá vãng đây? Dù chẳng thấy đâu người đã khuất,. Nàng gào: ‘Brah-ma-dat thương thay!’   375. “Đài hỏa táng này là của ai mà được tỏa ra với nhiều mùi thơm khác nhau? Nàng này là vợ của ai mà than khóc người chồng đã từ nơi này đi xa?
    376. Trong khi không nhìn thấy Brahmadatta, nàng than khóc rằng: ‘Ôi Brahmadatta!’” Và những người đã tụ tập ở nơi ấy, họ đã giải thích về việc ấy rằng:
372. Te ca tattha viyākaṃsu, ye tattha susamāgatā; ‘‘Brahmadattassa bhadante [bhaddante (ka.)], brahmadattassa mārisa. 5. Những người đang ở đó thưa liền:. ‘Hoàng hậu là đây, chính vợ hiền; Cầu phúc phần ngài, thưa Thánh giả, Cầu vua Brah-ma-dat thăng Thiên’. 377. “Thưa ngài đại đức, là của (đức vua) Brahmadatta. Thưa tôn ông, là của (đức vua) Brahmadatta. Đài hỏa táng này là của vị ấy nên được tỏa ra với nhiều mùi thơm khác nhau.
373. ‘‘Tassa idaṃ āḷāhanaṃ, nānāgandhasameritaṃ; Tassāyaṃ kandati bhariyā, ito dūragataṃ patiṃ; Brahmadattaṃ apassantī, ‘brahmadattā’ti kandati’’. 6. Đây là dàn hỏa táng thi hài. Tỏa ngát hương bay khắp mọi nơi. Hoàng hậu là đây đang khóc lóc Tiên vương vừa khuất bóng trên đời, Dù không còn thấy ngài đâu nữa,. Bà khóc: ‘Brah-ma-dat hỡi ôi!’  378. Nàng này là vợ của vị ấy nên than khóc chồng đã từ nơi này đi xa. Trong khi không nhìn thấy Brahmadatta, nàng than khóc rằng: ‘Ôi Brahmadatta!’”[27]
  Vị khổ hạnh liền bảo hoàng hậu Ubbarì:   
374. ‘‘Chaḷāsītisahassāni, brahmadattassanāmakā; Imasmiṃ āḷāhane daḍḍhā, tesaṃ kamanusocasī’’ti. 7. ‘Tám vạn sáu ngàn người bấy lâu. Tên Brah-ma-dat cũng như nhau, Được thiêu trong nghĩa trang này vậy; Vì kẻ nào nàng phải khổ đau?’  379. “Tám mươi sáu ngàn người có tên là Brahmadatta đã được thiêu đốt ở đài hỏa táng này, nàng sầu muộn cho ai trong số những người ấy?”
375. ‘‘Yo rājā cūḷanīputto, pañcālānaṃ rathesabho; Taṃ bhante anusocāmi, bhattāraṃ sabbakāmada’’nti. Ubbarì:. 8. Tôn giả, con thương tiếc chúa công Cù-la-ni đế, chính con dòng, Làm vua bộ tộc Pan-ca ấy, Người đã ban con mọi ước mong. 380. “Thưa ngài, vị nào là đức vua, con trai của Cūḷanī, vị chúa của các kỵ sĩ thuộc xứ sở Pañcāla, tôi sầu muộn cho vị ấy, người chồng đã ban cho mọi điều ước muốn.”
376. ‘‘Sabbe vāhesuṃ rājāno, brahmadattassanāmakā; Sabbevacūḷanīputtā, pañcālānaṃ rathesabhā. Vị khổ hạnh:. 9. Tất cả những ai được gọi là Brah-ma-dat cũng đã làm vua, Đều là con của Cù-la đế, Chúa tể của dòng Pan-ca-la. 381. “Toàn thể tất cả đã là các vị vua, đều có tên là Brahmadatta. Toàn thể tất cả đều là con trai của Cūḷanī, là những vị chúa của các kỵ sĩ thuộc xứ sở Pañcāla.
377. ‘‘Sabbesaṃ anupubbena, mahesittamakārayi; Kasmā purimake hitvā, pacchimaṃ anusocasī’’ti. 10. Sanh tử dòng kia cứ chuyển vần,. Nàng làm hoàng hậu đã bao lần, Sao nàng quên lãng bao chồng cũ, Và chỉ tiếc thương vị cuối cùng?  382. Nàng đã làm chánh hậu của tất cả theo tuần tự, tại sao nàng lại từ bỏ những người trước kia mà chỉ sầu muộn cho người sau cùng?”
378. ‘‘Ātume itthibhūtāya, dīgharattāya mārisa; Yassā me itthibhūtāya, saṃsāre bahubhāsasī’’ti. Ubbarì:. 11. Chính vì con có phận hồng nhan, Tôn giả, từ xưa, vậy phải chăng Mọi việc theo dòng đời tiếp diễn,  Mà ngài cất tiếng để khuyên răn? 383. “Thưa tôn ông, ngài nói về tôi đây đã là người nữ nhiều lần trong sự luân hồi, có phải bản thân tôi đã là người nữ trong thời gian dài?”
379. ‘‘Ahu itthī ahu puriso, pasuyonimpi āgamā; Evametaṃ atītānaṃ, pariyanto na dissatī’’ti. Vị khổ hạnh:. 12. Nàng đã từng làm một nữ nhân, Nam nhi, thú vật, biết bao lần, Điều này chẳng thấy đâu biên giới Với việc tái sanh ở cõi trần. 384. “Nàng đã là người nữ, nàng đã là người nam, nàng cũng đã đi đến ở bào thai của loài thú, việc ấy là như vậy, (nhưng) không được xem là giới hạn của những kiếp quá khứ.”
380. ‘‘Ādittaṃ vata maṃ santaṃ, ghatasittaṃva pāvakaṃ; Vārinā viya osiñcaṃ, sabbaṃ nibbāpaye daraṃ. Ubbarì:. 13. Lòng con quả thật nóng bừng Như là sữa lạc đổ trong lửa đào, Ngài vừa tưới nước lạnh vào Giờ đây con dứt biết bao khổ sầu. 385. “Quả thật, trong khi tôi đang bị thiêu đốt tựa như ngọn lửa được rưới bơ lỏng, tôi có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưới nước xuống.
381. ‘‘Abbahī vata me sallaṃ, sokaṃ hadayanissitaṃ; Yo me sokaparetāya, patisokaṃ apānudi. 14. Chính ngài nhổ mũi tên đau. Nỗi ưu phiền đã cắm sâu vào lòng. Xua tan mọi nỗi thương tâm Sầu tư nặng trĩu, khóc thầm quân vương.  386. Quả vậy, mũi tên sầu muộn cắm ở tim của tôi đã được nhổ lên, trong khi tôi bị ưu phiền vì nỗi sầu muộn, ngài đã xua tan nỗi sầu muộn về người chồng cho tôi.
382. ‘‘Sāhaṃ abbūḷhasallāsmi, sītibhūtāsmi nibbutā; Na socāmi na rodāmi, tava sutvā mahāmunī’’ti. 15. Giờ đây trút bỏ đau buồn,. Lòng con lắng dịu, trí thường bình an, Con không còn phải khóc than Sau khi nghe những lời vàng ngài răn.  387. Tôi đây, với mũi tên đã được rút ra, có được trạng thái mát mẻ, được an tịnh. Thưa bậc đại hiền trí, sau khi lắng nghe ngài, tôi không sầu muộn, tôi không khóc than.”
  Để phát họa sự chứng đắc của Ubbarì, bậc Đạo Sư ngâm bốn vần kệ:  
383. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā, samaṇassa subhāsitaṃ; Pattacīvaramādāya, pabbaji anagāriyaṃ. 16. Khi nàng nghe được các lời ca. Đáng cảm phục từ bậc xuất gia, Nàng đắp chiếc y, cầm lấy bát, Ra đi theo cuộc sống không nhà. 388. “Sau khi lắng nghe lời nói ấy của của vị ấy, lời đã được khéo nói của vị Sa-môn, nàng đã cầm lấy bình bát và y, rồi đã xuất gia sống đời không nhà.[28]
384. Sā ca pabbajitā santā, agārasmā anagāriyaṃ; Mettācittaṃ abhāvesi, brahmalokūpapattiyā. 17. Khi giã từ nhà, cất bước lên. Đi vào cuộc sống giữa thiên nhiên, Nàng liền tu tập tâm từ ái, Để được tái sanh cõi Phạm thiên.  389. Và nàng ấy, trong khi đã được xuất gia, rời nhà sống không nhà, đã tu tập tâm từ nhằm đạt đến thế giới Phạm Thiên.
385. Gāmā gāmaṃ vicarantī, nigame rājadhāniyo; Uruvelā nāma so gāmo, yattha kālamakrubbatha. 18. Nàng đã viễn du mọi xóm làng,. Kinh thành, thị trấn, các hoàng cung, Ưu-lâu-tần ấy là tên gọi Thôn xóm nàng thân hoại mạng chung. 390. Trong khi lang thang từ làng này sang làng khác, đến các thị trấn, các kinh thành, nàng đã từ trần ở ngôi làng tên Uruvelā.
386. Mettācittaṃ ābhāvetvā, brahmalokūpapattiyā; Itthicittaṃ virājetvā, brahmalokūpagā ahūti. 19. Khi nàng đã phát triển từ tâm. Để được tái sanh ở Phạm cung, Nàng đã đoạn trừ tâm nữ giới, Trở thành một vị Phạm thiên thần. 391. Sau khi phát triển tâm từ nhằm đạt đến thế giới Phạm Thiên, sau khi xa lìa tâm của người nữ, nàng đã đi đến thế giới Phạm Thiên.”
Ubbaripetavatthu terasamaṃ.   Phẩm Ubbarī là thứ nhì.
Ubbarivaggo dutiyo niṭṭhito.   TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Tassuddānaṃ –   (Ngạ quỷ) vàng vọt, người mẹ, và người chồng, Nandā, Maṭṭakuṇḍalī, Ghaṭa (Kaṇha), hai người đại phú, người thợ may (Aṅkura), nghỉ trưa (Mẹ của Uttara), chỉ sợi, cầu thang (hồ Kaṇṇamuṇḍa), Ubbarī.
Mocakaṃ [paṇḍu (sabbattha)] mātā mattā [pitā (sī. ka.), patiyā (syā.)] ca, nandā kuṇḍalīnā ghaṭo;    
Dve seṭṭhī tunnavāyo ca, uttara [vihāra (sabbattha)] suttakaṇṇa [sopāna (sabbattha)] ubbarīti.