Tipitaka.org |
Việt dịch: GS. Trần Phương Lan |
Việt dịch: TK. Indacanda |
|
Bậc Đạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Jetavana (Kỳ Viên). |
|
|
Thuở ấy tại Sàvatthi (Xá-vệ) tương truyền con trai một vị đệ tử tại gia từ trần. Người cha đắm mình vào nỗi sầu khổ khóc than, không bước ra ngoài; vị ấy không thể làm gì được nên chỉ ở trong nhà. |
|
|
Lúc ấy, Bậc Đạo Sư vừa xuất định Đại bi từ sáng sớm đang quán sát cõi trần với Phật nhãn, sau khi thấy người đệ tử tại gia kia, Ngài cầm y bát và đến đứng ngay tại cửa nhà vị ấy. |
|
|
Vị đệ tử ấy vội vã đi ra tiếp đón Ngài, đỡ lấy bình bát và mời Ngài vào trong. Đức Thế Tôn nói với vị ấy: |
|
|
– Này cư sĩ, sao ông có vẻ mang nặng sầu tư? |
|
|
Vị ấy đáp: – Bạch Thế Tôn, quả thật con trai yêu quý của con vừa qua đời, nên con mang nặng sầu tư. |
|
|
Sau đó, đức Thế Tôn, bậc ly sầu, kể cho vị ấy nghe chuyện Tiền Thân Con Rắn (Kinh Bổn Sanh số 354). |
|
|
Thuở xưa trong quốc độ Kàsi, ở Ba-la-nại có một gia đình Bà-la-môn được mệnh danh Dhammapala (Hộ pháp). Trong nhà này, vị Bà-la-môn, bà vợ, con trai, con gái, con dâu, nữ tỳ, tất cả mọi người đều hân hoan thích thú hướng tâm niệm về cái chết. Bất cứ ai rời khỏi nhà đều nói cho những người khác biết và ra đi không hề bị ai để ý gì cả. |
|
|
Rồi một hôm, vị Bà-la-môn cùng con trai ra đồng và cày ruộng, trong khi cậu trai nhóm lửa để sấy khô cây cỏ. Tức thì một con rắn hổ mun sợ hãi bò ra khỏi lỗ cây và cắn cậu trai vị Bà-la-môn. Cậu từ trần và hóa sanh làm Sakka Thiên chủ. |
|
|
Còn vị Bà-la-môn, sau khi tắm rửa thật sạch sẽ và xoa dầu thơm cho mình xong, được đám người hộ tống vây quanh, vị ấy đặt thi thể con lên dàn hỏa và châm lửa giống như thể vị ấy đang đốt một đống củi vậy. Vị ấy cứ đứng đó, không sầu não cũng chẳng tự hành hạ mình, sau khi đã chú tâm vào niệm vô thường. |
|
|
Bấy giờ con trai vị Bà-la-môn đã hóa sanh làm Sakka Thiên chủ chính là Bồ-tát. Sau khi suy xét thiện nghiệp đã làm ở kiếp trước và đầy lòng thương xót cha Ngài cùng quyến thuộc, Ngài liền đến chỗ ấy, giả dạng một Bà-la-môn. |
|
|
Khi Ngài thấy mọi người không than khóc, liền bảo: |
|
|
– Này, chư vị đang nướng thịt súc vật à, cho ta một ít; ta đang đói đây. |
|
|
– Này Bà-la-môn, không phải là con vật đâu, con người đấy. |
|
|
Bồ-tát hỏi: – Thế đó là kẻ thù của chư vị chăng? |
|
|
Người cha đáp: – Chẳng phải kẻ thù đâu, mà là đứa con được bảo dưỡng trong lòng chúng tôi đấy, chính đứa con trai yêu quý đầy đủ các đức tính ưu tú của chúng tôi đấy. |
|
|
Bồ-tát lại hỏi: – Thế tại sao ông không khóc con? |
|
85. ‘‘Uragova tacaṃ jiṇṇaṃ, hitvā gacchati santanuṃ; Evaṃ sarīre nibbhoge, pete kālaṅkate sati. |
Vị Bà-la-môn đáp: 1. Như con rắn trút bỏ da tàn,. Đạt đến trưởng thành chính bản thân, Cũng vậy, khi thân không hưởng lạc, Đúng thời, người chết phải từ trần. |
85. “Giống như con rắn từ bỏ lớp vỏ già cỗi, phần thân thể của mình, rồi ra đi, tương tự như thế ấy khi thân xác không còn lợi ích, khi là người đã ra đi, đã từ trần. |
86. ‘‘Ḍayhamāno na jānāti, ñātīnaṃ paridevitaṃ; Tasmā etaṃ na rodāmi, gato so tassa yā gati’’. |
2. Kẻ bị thiêu không hiểu biết rằng. Họ hàng quyến thuộc vẫn đau thương, Cho nên tôi chẳng hề than khóc, Nó đã đi theo đúng bước đường. |
86. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không khóc cho người ấy, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.”[6] |
|
Sau đó Sakka Thiên chủ hỏi bà mẹ: – Bà ơi, người chết ấy là gì của bà? |
|
|
Bà đáp: – Thưa Ngài, tôi đã cưu mang nó mười tháng trong bụng, tôi cho nó bú mớm, tôi dẫn dắt tay chân nó, nó là con trai tôi đã khôn lớn rồi. |
|
|
Thiên chủ hỏi: – Cho dù cha là đàn ông thường không khóc chứ lòng mẹ chắc chắn là mềm yếu. Tại sao bà không khóc? |
|
87. ‘‘Anabbhito [anavhito (sī.)] tato āgā, nānuññāto ito gato; Yathāgato tathā gato, tattha kā [kā tattha (sī.)] paridevanā. |
Nghe vậy, bà đáp: 3. Không gọi, từ đâu nó đến đây,. Chẳng ai cho phép, nó đi ngay, Nó đi, nó đến đều như vậy, Sao phải khóc than nó chốn này? |
87. “Không được gọi, từ nơi kia nó đã đi đến; chưa được phép, từ nơi này nó đã ra đi. Nó đã đi đến như thế nào thì nó đã ra đi như thế ấy, trong trường hợp ấy sự than vãn có lợi ích gì? |
88. ‘‘Ḍayhamāno na jānāti, ñātīnaṃ paridevitaṃ; Tasmā etaṃ na rodāmi, gato so tassa yā gati’’. |
4. Kẻ bị thiêu không hiểu biết rằng. Họ hàng quyến thuộc vẫn đau thương, Cho nên tôi chẳng hề than khóc, Nó đã đi theo đúng bước đường. |
88. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không khóc cho người ấy, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.” |
|
Sau đó, Ngài hỏi người chị: |
|
|
– Này cô, người ấy là gì của cô? |
|
|
– Thưa Ngài, đó là anh trai của con. |
|
|
– Này cô, chị em gái thường rất yêu mến anh em trai. Tại sao cô không khóc? |
|
|
Cô chị giải thích: |
|
89. ‘‘Sace rode kisā assaṃ, tattha me kiṃ phalaṃ siyā; Ñātimittasuhajjānaṃ, bhiyyo no aratī siyā. |
5. Nếu con khóc, sẽ phải gầy mòn,. Bù đắp, có gì trả lại con? Còn phát sinh ra nhiều bất lợi Cho bà con, quyến thuộc, thân bằng. |
89. “Nếu tôi khóc, tôi sẽ trở nên tiều tụy; trong trường hợp ấy liệu có được kết quả gì cho tôi? (Việc ấy) còn làm tăng thêm sự ưu sầu cho quyến thuộc bạn bè thân hữu của chúng tôi. |
90. ‘‘Ḍayhamāno na jānāti, ñātīnaṃ paridevitaṃ; Tasmā etaṃ na rodāmi, gato so tassa yā gati’’. |
6. Kẻ bị thiêu không hiểu biết rằng. Họ hàng quyến thuộc vẫn đau thương, Cho nên con chẳng hề than khóc, Kẻ đã đi theo đúng bước đường. |
90. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không khóc cho người ấy, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.” |
|
Sau đó, Ngài lại hỏi người quả phụ: |
|
|
– Người đó là gì đối với chị? |
|
|
– Thưa Ngài, đó là chồng của con. |
|
|
– Này chị, các người vợ thường rất yêu thương chồng mình. Tại sao chị không khóc? |
|
|
Nàng liền giải thích: |
|
91. ‘‘Yathāpi dārako candaṃ, gacchantamanurodati; Evaṃ sampadamevetaṃ, yo petamanusocati. |
7. Giống như đứa trẻ nọ kêu than. Khi mặt trăng kia cứ lặn dần, Làm chính việc này đâu có khác Người nào thương khóc kẻ từ trần. |
91. “Cũng giống như đứa bé trai khóc lóc đòi mặt trăng đang di chuyển, người thương tiếc kẻ đã quá vãng có sự thành tựu y như thế. |
92. ‘‘Ḍayhamāno na jānāti, ñātīnaṃ paridevitaṃ; Tasmā etaṃ na rodāmi, gato so tassa yā gati’’. |
8. Kẻ bị thiêu không hiểu biết rằng. Họ hàng quyến thuộc vẫn đau thương, Cho nên con chẳng hề than khóc, Kẻ đã đi theo đúng bước đường. |
92. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không khóc cho người ấy, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.” |
|
Sau đó Ngài hỏi cô nữ tỳ: |
|
|
– Này cô, người ấy là gì của cô? |
|
|
– Thưa Ngài, đó là cậu chủ con. |
|
|
– Nếu vậy, chắc có lẽ cậu ấy đã đánh đập cô, và cô sắp làm quản gia rồi, bởi thế cô không than khóc, vì suy nghĩ: ‘Ta rất sung sướng được thoát khỏi người đã chết này’. |
|
|
Nữ tỳ đáp: |
|
|
– Thưa Ngài, xin đừng nói như vậy với con. Điều ấy không đúng. Cậu chủ nhà đối với con đầy kiên nhẫn, thân ái, ân cần, cư xử đúng mực chân chánh như một thanh niên trưởng thành được nuôi dạy chu đáo. |
|
|
– Thế tại sao cô không khóc? |
|
|
Nàng đáp: |
|
93. ‘‘Yathāpi brahme udakumbho, bhinno appaṭisandhiyo; Evaṃ sampadamevetaṃ, yo petamanusocati. |
9. Giống như trường hợp Bà-la-môn. Có một chiếc bình đã vỡ toang Không thể phục hồi, và cũng vậy, Hoài công thương khóc kẻ từ trần. |
93. “Này người Bà-la-môn, cũng giống như lọ nước đã bị vỡ, không thể hàn gắn lại, người thương tiếc kẻ đã quá vãng có sự thành tựu y như thế. |
94. ‘‘Ḍayhamāno na jānāti, ñātīnaṃ paridevitaṃ; Tasmā etaṃ na rodāmi, gato so tassa yā gatī’’ti. |
10. Kẻ bị thiêu không hiểu biết rằng. Họ hàng quyến thuộc vẫn đau thương, Cho nên con chẳng hề than khóc, Kẻ đã đi theo đúng bước đường. |
94. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không khóc cho người ấy, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.” |
|
Khi Sakka Thiên chủ đã nghe pháp thoại của cả nhà ấy xong, Ngài hân hoan nói: – Chư vị đã chân chánh tu tập niệm chết. Từ nay về sau chư vị không cần cày bừa lao động gì nữa cả. Ngài liền hóa hiện ra bảy thứ báu vật tràn đầy nhà họ và khuyên nhủ với họ với những lời này: – Hãy chuyên tâm bố thí, hành trì Ngũ giới và giữ ngày Trai giới (Bố-tát). Sau đó Ngài xuất lộ nguyên hình trước mặt họ và trở về cõi của Ngài. Còn vị Bà-la-môn và gia đình luôn bố thí, thực hành mọi thiện sự khác và sau khi sống đời trường thọ, liền được tái sanh lên thiên giới. |
|
Uragapetavatthu dvādasamaṃ. |
|
Phẩm Rắn là thứ nhất. |
Uragavaggo paṭhamo niṭṭhito. |
|
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY |
Tassuddānaṃ – |
|
Cánh đồng, con heo, (miệng) hôi thối, luôn cả (hình nộm) bằng bột, bên kia vách tường, rồi năm, và bảy đứa con trai, con bò đực, và người thợ dệt, tương tự là đầu bị sói, con voi, và luôn cả rắn nữa là mười hai. |
Khettañca sūkaraṃ pūti, piṭṭhaṃ cāpi tirokuṭṭaṃ; |
|
|
Pañcāpi sattaputtañca, goṇaṃ pesakārakañca; |
|
|
Tathā khallāṭiyaṃ nāgaṃ, dvādasaṃ uragañcevāti. |
|
|