Sāsanapaṭṭhānaṃ

Sự hình thành giáo pháp

Tipitaka.org Việt dịch: TK. Indacanda
89. Tattha aṭṭhārasa mūlapadā kuhiṃ daṭṭhabbā? Sāsanapaṭṭhāne. Tattha katamaṃ sāsanapaṭṭhānaṃ? Saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ, vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ, nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ, asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ, saṃkilesabhāgiyañca vāsanābhāgiyañca suttaṃ, saṃkilesabhāgiyañca nibbedhabhāgiyañca suttaṃ, saṃkilesabhāgiyañca asekkhabhāgiyañca suttaṃ, saṃkilesabhāgiyañca nibbedhabhāgiyañca asekkhabhāgiyañca suttaṃ, saṃkilesabhāgiyañca vāsanābhāgiyañca nibbedhabhāgiyañca suttaṃ, vāsanābhāgiyañca nibbedhabhāgiyañca suttaṃ, taṇhāsaṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ, diṭṭhisaṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ, duccaritasaṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ, taṇhāvodānabhāgiyaṃ suttaṃ, diṭṭhivodānabhāgiyaṃ suttaṃ, duccaritavodānabhāgiyaṃ suttaṃ. Ở đấy, 18 thuật ngữ căn bản có thể được thấy ở đâu? Ở sự hình thành giáo pháp. Ở đấy, cái nào là sự hình thành giáo pháp? Kinh liên quan đến phiền não, kinh liên quan đến huân tập, kinh liên quan đến thấu triệt, kinh liên quan đến bậc Vô Học, kinh liên quan đến phiền não và liên quan đến huân tập, kinh liên quan đến phiền não và liên quan đến thấu triệt, kinh liên quan đến phiền não và liên quan đến bậc Vô Học, kinh liên quan đến phiền não, liên quan đến thấu triệt, và liên quan đến bậc Vô Học, kinh liên quan đến phiền não, liên quan đến huân tập, và liên quan đến thấu triệt, kinh liên quan đến huân tập và liên quan đến thấu triệt, kinh liên quan đến phiền não tham ái, kinh liên quan đến phiền não tà kiến, kinh liên quan đến phiền não uế hạnh, kinh liên quan đến thanh lọc tham ái, kinh liên quan đến thanh lọc tà kiến, kinh liên quan đến thanh lọc uế hạnh. 
Tattha saṃkileso tividho – taṇhāsaṃkileso diṭṭhisaṃkileso duccaritasaṃkileso. Tattha taṇhāsaṃkileso samathena visujjhati, so samatho samādhikkhandho. Diṭṭhisaṃkileso vipassanāya visujjhati, sā vipassanā paññākkhandho. Duccaritasaṃkileso sucaritena visujjhati, taṃ sucaritaṃ sīlakkhandho. Tassa sīle patiṭṭhitassa yadi āsatti uppajjati bhavesu, evaṃ sāyaṃ samathavipassanā bhāvanāmayaṃ puññakriyavatthu bhavati tatrūpapattiyā saṃvattati. Imāni cattāri suttāni, sādhāraṇāni katāni aṭṭha bhavanti, tāniyeva aṭṭha suttāni sādhāraṇāni katāni soḷasa bhavanti.  Ở đấy, phiền não có ba loại: phiền não tham ái, phiền não tà kiến, phiền não uế hạnh. Ở đấy, phiền não tham ái được thanh tịnh nhờ vào chỉ tịnh; chỉ  tịnh ấy là định uẩn. Phiền não tà kiến được thanh tịnh nhờ vào minh sát; minh sát ấy là tuệ uẩn. Phiền não uế hạnh được thanh tịnh nhờ vào thiện hạnh; thiện hạnh ấy là giới uẩn. Đối với vị đã được thiết lập ở giới, nếu có sự  dính mắc ở các hữu sanh khởi (đến vị ấy), như vậy thì chỉ tịnh và minh sát của vị ấy là việc làm phước thiện được tạo ra do tu tập; nó vận hành đưa đến sự tái sanh ở cảnh giới này khác.   Bốn kinh này đã được kết hợp chung lại trở thành tám. Chính tám kinh ấy đã được kết hợp chung lại trở thành mười sáu.
Imehi soḷasahi suttehi bhinnehi navavidhaṃ suttaṃ bhinnaṃ bhavati. Gāthāya gāthā anuminitabbā, veyyākaraṇena veyyākaraṇaṃ anuminitabbaṃ. Suttena suttaṃ anuminitabbaṃ. Với mười sáu kinh đã được chia chẻ này trở thành chín thể loại Kinh đã được chia chẻ. Thể loại gāthā  nên được cân nhắc theo thể loại gāthā. Thể loại veyyākaraṇa nên được cân nhắc theo thể loại veyyākaraṇa. Thể loại sutta nên được cân nhắc theo thể  loại sutta. 
90. Tattha katamaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ? (1) Ở đấy, kinh nào là kinh liên quan đến phiền não? 
‘‘Kāmandhā jālasañchannā, taṇhāchadanachāditā;  1. “Bị mù quáng bởi dục vọng, bị bao trùm bởi tấm lưới, bị che đậy bởi tấm choàng tham ái, 
Pamattabandhanā [pamattabandhunā (udā. 74)] baddhā, macchāva kumināmukhe; bị trói buộc bởi sự trói buộc của xao lãng, tựa như  những con cá ở nơi cửa miệng của tấm lưới, 
Jarāmaraṇamanventi, vaccho khīrapakova [khīrūpakova (ka.) passa udā. 64] mātara’’nti. chúng đi theo sau già và chết, tựa như con bê bú sữa đi theo sau bò mẹ.” 1 
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
Cattārimāni, bhikkhave, agatigamanāni. Katamāni cattāri? Chandāgatiṃ [chandā agatiṃ (sī. ka.) passa a. ni. 4.17] gacchati, dosāgatiṃ gacchati, mohāgatiṃ gacchati, bhayāgatiṃ gacchati. Imāni kho, bhikkhave, cattāri agatigamanāni. Idamavoca bhagavā, idaṃ vatvāna sugato, athāparaṃ etadavoca satthā  “Này các tỳ khưu, đây là bốn việc đi đến sự sai trái. Bốn việc nào?  Người đi đến sự sai trái vì mong muốn, đi đến sự sai trái vì sân hận, đi đến sự sai trái vì sợ hãi, đi đến sự sai trái vì si mê. Thật vậy, này các tỳ khưu, đây là bốn việc đi đến sự sai trái. Đức Thế Tôn đã nói điều này. Sau khi nói điều này, đấng Thiện Thệ, bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: 2. 
‘‘Chandā dosā bhayā mohā, yo dhammaṃ ativattati; Vì mong muốn, vì sân hận, vì sợ hãi, vì si mê, vị nào vượt quá Giáo Pháp, 
Nihīyati tassa yaso, kāḷapakkheva candimā’’ti. danh tiếng của vị ấy bị hủy hoại, ví như mặt trăng vào lúc hạ  huyền.” 2 
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
‘‘Manopubbaṅgamā dhammā, manoseṭṭhā manomayā; Manasā ce paduṭṭhena, bhāsati vā karoti vā; 3. “Các pháp (sở hữu tâm) có tâm là sự dẫn đầu, có tâm là chủ đạo, được tạo ra bởi tâm. Nếu (người nào) nói hay làm với tâm xấu xa, 
Tato naṃ dukkhamanveti, cakkaṃva vahato pada’’nti. do điều ấy khổ đau đi theo người ấy ví như bánh xe (đi theo) bước chân của con vật đang kéo xe.” 3 
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
‘‘Middhī [passa dha. pa. 325] yadā hoti mahagghaso ca, niddāyitā samparivattasāyī; Mahāvarāhova nivāpapuṭṭho, punappunaṃ gabbhamupeti mando’’ti. 4. “Lúc biếng nhác và ăn nhiều, mê ngủ, nằm trăn trở, ví như con heo bự được nuôi bằng cám thừa, kẻ ngu sanh vào bào thai lượt này đến lượt khác.” 4 
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
‘‘Ayasāva malaṃ samuṭṭhitaṃ, tatuṭṭhāya [taduṭṭhāya (sī.) passa dha. pa. 240] tameva khādati; Evaṃ atidhonacārinaṃ, sāni [tāni (sī.) passa dha. pa. 240] kammāni nayanti duggati’’nti.  5. “Ví như chất rỉ sét đã được sanh lên từ mảnh sắt, sau khi sanh lên từ  mảnh sắt nó ăn mòn chính mảnh sắt ấy, tương tự như thế các việc làm của bản thân dẫn dắt kẻ có sự thọ dụng bốn món vật dụng thiếu sự quán xét5 đi đến khổ cảnh.” 6 
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
‘‘Coro yathā sandhimukhe gahīto, sakammunā haññati bajjhate ca; Evaṃ ayaṃ pecca pajā parattha, sakammunā haññati bajjhate cā’’ti.  6. “Giống như kẻ trộm cướp, bị bắt giữ ở lối xâm nhập ngôi nhà, bị  hành hạ và bị giam cầm bởi việc làm của chính mình, tương tự như thế loài người, sau khi chết đi đến thế giới khác, bị hành hạ và bị giam cầm bởi việc làm của chính mình.” 1 
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
‘‘Sukhakāmāni bhūtāni, yo daṇḍena vihiṃsati; 7. “Kẻ nào hãm hại các chúng sanh có sự mong mỏi hạnh phúc bằng gậy gộc, 
Attano sukhamesāno, pecca so na labhate [labhe (ka.) passa dha. pa. 131] sukha’’nti. trong khi tầm cầu hạnh phúc cho bản thân, kẻ ấy không đạt được hạnh phúc sau khi chết.” 2 
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
‘‘Gunnaṃ ce taramānānaṃ, jimhaṃ gacchati puṅgavo;  8. “Trong khi đàn bò vượt qua (sông), nếu con bò đực đi quanh co, 
Sabbā tā jimhaṃ gacchanti, nette jimhaṃ gate [jimhagate (sī. ka.) passa a. ni. 4.70] sati. tất cả  các con bò cái sẽ đi quanh co khi con bò dẫn đường đi quanh co. 
‘‘Evameva manussesu, yo hoti seṭṭhasammato;  9. Tương tự y như thế ở loài người, nếu người được phong làm thủ  lãnh thực hành không đúng pháp, 
So ce adhammaṃ carati, pageva itarā pajā; không cần phải đề cập đến những kẻ  khác, 
Sabbaṃ raṭṭhaṃ dukkhaṃ seti, rājā ce hoti adhammiko’’ti. toàn bộ đất nước sẽ bị lầm than nếu vị vua là kẻ không công chính.” 3 
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
‘‘Sukiccharūpāvatime manussā, karonti pāpaṃ upadhīsu rattā; 10. “Thật vậy, những người này, với bộ dạng vô cùng khốn khổ, bị luyến ái với những mầm tái sanh, chúng làm việc ác, 
Gacchanti te bahujanasannivāsaṃ, nirayaṃ avīciṃ kaṭukaṃ bhayānaka’’nti. chúng đi đến nơi trú ngụ dành cho nhiều người, là địa ngục avīci nhức nhối, ghê rợn.” 
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
‘‘Phalaṃ ve [passa a. ni. 4.68] kadaliṃ hanti, phalaṃ veḷuṃ phalaṃ naḷaṃ; Sakkāro kāpurisaṃ hanti, gabbho assatariṃ yathā’’ti.  11. “Đúng vậy, (sự kết) trái hại chết cây chuối, (sự kết) trái hại chết cây tre, (sự kết) trái hại chết cây sậy, sự trọng vọng hại chết kẻ ngu tương tự  như bào thai hại chết con lừa.” 4 
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
‘‘Kodhamakkhagaru bhikkhu, lābhasakkāragāravo [lābhasakkārakāraṇā (sī. ka.) passa a. ni. 4.43];  12. “Vị tỳ khưu thiên nặng về giận dữ và gièm pha vì nguyên nhân lợi lộc, trọng vọng, 
Sukhette pūtibījaṃva, saddhamme na virūhatī’’ti. không tiến triển ở chánh pháp, ví như hạt giống thối ở  ruộng tốt.” 
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
91. ‘‘Idhāhaṃ, bhikkhave, ekaccaṃ puggalaṃ paduṭṭhacittaṃ evaṃ cetasā ceto paricca pajānāmi, (yathā kho ayaṃ puggalo iriyati, yañca paṭipadaṃ paṭipanno, yañca maggaṃ samārūḷho) [( ) natthi a. ni. 1.43-44; itivu. 20]. Imamhi cāyaṃ samaye kālaṃ kareyya, yathābhataṃ nikkhitto, evaṃ niraye. Taṃ kissa hetu? Cittaṃ hissa, bhikkhave, paduṭṭhaṃ [padositaṃ (sī. ka.) a. ni. 1.43; itivu. 20 passitabbaṃ], cetopadosahetu [cittapadosahetu (sī. ka.)] kho pana, bhikkhave, evamidhekacce sattā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjantī’’ti. Etamatthaṃ bhagavā avoca, tatthetaṃ iti vuccati –  “Ở đây, này các tỳ khưu, sau khi biết rõ tâm bằng tâm như vậy, Ta nhận biết một người nào đó có tâm xấu xa theo như cách người này sinh hoạt, lối thực hành nào đã thực hành, đạo lộ nào đã đi theo, và vào lúc này người này có thể qua đời, và bị ném xuống địa ngục giống như vật đã được mang lại (và bị ném xuống). Điều ấy có nguyên nhân là gì? Này các tỳ  khưu, bởi vì tâm của người này là xấu xa. Hơn nữa, này các tỳ khưu, do nhân xấu xa ở tâm, như vậy ở đây một số chúng sanh, khi tan rã thân xác và chết đi, bị sanh vào đọa xứ, khổ cảnh, nơi trừng phạt, địa ngục. Đức Thế  Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói như vầy: 
‘‘Paduṭṭhacittaṃ ñatvāna, ekaccaṃ idha puggalaṃ; 13. ‘ Sau khi biết được người nào đó ở đây có tâm xấu xa, 
Etamatthañca byākāsi, buddho [satthā (sī. ka.)] bhikkhūna santike; đức Phật đã giải thích ý nghĩa này trong sự hiện diện của các vị tỳ khưu. 
Imamhi cāyaṃ samaye, kālaṃ kayirātha puggalo;  14. Và vào lúc này người này có thể từ trần,  
Nirayaṃ upapajjeyya, cittaṃ hissa padūsitaṃ; có thể sanh vào địa ngục bởi vì tâm của người này xấu xa. 1 
Cetopadosahetu hi, sattā gacchanti duggatiṃ. Bởi vì do nhân xấu xa ở tâm, các chúng sinh đi đến khổ cảnh. 
Yathābhataṃ nikkhipeyya, evameva tathāvidho;  15. Giống như có thể ném xuống vật đã được mang lại, tương tự y như  vậy, 
Kāyassa bhedā duppañño, nirayaṃ sopapajjatī’’ti. theo cách thức như thế, khi tan rã thân xác, kẻ thiếu trí tuệ ấy sanh vào địa ngục.’ 
Ayampi attho vutto bhagavatā iti me sutanti. Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.” 
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
‘‘Sace bhāyatha dukkhassa, sace vo dukkhamappiyaṃ; 16. “Nếu các con sợ hãi sự khổ đau, nếu sự khổ đau là không được các con ưa thích, các con chớ làm việc ác dầu là công khai hay kín đáo. 
Mākattha pāpakaṃ kammaṃ, āvi [āvī (sī.) passa udā. 44] vā yadi vā raho.  
‘‘Sace ca pāpakaṃ kammaṃ, karissatha karotha vā; 17. Và nếu các con sẽ làm việc ác, hoặc đang làm, thì không có sự thoát ra khỏi khổ đau cho các con, cho dầu các con lánh xa và trốn chạy.” 2 
Na vo dukkhā pamutyatthi, upeccapi palāyata’’nti.  
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
‘‘Adhammena dhanaṃ laddhā, musāvādena cūbhayaṃ; Mameti bālā maññanti, taṃ kathaṃ nu bhavissati. 18. “Sau khi đạt được tài sản bằng cách phi pháp và bằng lời nói dối, những kẻ ngu nghĩ rằng cả hai (tài sản) là ‘của ta,’ tài sản ấy sẽ trở thành như thế nào? 
‘‘Antarāyā su bhavissanti, sambhatassa vinassati;  19. Các tai họa sẽ xảy ra, vật đã được đem lại của việc làm này bị tiêu hoại. 
Matā saggaṃ na gacchanti, nanu ettāvatā hatā’’ti. Chết đi, chúng không đi đến cõi Trời; phải chăng chúng bị tổn hại chỉ  có chừng ấy?” 
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
‘‘Kathaṃ khaṇati attānaṃ, kathaṃ mittehi jīrati; Kathaṃ vivaṭṭate dhammā, kathaṃ saggaṃ na gacchati. 20. “Đào bới bản thân là thế nào? Mất mát bạn bè là thế nào? Quay lưng với chánh pháp là thế nào? Không đi đến cõi Trời là thế nào? 
‘‘Lobhā khaṇati attānaṃ, luddho mittehi jīrati; 21. Đào bới bản thân là do tham. Kẻ tham lam mất mát bạn bè. 
Lobhā vivaṭṭate dhammā, lobhā saggaṃ na gacchatī’’ti. Quay lưng với chánh pháp là do tham. Do tham không đi đến cõi Trời.” 
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
‘‘Caranti bālā dummedhā, amitteneva attanā;  22. “Trong khi làm nghiệp ác là việc làm có quả báo đắng cay, những kẻ  ngu có trí tồi cư xử với bản thân như là (cư xử) với kẻ thù. 
Karontā pāpakaṃ kammaṃ, yaṃ hoti kaṭukapphalaṃ [kaṭakaṃ phalaṃ (ka.) passa dha. pa. 66].  
‘‘Na taṃ kammaṃ kataṃ sādhu, yaṃ katvā anutappati; Yassa assumukho rodaṃ, vipākaṃ paṭisevatī’’ti. 23. Việc nào sau khi làm mà bị hối hận, và nhận lãnh quả thành tựu của việc ấy với khuôn mặt đầy nước mắt, khóc lóc, thì việc ấy đã được làm một cách không tốt đẹp.” 3 
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
‘‘Dukkaraṃ duttitikkhañca, abyattena ca [aviyattena (sī. ka.) passa saṃ. ni. 1.17] sāmaññaṃ; Bahū hi tattha sambādhā, yattha bālo visīdati. 24. “Với kẻ thiếu trí, đời sống sa-môn là khó thực hành, khó chịu đựng, bởi vì ở đấy có nhiều trở ngại khiến kẻ ngu chán nản. 
‘‘Yo hi atthañca dhammañca, bhāsamāne tathāgate; 25. Bởi vì trong khi đức Như Lai đang thuyết về ý nghĩa và Giáo Pháp, kẻ nào, ngu muội, khởi tâm xấu xa, đời sống của kẻ ấy thật là vô ích. 
Manaṃ padosaye bālo, moghaṃ kho tassa jīvitaṃ.  
‘‘Etañcāhaṃ arahāmi, dukkhañca ito ca pāpiyataraṃ bhante; Yo appameyyesu tathāgatesu, cittaṃ padosemi avītarāgo’’ti. 26. Con xứng đáng với sự khổ đau này và điều tệ hại hơn thế này nữa, bạch Ngài, là kẻ có ái luyến chưa được xa lìa, con khởi tâm xấu xa đối với các đấng Như Lai vô lượng.” 
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
‘‘Appameyyaṃ paminanto, kodha vidvā vikappaye; 27. “Kẻ nào, ở đây là người hiểu biết, có thể đánh giá và xếp hạng bậc vô lượng? Ta nghĩ rằng kẻ đang đánh giá bậc vô lượng là kẻ thiểu tuệ, (có trí) đã bị trùm kín.” 
Appameyyaṃ pamāyinaṃ [pamāyantaṃ (sī. ka.) passa saṃ. ni. 1.179], nivutaṃ taṃ maññe akissava’’nti.  
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
‘‘Purisassa hi jātassa, kuṭhārī [kudhārī (ka.) passa saṃ. ni. 1.180] jāyate mukhe; Yāya chindati attānaṃ, bālo dubbhāsitaṃ bhaṇaṃ.  28. “Bởi vì khi con người đã được sanh ra, có cái rìu được sanh ra ở  miệng (của người ấy), với cái rìu ấy kẻ ngu cắt đứt bản thân trong khi kẻ  ấy nói lời xấu xa. 
‘‘Na hi satthaṃ sunisitaṃ, visaṃ halāhalaṃ iva; 29. Bởi vì, con dao đã khéo được mài bén, ví như thuốc độc cực mạnh, không làm cho kẻ gây hấn rơi vào (các đọa xứ) giống như lời nói đã được nói một cách xấu xa.” 1 
Evaṃ viraddhaṃ pāteti, vācā dubbhāsitā yathā’’ti.  
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
92. ‘‘Yo nindiyaṃ pasaṃsati, taṃ vā nindati yo pasaṃsiyo; Vicināti mukhena so kaliṃ, kalinā tena sukhaṃ na vindati. 30. “Kẻ nào khen ngợi người đáng bị chê bai, hoặc chê bai người đáng được khen ngợi, kẻ ấy tích lũy lầm lỗi bởi cái miệng, do lầm lỗi ấy không tìm thấy sự an lạc. 
‘‘Appamatto ayaṃ kali, yo akkhesu dhanaparājayo; 31. Lầm lỗi này, việc thất thoát tài sản, thậm chí toàn bộ (của cải) cùng với bản thân ở các con súc sắc, là có tầm cỡ nhỏ nhoi. Kẻ nào khởi tâm ý xấu xa đối với các bậc đã đi đến trạng thái tốt lành, chính lầm lỗi này là to lớn hơn. 
Sabbassāpi sahāpi attanā, ayameva mahantataro [mahattaro (ka.) passa a. ni. 4.3; saṃ. ni. 1.180] kali;  
Yo sugatesu manaṃ padosaye.  
‘‘Sataṃ sahassānaṃ nirabbudānaṃ, chattiṃsatī pañca ca abbudāni; Yamariyagarahī nirayaṃ upeti, vācaṃ manañca paṇidhāya pāpaka’’nti.  32. Sau khi buông ra lời nói và ý nghĩ ác xấu, kẻ quở trách các bậc Thánh nhân đi đến địa ngục là một trăm ngàn (địa ngục) Nirabbuda  với ba mươi sáu (địa ngục Nirabbuda) và năm (địa ngục) Abbuda.” 2 
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
‘‘Yo lobhaguṇe anuyutto, so vacasā [vacasā ca (ka.) passa su. ni. 668] paribhāsati aññe; Assaddho kadariyo [anariyo (sī. ka.)] avadaññū, macchari pesuṇiyaṃ anuyutto.  33. “Kẻ nào đeo bám vào tham ái,  kẻ ấy chê bai những người khác bằng lời nói,  là kẻ không có niềm tin, keo kiệt, là kẻ không hào phóng, bỏn xẻn, là kẻ đeo đuổi việc nói đâm thọc. 
‘‘Mukhadugga vibhūta anariya, bhūnahu pāpaka dukkaṭakāri;  34. Này kẻ ăn nói thô lỗ, thiếu chân thật, không thánh thiện, kẻ đồi trụy, ác độc, kẻ làm hành động xấu xa, kẻ khốn cùng, xui xẻo, kẻ hạ căn,  ngươi chớ nói nhiều ở nơi đây; ngươi là hạng người ở địa ngục. 
Purisanta kalī avajātaputta [avajātakaputta (sī. ka.) passa su. ni. 669], mā bahubhāṇidha nerayikosi.  
‘‘Rajamākirasī ahitāya, sante garahasi kibbisakārī;  35. Ngươi gieo rắc bụi bặm (phiền não) vào sự bất hạnh (của chính ngươi), ngươi quở trách những bậc đức độ, ngươi là kẻ làm điều sái quấy.  Và sau khi thực hành nhiều uế hạnh, ngươi sẽ đi đến đọa xứ trong thời gian lâu dài.” 1 
Bahūni duccaritāni caritvā, gacchasi kho papataṃ ciraratta’’nti.  
Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
Tattha katamaṃ vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ? (2) Ở đấy, kinh nào là kinh liên quan đến huân tập? 
‘‘Manopubbaṅgamā dhammā, manoseṭṭhā manomayā; Manasā ce pasannena, bhāsati vā karoti vā; 1. “Các pháp (sở hữu tâm) có tâm là sự dẫn đầu, có tâm là chủ đạo, được tạo ra bởi tâm. Nếu (người nào) nói hay làm với tâm trong sạch, do điều ấy hạnh phúc đi theo người ấy ví như bóng có sự không lìa khỏi (hình).” 2 
Tato naṃ sukhamanveti, chāyāva anapāyinī’’ti [anupāyinīti (ka.) passa dha. pa. 2].  
Idaṃ vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến huân tập. 
93. Mahānāmo sakko bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘idaṃ, bhante, kapilavatthu iddhañceva phītañca bāhujaññaṃ [bahujanaṃ (sī. ka.) passa saṃ. ni. 5.1018] ākiṇṇamanussaṃ sambādhabyūhaṃ, so kho ahaṃ, bhante, bhagavantaṃ vā payirupāsitvā manobhāvanīye vā bhikkhū sāyanhasamayaṃ kapilavatthuṃ pavisanto bhantenapi hatthinā samāgacchāmi, bhantenapi assena samāgacchāmi, bhantenapi rathena samāgacchāmi, bhantenapi sakaṭena samāgacchāmi, bhantenapi purisena samāgacchāmi,   Vị Mahānāma dòng Sakya đã nói với đức Thế Tôn điều này: “Bạch Ngài, thành Kapilavatthu này vừa phồn thịnh vừa giàu có, đông dân, người chen chúc, đường phố bị tắc nghẽn. Bạch Ngài, con đây, sau khi hầu cận đức Thế  Tôn hoặc các vị tỳ khưu đáng được tôn kính, vào buổi chiều, trong khi đang đi vào thành Kapilavatthu, con đi ngược chiều với con voi đi rông, với con ngựa đi rông, với cỗ xe đi rông, với xe kéo đi rông, với con người đi rông. 
tassa mayhaṃ, bhante, tasmiṃ samaye mussateva bhagavantaṃ ārabbha sati, mussati dhammaṃ ārabbha sati, mussati saṅghaṃ ārabbha sati. Tassa mayhaṃ, bhante, evaṃ hoti ‘imamhi cāhaṃ sāyanhasamaye kālaṃ kareyyaṃ, kā mayhaṃ [mamassa (sī. ka.) passa saṃ. ni. 5.1018] gati, ko abhisamparāyo’’’ti. Bạch Ngài, đối với con đây, vào lúc ấy, niệm hướng đến đức Thế Tôn thật sự bị quên bẵng, niệm hướng đến Giáo Pháp bị quên bẵng, niệm hướng đến Tăng Chúng bị quên bẵng. Bạch Ngài, con đây khởi ý như vầy: ‘Nếu ta qua đời vào lúc này thì cảnh giới tái sanh của ta sẽ là gì, kiếp sống kế tiếp sẽ là gì? ’” 
‘‘Mā bhāyi, mahānāma, mā bhāyi, mahānāma, apāpakaṃ te maraṇaṃ bhavissati, apāpikā [apāpikā te (sī.)] kālaṅkiriyā. Catūhi kho, mahānāma, dhammehi samannāgato ariyasāvako nibbānaninno hoti nibbānapoṇo nibbānapabbhāro. Katamehi catūhi? Idha, mahānāma, ariyasāvako buddhe aveccappasādena samannāgato hoti, itipi so bhagavā arahaṃ …pe… buddho bhagavāti. Dhamme …pe… saṅghe …pe… ariyakantehi sīlehi samannāgato hoti akhaṇḍehi …pe… samādhisaṃvattanikehi. Seyyathāpi, mahānāma, rukkho pācīnaninno pācīnapoṇo pācīnapabbhāro, so mūlacchinno [mūlehi chinno (sī. ka.)] katamena papateyyā’’ti? ‘‘Yena, bhante, ninno yena poṇo yena pabbhāro’’ti. ‘‘Evameva kho, mahānāma, imehi catūhi dhammehi samannāgato ariyasāvako nibbānaninno hoti nibbānapoṇo nibbānapabbhāro. Mā bhāyi, mahānāma, mā bhāyi, mahānāma, apāpakaṃ te maraṇaṃ bhavissati, apāpikā kālaṅkiriyā’’ti.  “Này Mahānāma, ngươi chớ sợ hãi. Này Mahānāma, ngươi chớ sợ hãi.  Cái chết của ngươi sẽ không tệ, sự qua đời của ngươi sẽ không tồi. Này Mahānāma, được thành tựu với bốn pháp này, vị Thánh Thinh Văn là thiên về Niết Bàn, nghiêng về Niết Bàn, xuôi về Niết Bàn. Với bốn pháp nào? Này Mahānāma, ở đây, vị Thánh Thinh Văn được thành tựu niềm tịnh tín bất động nơi đức Phật rằng: ‘Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, –nt–  Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn,’ –nt– nơi Giáo Pháp –nt– nơi Tăng Chúng  –nt– được thành tựu với các giới được yêu quý bởi các bậc Thánh, không bị bể vỡ, –nt– đưa đến thiền định. Này Mahānāma, cũng giống như thân cây thì thiên về hướng đông, nghiêng về hướng đông, xuôi về hướng đông; thân cây ấy khi bị chặt đứt các rễ thì có thể ngã theo hướng nào?” “Bạch Ngài, theo hướng nó thiên về, theo hướng nó nghiêng về, theo hướng nó xuôi về.” “Này Mahāhāma, tương tự y như vậy, được thành tựu với bốn pháp này, vị Thánh Thinh Văn là thiên về Niết Bàn, nghiêng về Niết Bàn, xuôi về Niết Bàn. Này Mahānāma, ngươi chớ sợ hãi. Này Mahānāma, ngươi chớ sợ hãi. Cái chết của ngươi sẽ không tệ, sự qua đời của ngươi sẽ  không tồi.” 
Idaṃ vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến huân tập. 
‘‘Sukhakāmāni bhūtāni, yo daṇḍena na hiṃsati; 2. “Kẻ nào trong lúc tầm cầu hạnh phúc cho bản thân mà không hãm hại các chúng sanh có lòng mong mỏi hạnh phúc bằng gậy gộc, kẻ ấy đạt được hạnh phúc sau khi chết. ” 1 
Attano sukhamesāno, pecca so labhate sukha’’nti.  
Idaṃ vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến huân tập. 
‘‘Gunnañce taramānānaṃ, ujuṃ gacchati puṅgavo; 3. “Trong khi đàn bò vượt qua (sông), nếu con bò đực đi ngay thẳng, tất cả các con bò cái sẽ đi ngay thẳng khi con bò dẫn đường đi ngay thẳng. 
Sabbā tā ujuṃ gacchanti, nette ujuṃ gate sati.  
‘‘Evameva manussesu, yo hoti seṭṭhasammato;  4. Tương tự y như thế ở loài người, nếu người được phong làm thủ  lãnh thực hành đúng pháp, không cần phải đề cập đến những người khác, toàn bộ đất nước sẽ được hạnh phúc nếu đức vua là người công chính.” 2 
So sace [so ceva (sī.) passa (sī.) passa a. ni. 4.70] dhammaṃ carati, pageva itarā pajā; Sabbaṃ raṭṭhaṃ sukhaṃ seti, rājā ce hoti dhammiko’’ti.  
Idaṃ vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến huân tập. 
94. Bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena sambahulā bhikkhū bhagavato cīvarakammaṃ karonti ‘‘niṭṭhitacīvaro bhagavā temāsaccayena cārikaṃ pakkamissatī’’ti. Tena kho pana samayena isidattapurāṇā thapatayo sākete [sādhuke (saṃ. ni. 5.1002)] paṭivasanti kenaci deva karaṇīyena. Assosuṃ kho isidattapurāṇā thapatayo ‘‘sambahulā kira bhikkhū bhagavato cīvarakammaṃ karonti. Niṭṭhitacīvaro bhagavā temāsaccayena cārikaṃ pakkamissatī’’ti.  “Đức Thế Tôn ngự ở thành Sāvatthi, tại Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu thực hiện việc làm y cho đức Thế Tôn (nghĩ rằng): ‘Với y được hoàn tất, sau ba tháng, đức Thế Tôn sẽ  ra đi du hành.’ Vào lúc bấy giờ, hai người thợ mộc Isidatta và Purāṇa cư ngụ  ở làng Sāketa vì công việc cần làm nào đó. Hai người thợ mộc Isidatta và Purāṇa đã nghe rằng: ‘Nghe nói nhiều vị tỳ khưu thực hiện việc làm y cho đức Thế Tôn (nghĩ rằng): Với y được hoàn tất, sau ba tháng, đức Thế Tôn sẽ ra đi du hành.’ 
Atha kho isidattapurāṇā thapatayo magge purisaṃ ṭhapesuṃ ‘‘yadā tvaṃ ambho purisa passeyyāsi bhagavantaṃ āgacchantaṃ arahantaṃ sammāsambuddhaṃ, atha amhākaṃ āroceyyāsī’’ti. Dvīhatīhaṃ ṭhito kho so puriso addasa bhagavantaṃ dūratova āgacchantaṃ, disvāna yena isidattapurāṇā thapatayo tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā isidattapurāṇe thapatayo etadavoca ‘‘ayaṃ so bhante [ayaṃ bhante (sī. ka.) passa saṃ. ni. 5.1002] bhagavā āgacchati arahaṃ sammāsambuddho, yassadāni kālaṃ maññathā’’ti. Khi ấy, hai người thợ mộc Isidatta và Purāṇa đã cho người đứng ở đường lộ (nói rằng): ‘Này ông bạn, khi nào ông thấy đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đang đi đến, thì ông hãy thông báo cho chúng tôi.’ Đứng được hai ba ngày, người ấy đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đằng xa đang đi lại; sau khi nhìn thấy đã đi đến gặp hai người thợ mộc Isidatta và Purāṇa; sau khi đến đã nói với hai người thợ mộc Isidatta và Purāṇa điều này: ‘Thưa hai vị, đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ấy đang đi đến. Hai vị hãy suy nghĩ bây giờ là thời điểm của việc gì.’ 
Atha kho isidattapurāṇā thapatayo yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā bhagavantaṃ piṭṭhito piṭṭhito anubandhiṃsu. Atha kho bhagavā maggā okkamma yena aññataraṃ rukkhamūlaṃ tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi. Isidattapurāṇā thapatayo bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu, ekamantaṃ nisinnā kho isidattapurāṇā thapatayo bhagavantaṃ etadavocuṃ –  Khi ấy, hai người thợ mộc Isidatta và Purāṇa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn, rồi đã từng người một đi theo sau đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã rời con đường lộ rồi đi đến gần gốc cây nọ, sau khi đến đã ngồi xuống ở chỗ ngồi đã được sắp đặt sẵn. Hai người thợ  mộc Isidatta và Purāṇa cũng đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, hai người thợ mộc Isidatta và Purāṇa đã nói với đức Thế Tôn điều này: 
‘‘Yadā mayaṃ bhante bhagavantaṃ suṇoma ‘sāvatthiyā kosalesu cārikaṃ pakkamissatī’ti, hoti no tasmiṃ samaye anattamanatā hoti domanassaṃ ‘dūre no bhagavā bhavissatī’ti. Yadā pana mayaṃ bhante bhagavantaṃ suṇoma ‘sāvatthiyā kosalesu cārikaṃ pakkanto’ti, hoti no tasmiṃ samaye anattamanatā hoti domanassaṃ ‘dūre no bhagavā’ti …pe… .  ‘Bạch Ngài, khi chúng con nghe đức Thế Tôn ‘từ thành Sāvatthi sẽ ra đi du hành trong xứ Kosala,’ vào lúc ấy, chúng con có ý không hoan hỷ, có nỗi ưu phiền (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn sẽ xa chúng ta.’ Bạch Ngài, hơn nữa, khi chúng con nghe đức Thế Tôn ‘từ thành Sāvatthi đang ra đi du hành trong xứ  Kosala,’ vào lúc ấy, chúng con có ý không hoan hỷ, có nỗi ưu phiền (nghĩ  rằng): ‘Đức Thế Tôn xa chúng ta.’ 
‘‘Yadā pana mayaṃ bhante bhagavantaṃ suṇoma ‘kāsīsu magadhesu [kāsīhi māgadhe (saṃ. ni. 5.1002)] cārikaṃ pakkamissatī’ti, hoti no tasmiṃ samaye anattamanatā hoti domanassaṃ ‘dūre no bhagavā bhavissatī’ti. Yadā pana mayaṃ bhante bhagavantaṃ suṇoma ‘kāsīsu magadhesu cārikaṃ pakkanto’ti, anappakā no tasmiṃ samaye anattamanatā hoti anappakaṃ domanassaṃ ‘dūre no bhagavā’ti. ‘Bạch Ngài, khi chúng con nghe đức Thế Tôn ‘sẽ ra đi du hành ở xứ Kāsi, rồi ở xứ Magadha,’ vào lúc ấy, chúng con có ý không hoan hỷ, có nỗi ưu phiền (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn sẽ xa chúng ta.’ Bạch Ngài, hơn nữa, khi chúng con nghe đức Thế Tôn ‘đang ra đi du hành ở xứ Kāsi, rồi ở xứ Magadha,’ vào lúc ấy, chúng con có ý không hoan hỷ không phải là ít, có nỗi ưu phiền không phải là ít (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn xa chúng ta.’ 
‘‘Yadā pana mayaṃ bhante bhagavantaṃ suṇoma ‘magadhesu kāsīsu cārikaṃ pakkamissatī’ti, hoti no tasmiṃ samaye attamanatā hoti somanassaṃ ‘āsanne no bhagavā bhavissatī’ti. Yadā pana mayaṃ bhante bhagavantaṃ suṇoma ‘magadhesu kāsīsu cārikaṃ pakkanto’ti, hoti no tasmiṃ samaye attamanatā hoti somanassaṃ ‘āsanne no bhagavā’ti …pe… .  Bạch Ngài, khi chúng con nghe đức Thế Tôn ‘sẽ ra đi du hành ở xứ  Magadha, rồi ở xứ Kāsi,’ vào lúc ấy, chúng con có ý hoan hỷ, có tâm vui vẻ  (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn sẽ gần chúng ta.’ Bạch Ngài, hơn nữa, khi chúng con nghe đức Thế Tôn ‘đang ra đi du hành ở xứ Magadha, rồi ở xứ Kāsi,’ vào lúc ấy, chúng con có ý hoan hỷ, có tâm vui vẻ (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn gần chúng ta.’  
‘‘Yadā pana mayaṃ bhante bhagavantaṃ suṇoma ‘kosalesu sāvatthiṃ [sāvatthiyaṃ (sī. ka.)] cārikaṃ pakkamissatī’ti. Hoti no tasmiṃ samaye attamanatā hoti somanassaṃ ‘āsanne no bhagavā bhavissatī’ti. Bạch Ngài, khi chúng con nghe đức Thế Tôn ‘sẽ ra đi du hành ở xứ  Kosala, rồi ở thành Sāvatthi,’ vào lúc ấy, chúng con có ý hoan hỷ, có tâm vui vẻ (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn sẽ gần chúng ta.’ 
‘‘Yadā pana mayaṃ bhante bhagavantaṃ suṇoma ‘sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme’ti hoti anappakā no tasmiṃ samaye attamanatā, hoti anappakaṃ somanassaṃ ‘āsanne no bhagavā’’’ti. Bạch Ngài, hơn nữa, khi chúng con nghe đức Thế Tôn ‘ngự ở thành Sāvatthi, tại Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika,’ vào lúc ấy, chúng con có ý hoan hỷ không phải là ít, có tâm vui vẻ không phải là ít (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn gần chúng ta.’” 
‘‘Tasmātiha, thapatayo, sambādho gharāvāso rajāpatho, abbhokāso pabbajjā, alañca pana vo, thapatayo, appamādāyā’’ti. ‘‘Atthi kho no, bhante, etamhā sambādhā añño sambādho sambādhataro ceva sambādhasaṅkhātataro cā’’ti? ‘‘Katamo pana vo, thapatayo, etamhā sambādhā añño sambādho sambādhataro ceva sambādhasaṅkhātataro cā’’ti? “Vì thế, ở đây, này hai người thợ mộc, cuộc sống tại gia là khó chịu, là con đường lấm bụi, đời sống xuất gia là khoảng không (bao la). Và hơn nữa, này hai người thợ mộc, vừa đủ cho việc (thực hành) không xao lãng đối với hai ngươi.” “Bạch Ngài, đối với chúng con, có sự khó chịu khác từ sự khó chịu này, còn hơn cả sự khó chịu và hơn cả cái được gọi là khó chịu.” “Này hai người thợ mộc, cái nào đối với các ngươi là có sự khó chịu khác từ sự khó chịu này, còn hơn cả sự khó chịu và hơn cả cái được gọi là khó chịu?” 
‘‘Idha mayaṃ, bhante, yadā rājā pasenadi kosalo uyyānabhūmiṃ niyyātukāmo [gantukāmo (sī. ka.) passa saṃ. ni. 5.1002] hoti, ye te rañño pasenadissa kosalassa nāgā opavayhā, te kappetvā yā tā rañño pasenadissa kosalassa pajāpatiyo piyā manāpā, tā [tāsaṃ (sī. ka.)] ekaṃ purato ekaṃ pacchato nisīdāpema, tāsaṃ kho pana, bhante, bhaginīnaṃ evarūpo gandho hoti. Seyyathāpi nāma gandhakaraṇḍakassa tāvadeva vivariyamānassa, yathā taṃ rājakaññānaṃ [rājārahena (sī. ka.)] gandhena vibhūsitānaṃ. Tāsaṃ kho pana, bhante, bhaginīnaṃ evarūpo kāyasamphasso hoti, seyyathāpi nāma tūlapicuno vā kappāhapicuno vā, yathā taṃ rājakaññānaṃ sukhedhitānaṃ.   “Bạch Ngài, ở đây khi đức vua Pasenadi xứ Kosala có ý muốn đi đến khu vườn giải trí, chúng con sắp đặt cho các con voi của đức vua Pasenadi xứ  Kosala sẵn sàng để cưỡi và giúp cho các vương phi đáng yêu đáng mến của đức vua Pasenadi xứ Kosala ngồi xuống, một ở (con voi) phía trước, một ở  (con voi) phía sau. Bạch Ngài, hơn nữa, mùi hương có hình thức như thế của các cô gái ấy đã được tô điểm với mùi hương của hàng vương giả cũng giống như của hòm hương liệu vừa mới được mở ra. Bạch Ngài, hơn nữa, sự xúc chạm về thân có hình thức như thế của các cô gái ấy, của các công nương khéo được nuôi dưỡng, cũng giống như của bông vải hoặc của bông gòn. 
Tasmiṃ kho pana, bhante, samaye nāgopi rakkhitabbo hoti. Tāpi bhaginiyo rakkhitabbā hoti. Attāpi rakkhitabbā hoti. Na kho pana mayaṃ, bhante, abhijānāma tāsu bhagīnisu pāpakaṃ cittaṃ ñappādentā, ayaṃ kho no, bhante, etamhā sambādhā añño sambādho sambādhataro ceva sambādhasaṅghātataro cāti. Bạch Ngài, hơn nữa, vào lúc ấy, con voi cần được bảo vệ, các cô gái ấy cần được bảo vệ, và bản thân cũng cần được bảo vệ. Tuy nhiên, bạch Ngài, chúng con thật sự không biết rõ trong khi sanh khởi tâm xấu xa đối với các cô gái ấy. Bạch Ngài, đối với chúng con, đây là sự khó chịu khác từ sự khó chịu này, còn hơn cả sự khó chịu và hơn cả cái được gọi là khó chịu.” 
‘‘Tasmātiha, thapatayo, sambādho gharāvāso rajāpatho, abbhokāso pabbajjā. Alañca pana vo, thapatayo, appamādāya. Catūhi kho thapatayo, dhammehi samannāgato ariyasāvako sotāpanno hoti avinipātadhammo niyato sambodhiparāyaṇo.  “Vì thế, ở đây, này hai người thợ mộc, cuộc sống tại gia là khó chịu, là con đường lấm bụi, đời sống xuất gia là khoảng không (bao la). Và hơn nữa, này hai người thợ mộc, vừa đủ cho việc (thực hành) không xao lãng đối với hai ngươi. Này hai người thợ mộc, được thành tựu với bốn pháp này, vị Thánh Thinh Văn là vị Nhập Lưu, có pháp không bị thối đọa, đã được chắc chắn, có sự giác ngộ là đích đến. 
‘‘Katamehi catūhi? Idha, thapatayo, sutavā ariyasāvako buddhe aveccappasādena samannāgato hoti itipi so bhagavā arahaṃ …pe… buddho bhagavāti, dhamme …pe… saṅghe …pe… vigatamalamaccherena cetasā agāraṃ ajjhāvasati, muttacāgo payatapāṇi vossaggarato yācayogo dānasaṃvibhāgarato appaṭivibhattaṃ. Imehi kho, thapatayo, catūhi dhammehi samannāgato ariyasāvako sotāpanno hoti avinipātadhammo niyato sambodhiparāyaṇo. Với bốn pháp nào? Này hai người thợ mộc, ở đây, vị  Thánh Thinh Văn, là vị nghe nhiều, được thành tựu niềm tịnh tín bất động nơi đức Phật rằng: ‘Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, –nt– Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn,’ –nt– nơi Giáo Pháp –nt– nơi Tăng Chúng –nt– sống tại gia với tâm đã được xa lìa bợn nhơ và bỏn xẻn, có sự xả thí được mở ra, có bàn tay được rửa sạch, ưa thích việc xả bỏ, đáp ứng sự cầu xin, ưa thích việc bố thí và san sẻ không bị hạn chế đối với các vị có giới, có pháp tốt đẹp. Này hai người thợ mộc, được thành tựu với bốn pháp này, vị Thánh Thinh Văn là vị  Nhập Lưu, có pháp không bị thối đọa, đã được chắc chắn, có sự giác ngộ là đích đến. 
‘‘Tumhe kho, thapatayo, buddhe aveccappasādena samannāgatā itipi so bhagavā arahaṃ …pe… buddho bhagavāti, dhamme …pe… saṅghe …pe… yaṃ kho pana kiñci kule deyyadhammaṃ, sabbaṃ taṃ appaṭivibhattaṃ sīlavantehi kalyāṇadhammehi, taṃ kiṃ maññatha, thapatayo, katividhā te kosalesu manussā ye tumhākaṃ samasamā yadidaṃ dānasaṃvibhāgehī’’ti? ‘‘Lābhā no, bhante, suladdhaṃ no, bhante, yesaṃ no bhagavā evaṃ pajānātī’’ti. Này hai người thợ mộc, hai ngươi quả thật đã được thành tựu niềm tịnh tín bất động nơi đức Phật rằng: ‘Đức Thế Tôn ấy là –nt– Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn,’ –nt– nơi Giáo Pháp –nt– nơi Tăng Chúng –nt– Hơn nữa, bất cứ vật thí nào có ở nhà, toàn bộ vật ấy đều không bị hạn chế đối với các vị  có giới, có pháp tốt đẹp. Này hai người thợ mộc, hai ngươi nghĩ gì về điều ấy, có bao nhiêu người ở xứ Kosala sánh bằng hai ngươi trong việc bố thí và san sẻ?” “Bạch Ngài, thật lợi ích cho chúng con! Bạch Ngài, Thật đã khéo đạt được cho chúng con về việc đức Thế Tôn biết chúng con đây như vậy!” 
Idaṃ vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến huân tập. 
95. ‘‘Ekapupphaṃ cajitvāna [yajitvāna (ka.) passa theragā. 96], sahassaṃ kappakoṭiyo; Deve ceva manusse ca, sesena parinibbuto’’ti. 5. “Sau khi để lại một bông hoa, (tôi đã trải qua) một ngàn koṭi1 kiếp (sống) ở chư Thiên và ở nhân loại, và tôi đã chứng hữu dư Niết Bàn.” 
Idaṃ vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến huân tập. 
‘‘Assatthe haritobhāse, saṃvirūḷhamhi pādape; 6. “Ở cội cây Assattha, đã được lớn mạnh, có quầng ánh sáng màu lục, tôi đã đạt được một suy tưởng hướng đến đức Phật, có niệm. 
Ekaṃ buddhagataṃ [buddhakataṃ (ka.) passa theragā. 217] saññaṃ, alabhiṃtthaṃ [alabhiṃhaṃ (sī. ka.)] patissato.  
‘‘Ajja tiṃsaṃ tato kappā, nābhijānāmi duggatiṃ; 7. Từ đó đến nay là ba mươi kiếp, tôi không biết đến khổ cảnh; ba Minh đã được chứng ngộ do nhờ tác động của sự suy tưởng ấy.” 
Tisso vijjā sacchikatā, tassā saññāya vāsanā’’ti.  
Idaṃ vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến huân tập. 
‘‘Piṇḍāya kosalaṃ puraṃ, pāvisi aggapuggalo; 8. “Vị có lòng thương tưởng, đấng diệt trừ tham ái, bậc hiền trí, con người cao cả, trước bữa ăn, đã đi vào thành Kosala để khất thực. 
Anukampako purebhattaṃ, taṇhānighātako muni.  
‘‘Purisassa vaṭaṃsako hatthe, sabbapupphehilaṅkato; So addasāsi sambuddhaṃ, bhikkhusaṅghapurakkhataṃ. 9. Người nam ấy, ở bàn tay có vòng hoa đội đầu được trang hoàng với mọi loài hoa, đã nhìn thấy đấng Toàn Giác dẫn đầu hội chúng tỳ khưu. 
‘‘Pavisantaṃ rājamaggena, devamānusapūjitaṃ; 10. Vị được chư Thiên và nhân loại tôn vinh đang đi vào bằng con đường chính. Người ấy, mừng rỡ, đã khởi tâm tịnh tín và đã đi đến gần đấng Toàn Giác. 
Haṭṭho cittaṃ pasādetvā, sambuddhamupasaṅkami.  
‘‘So taṃ vaṭaṃsakaṃ surabhiṃ, vaṇṇavantaṃ manoramaṃ; Sambuddhassupanāmesi, pasanno sehi pāṇibhi. 11. Người ấy, được tịnh tín, bằng hai bàn tay của mình, đã dâng lên đấng Toàn Giác vòng hoa đội đầu thơm ngát, đầy màu sắc, làm thích ý ấy. 
‘‘Tato aggisikhā vaṇṇā, buddhassa lapanantarā; 12. Kế đó, có luồng ánh sáng với màu sắc của ngọn lửa, với ngàn hào quang, tựa như tia chớp, đã đi ra từ miệng, từ giữa đôi môi của đức Phật. 
Sahassaraṃsi vijjuriva, okkā nikkhami ānanā.  
‘‘Padakkhiṇaṃ karitvāna, sīse ādiccabandhuno; 13. Sau khi thực hiện việc hướng bên phải nhiễu quanh ở đầu của đấng thân quyến mặt trời, sau khi đi quanh ba vòng, nó đã biến mất ở đỉnh đầu. 
Tikkhattuṃ parivaṭṭetvā, muddhanantaradhāyatha.  
‘‘Idaṃ disvā acchariyaṃ, abbhutaṃ lomahaṃsanaṃ; Ekaṃsaṃ cīvaraṃ katvā, ānando etadabravi. 14. Sau khi nhìn thấy điều kỳ diệu, phi thường, có sự dựng đứng lông này, vị Ānanda, sau khi đắp y một bên vai, đã nói điều này: 15. ‘ Bạch đấng Đại Hiền Trí, điều gì là nguyên nhân của nụ cười? Xin Ngài giải đáp. Bạch vị Hiền Trí, sẽ có sự soi sáng Giáo Pháp, xin Ngài xua đi nỗi nghi ngờ của chúng con.’ 
‘‘‘Ko hetu sitakammassa, byākarohi mahāmune;  
Dhammāloko bhavissati, kaṅkhaṃ vitara no mune.  
‘‘‘Yassa taṃ sabbadhammesu, sadā ñāṇaṃ pavattati; Kaṅkhiṃ vematikaṃ theraṃ, ānandaṃ etadabravi. 16. Trí ấy (của đức Thế Tôn) luôn luôn vận hành ở tất cả các pháp. Ngài đã nói điều này với trưởng lão Ānanda, vị có sự phân vân vì nghi ngờ (rằng): 
‘‘‘Yo so ānanda puriso, mayi cittaṃ pasādayi; 17. ‘ Này Ānanda, người nào khởi tâm tịnh tín nơi Ta, người ấy sẽ không đi đến khổ cảnh trong tám mươi bốn kiếp. 
Caturāsītikappāni, duggatiṃ na gamissati.  
‘‘‘Devesu devasobhaggaṃ, dibbaṃ rajjaṃ pasāsiya; 18. Sau khi trị vì quốc độ ở cõi Trời, chốn đẹp đẽ của Thiên đình, ở giữa chư Thiên, người ấy sẽ trở thành vị vua ở xứ sở, vị chúa tể của nhân loại ở giữa loài người. 
Manujesu manujindo, rājā raṭṭhe bhavissati.  
‘‘‘So carimaṃ pabbajitvā, sacchikatvāna [sacchikatvā ca (ka.)] dhammataṃ; Paccekabuddho dhutarāgo, vaṭaṃsako nāma bhavissati.  19. Người ấy, vào kiếp sống cuối cùng, sẽ xuất gia, sẽ chứng ngộ bản thể  của pháp, sẽ trở thành vị Phật Độc Giác, có ái luyến đã được giũ bỏ, tên là Vaṭaṃsaka. 
‘‘‘Natthi citte [passa vi. va. 804] pasannamhi, appakā nāma dakkhiṇā; Tathāgate vā sambuddhe, atha vā tassa sāvake. 20. Không có sự cúng dường nào gọi là nhỏ nhoi khi tâm đã được tịnh tín ở đức Như Lai, đấng Chánh Đẳng Giác, hoặc ở vị đệ tử của Ngài. 
‘‘‘Evaṃ acintiyā [passa apa. thera 1.1.82] buddhā, buddhadhammā acintiyā; Acintiye pasannānaṃ, vipāko hoti acintiyo’’’ti. 21. Như vậy, chư Phật là không thể nghĩ bàn, các pháp của chư Phật là không thể nghĩ bàn, quả thành tựu cho những người đã được tịnh tín vào những vị không thể nghĩ bàn là không thể nghĩ bàn.” 
Idaṃ vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến huân tập. 
96. ‘‘Idhāhaṃ, bhikkhave, ekaccaṃ puggalaṃ pasannacittaṃ evaṃ cetasā ceto paricca pajānāmi ‘‘(yathā kho ayaṃ puggalo iriyati, yañca paṭipadaṃ paṭipanno, yañca maggaṃ samārūḷho) [( ) natthi a. ni. 1.43-44; itivu. 21]. Imamhi cāyaṃ samaye kālaṃ kareyya, yathābhataṃ nikkhitto evaṃ sagge. Taṃ kissa hetu? Cittaṃ hissa, bhikkhave, pasannaṃ, cetopasādahetu [cittappasādahetu (sī. ka.)] kho pana evamidhekacce sattā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjantī’’ti. Etamatthaṃ bhagavā avoca, tatthetaṃ iti vuccati –  “Ở đây, này các tỳ khưu, sau khi biết rõ tâm bằng tâm như vậy, Ta nhận biết về một người nào đó có tâm tịnh tín (theo như cách người này sinh hoạt, lối thực hành nào đã thực hành, đạo lộ nào đã đi theo,) và vào lúc này, người này có thể qua đời, (được sanh vào) cõi Trời, giống như vật đã được mang lại và bị ném đi. Điều ấy có nguyên nhân là gì? Này các tỳ khưu, bởi vì tâm của người này tịnh tín. Hơn nữa, do nhân tịnh tín ở tâm, như vậy ở đây một số  chúng sanh, khi tan rã thân xác và chết đi, có thể được sanh vào nhàn cảnh, cõi Trời, thế gian (này).” Đức Thế Tôn đã nói ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói rằng: 
‘‘Pasannacittaṃ ñatvāna, ekaccaṃ idha puggalaṃ; 22. ‘ Sau khi biết được người nào đó ở đây có tâm tịnh tín, đức Phật đã giải thích ý nghĩa này trong sự hiện diện của các vị tỳ khưu. 
Etamatthañca byākāsi, buddho [satthā (sī. ka.) passa itivu. 21] bhikkhūna santike.  
‘‘Imamhi cāyaṃ samaye, kālaṃ kayirātha puggalo; 23. Và vào lúc này người này có thể qua đời, có thể sanh vào nhàn cảnh bởi vì tâm của người này được tịnh tín. Bởi vì do nhân tịnh tín ở tâm, các chúng sinh đi đến nhàn cảnh. 
Saggamhi upapajjeyya, cittaṃ hissa pasāditaṃ.  
‘‘Cetopasādahetu hi, sattā gacchanti suggatiṃ;  24. Giống như có thể ném xuống vật đã được mang lại, tương tự y như  vậy, theo cách thức như thế, khi tan rã thân xác, người có trí tuệ ấy tái sanh vào cõi Trời.’ 
Yathābhataṃ nikkhipeyya, evamevaṃ tathāvidho;  
Kāyassa bhedā sappañño, saggaṃ so upapajjatī’’ti.  
‘‘Ayampi attho vutto bhagavatā iti me suta’’nti. Ý nghĩa này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến. Tôi đã nghe như thế.” 1 
Idaṃ vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến huân tập. 
‘‘Suvaṇṇacchadanaṃ nāvaṃ, nāri āruyha tiṭṭhasi; 25. “Hỡi nàng tiên, nàng đã bước lên chiếc thuyền có mái bằng vàng và đứng (ở đó). Nàng lội xuống hồ nước hái hoa sen bằng bàn tay. 
Ogāhasi [ogāhase (sī. ka.) passa vi. va. 53] pokkharaṇiṃ, padmaṃ chindasi pāṇinā.  
‘‘Kena te tādiso vaṇṇo, ānubhāvo juti ca te;  26. Do điều gì màu da của nàng là như thế ấy, năng lực và sự rực rỡ  của nàng, và bất cứ những sự hưởng thụ nào được mong muốn bởi ý đều sanh lên cho nàng? 
Uppajjanti ca te bhogā, ye keci manasicchitā.  
‘‘Pucchitā devate saṃsa, kissa kammassidaṃ phalaṃ; Sā devatā attamanā, devarājena pucchitā. Hỡi nàng tiên, đã được hỏi, xin nàng hãy tuyên bố quả  báo này là của nghiệp gì? ” 27. Nàng tiên nữ ấy hoan hỷ khi được hỏi bởi vị Thiên Vương. 
‘‘Pañhaṃ puṭṭhā viyākāsi, sakkassa iti me sutaṃ; Addhānaṃ paṭipannāhaṃ, disvā thūpaṃ manoramaṃ. Ðược hỏi câu hỏi, nàng đã giải thích cho Thiên Vương Sakka. Tôi đã nghe như thế. 
‘‘Tattha cittaṃ pasādesiṃ, kassapassa yasassino; Paddhapupphehi pūjesiṃ, pasannā sehi tasseva; Kammassa phalaṃ vipāko, etādisaṃ katapuññā labhantī’’ti. 28. “Thiếp đã đi qua đoạn đường dài. Sau khi nhìn thấy ngôi bảo tháp thích ý của Ngài Kassapa có danh tiếng. Tại đó, thiếp đã khởi tâm tịnh tín. 
  29. Được tịnh tín, thiếp đã cúng dường với những đóa hoa sen bằng hai bàn tay của mình. Sự thành tựu là quả báo của chính nghiệp ấy. Những người đã làm phước thiện đạt được (quả báo) như thế ấy.” 
Idaṃ vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến huân tập. 
‘‘Dānakathā sīlakathā saggakathā puññakathā puññavipākakathā’’ti;  Bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới, bài thuyết về cõi trời, bài thuyết về phước thiện, bài thuyết về quả thành tựu của phước thiện. 
Idaṃ vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến huân tập. 
‘‘Apicāpi paṃsuthūpesu uddissakatesu dasabaladharānaṃ tatthapi kāraṃ katvā saggesu narā pamodantī’’ti. 30. “Còn nữa, ở các ngôi bảo tháp bằng đất được làm dành cho các đấng duy trì Mười Lực, những người sau khi làm công việc xây dựng ở tại nơi ấy (sẽ) vui sướng ở các cõi Trời.” 
Idaṃ vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến huân tập. 
97. ‘‘Devaputtasarīravaṇṇā, sabbe subhagasaṇṭhitī; Udakena paṃsuṃ temetvā, thūpaṃ vaḍḍhetha kassapaṃ. 31. “Là những người có vóc dáng cơ thể của Thiên Tử, tất cả đều có địa vị cao sang, các vị tẩm ướt đất với nước và dựng lên ngôi bảo tháp cho người nào vậy? ” 1 
‘‘Ayaṃ sugatte sugatassa thūpo, mahesino dasabaladhammadhārino; 32. “Thưa vị (Thiên nhân) có cơ thể xinh xắn, đây là bảo tháp của đức Thiện Thệ, bậc Đại Ẩn Sĩ, đấng duy trì Mười Lực và Giáo Pháp. Được tịnh tín vào ngôi bảo tháp, chư Thiên và nhân loại này, những người đang làm công việc xây dựng, (sẽ) được giải thoát khỏi già và chết.” 
Tasmiṃ [yasmiṃ (sī.)] ime devamanujā pasannā, kāraṃ karontā jarāmaraṇā pamuccare’’ti.  
Idaṃ vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến huân tập. 
‘‘Uḷāraṃ vata taṃ āsi, yāhaṃ thūpaṃ mahesino; 33. “Quả thật việc ấy đã là cao quý! Là việc tôi đã dâng lên ngôi bảo tháp của bậc Đại Ẩn Sĩ bốn đóa sen xanh và tràng hoa. 
Uppalāni ca cattāri, mālañca abhiropayiṃ.  
‘‘Ajja tiṃsaṃ tato kappā, nābhijānāmi duggatiṃ; 34. Từ đó đến nay là ba mươi kiếp, tôi không biết đến khổ cảnh, tôi không đi đến nơi trừng phạt, sau khi cúng dường ngôi bảo tháp của đấng Đạo Sư.” 
Vinipātaṃ na gacchāmi, thūpaṃ pūjetva [pūjetvā (ka.)] satthuno’’ti.  
Idaṃ vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến huân tập. 
‘‘Bāttiṃsalakkhaṇadharassa, vijitavijayassa lokanāthassa; Satasahassaṃ kappe, mudito thūpaṃ apūjesi. 35. “Tôi đã cúng dường ngôi bảo tháp của vị mang ba mươi hai tướng trạng, của vị đã chiến thắng trận đấu, của đấng Bảo Hộ Thế Gian, tôi đã được vui sướng một trăm ngàn kiếp (tuổi thọ). 
‘‘Yaṃ mayā pasutaṃ puññaṃ, tena ca puññena deva sobhaggaṃ; Rajjāni ca kāritāni, anāgantuna vinipātaṃ.  36. Việc phước thiện nào đã được tạo ra bởi tôi và do việc phước thiện ấy, (tôi đã đạt được) sự thành tựu cõi Trời, và các quốc độ đã được (tôi) xây dựng;  tôi đã không đi đến nơi trừng phạt. 
‘‘Yaṃ cakkhu adantadamakassa, sāsane paṇihitaṃ tathā;  37. (Tôi có Pháp) nhãn đã được thiết lập ở Giáo Pháp của đấng Thuần Phục kẻ chưa được thuần phục, tâm tôi cũng như vậy, tôi đã đạt được toàn bộ điều ấy, tôi có tâm đã được giải thoát, có dây leo (tham ái) đã được giũ  bỏ.” 
Cittaṃ taṃ me sabbaṃ, laddhaṃ vimuttacittamhi vidhūtalato’’ti.  
Idaṃ vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến huân tập. 
98. ‘‘Sāmākapatthodanamattameva hi, paccekabuddhamhi adāsi dakkhiṇaṃ; Vimuttacitte akhile anāsave, araṇavihārimhi asaṅgamānase. 38. “Bởi vì tôi đã bố thí vật cúng dường chỉ một lượng cơm của một phần tư cân hạt sāmāka đến đức Phật Độc Giác, vị có tâm đã được giải thoát, không có sự cứng cỏi (ở tâm), không còn lậu hoặc, có sự an trú không uế nhiễm, có ý không còn quyến luyến. 
‘‘Tasmiñca okappayi dhammamuttamaṃ, tasmiñca dhamme paṇidhesiṃ mānasaṃ; Evaṃ vihārīhi me saṅgamo siyā, bhave kudāsupi ca mā apekkhavā.  39. Tôi đã tin tưởng pháp tối thượng ở vị ấy.  Và tôi đã chuyên chú tâm vào pháp ấy (rằng):  ‘Sẽ có sự gặp gỡ của tôi với các sự an trú như vậy.  Và chớ có mong mỏi vào sự hiện hữu ở bất cứ đâu.’ 
‘‘Tasseva kammassa vipākato ahaṃ, sahassakkhattuṃ kurusūpapajjatha [kurūsūpapajjatha (sī.)]; 40. Do quả thành tựu của chính nghiệp ấy, một ngàn lần tôi đã được sanh ra giữa những người dân xứ Kuru, là các chúng sanh có tuổi thọ dài, không chấp là của ta, có sự đạt đến pháp thù thắng, không có sự đi đến (bản thể) hạ liệt. 
Dīghāyukesu amamesu pāṇisu, visesagāmīsu ahīnagāmisu.  
‘‘Tasseva kammassa vipākato ahaṃ, sahassakkhattuṃ tidasopapajjatha; Vicitramālābharaṇānulepisu, visiṭṭhakāyūpagato yasassisu.  41. Do quả thành tựu của chính nghiệp ấy, một ngàn lần tôi đã được sanh ra ở cõi Tam Thập. Tôi đã đi đến giữa các vị có danh tiếng, có thân thể  đặc biệt với các tràng hoa nhiều màu sắc, các vật trang điểm, và các chất bôi thoa. 
‘‘Tasseva kammassa vipākato ahaṃ, vimuttacitto akhilo anāsavo; Imehi me antimadehadhāribhi, samāgamo āsihi tāhi tāsihi.  42. Do quả thành tựu của chính nghiệp ấy, tôi có tâm đã được giải thoát, không có sự cứng cỏi (ở tâm), không còn lậu hoặc. Đã có sự gặp gỡ  của tôi với các vị này, với các vị đang mang thân thể cuối cùng, với các vị  đã vượt qua thiện và bất thiện. 
‘‘Paccakkhaṃ khvimaṃ avaca tathāgato jino, samijjhate sīlavato yadicchati; Yathā yathā me manasā vicintitaṃ, tathā samiddhaṃ ayamantimo bhavo’’ti.  43. Đức Như Lai, đấng Chiến Thắng đã nói về sự việc hiển nhiên này:  ‘Đối với người có giới, điều nào được ước muốn, (điều ấy) được thành tựu.’  Điều đã được tôi suy nghĩ bằng ý như thế nào thì được thành tựu như thế  ấy; đây là kiếp sống cuối cùng (của tôi).” 
Idaṃ vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến huân tập. 
‘‘Ekatiṃsamhi kappamhi jino anejo, anantadassī bhagavā sikhīti;  44. “Vào ba mươi mốt kiếp (trước), đấng Chiến Thắng, không dục vọng, vị có tầm nhìn không giới hạn, là đức Thế Tôn tên Sikhī.  Người em trai của vị ấy là đức vua Sikhaṇḍī,  vô cùng tịnh tín vào đức Phật và Giáo Pháp. 
Tassāpi rājā bhātā sikhiddhe [sikhaṇḍi (sī.)], buddhe ca dhamme ca abhippasanno.  
‘‘Parinibbute lokavināyakamhi, thūpaṃ sakāsi vipulaṃ mahantaṃ; Samantato gāvutikaṃ mahesino, devātidevassa naruttamassa. 45. Khi đấng Hướng Dẫn Thế Gian viên tịch Niết Bàn, vị vua ấy đã xây dựng ngôi bảo tháp vĩ đại, to lớn, xung quanh rộng một gāvuta, dành cho bậc Đại Ẩn Sĩ, vị Thiên nhân vượt trội của chư Thiên, đấng Tối Thượng Nhân. 
‘‘Tasmiṃ manusso balimābhihārī, paggayha jātisumanaṃ pahaṭṭho; Vātena pupphaṃ patitassa ekaṃ, tāhaṃ gahetvāna tasseva dāsi.  46. Tại nơi ấy, có người nam đã rước lại phẩm vật cúng tế, và đã mừng rỡ nâng lên bông hoa nhài rừng.  Một bông hoa đã rơi khỏi (bàn tay) của người ấy vì gió.  Tôi đã nhặt lấy bông hoa ấy và đã trao lại cho chính người ấy. 
‘‘So maṃ avocābhipasannacitto, tuyhameva etaṃ pupphaṃ dadāmi; Tāhaṃ gahetvā abhiropayesiṃ, punappunaṃ buddhamanussaranto.  47. Với tâm vô cùng tịnh tín, người ấy đã nói với tôi rằng:  ‘Tôi cho bông hoa này đến chính ông.’  Sau khi nhận lấy bông hoa ấy, tôi đã dâng lên, trong lúc liên tục tưởng nhớ đến đức Phật. 
‘‘Ajja tiṃsaṃ tato kappā, nābhijānāmi duggatiṃ; 48. Từ đó đến nay là ba mươi kiếp, tôi không biết đến khổ cảnh, tôi không đi đến nơi trừng phạt; đây là quả báo của việc cúng dường ngôi bảo tháp.” 
Vinipātañca na gacchāmi, thūpapūjāyidaṃ phala’’nti.  
Idaṃ vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến huân tập. 
‘‘Kapilaṃ nāma nagaraṃ, suvibhattaṃ mahāpathaṃ; Ākiṇṇamiddhaṃ phītañca, brahmadattassa rājino.  49. Thành phố tên Kapila là khéo được phân chia, có đường lộ lớn, bị  chen chúc, phồn thịnh, và giàu có, thuộc về đức vua Brahmadatta. 
‘‘Kummāsaṃ vikkiṇiṃ tattha, pañcālānaṃ puruttame; Sohaṃ addasiṃ sambuddhaṃ, upariṭṭhaṃ yasassinaṃ.  50. Tôi đã bán bánh kummāsa tại nơi ấy, ở kinh thành của xứ Pañcāla.  Tôi đây đã nhìn thấy bậc tự mình giác ngộ, có danh tiếng, đứng ở không trung. 
‘‘Haṭṭho cittaṃ pasādetvā, nimantesiṃ naruttamaṃ; 51. Tôi đã vui mừng, khởi tâm tịnh tín, và đã thỉnh mời bậc Tối Thượng Nhân Ariṭṭha với bữa ăn thường kỳ; việc ấy đã xảy ra tại căn nhà của tôi. 
Ariṭṭhaṃ dhuvabhattena, yaṃ me gehamhi vijjatha.  
‘‘Tato ca kattiko puṇṇo [kattikā puṇṇā (ka.)], puṇṇamāsī upaṭṭhitā; Navaṃ dussayugaṃ gayha, ariṭṭhassopanāmayiṃ. 52. Và sau đó, khi tháng Kattika được đầy đủ, ngày trăng tròn đã đến, sau khi cầm lấy xấp vải đôi mới, tôi đã dâng đến vị Ariṭṭha. 
‘‘Pasannacittaṃ ñatvāna, paṭiggaṇhi naruttamo; 53. Biết được tâm tịnh tín (của tôi), bậc Tối Thượng Nhân, vị có lòng thương tưởng, đấng Bi Mẫn, bậc diệt trừ tham ái, vị hiền trí, đã nhận lãnh. 
Anukampako kāruṇiko, taṇhānighātako muni.  
‘‘Tāhaṃ kammaṃ karitvāna, kalyāṇaṃ buddhavaṇṇitaṃ; Deve ceva manusse ca, sandhāvitvā tato cuto. 54. Sau khi làm hành động tốt đẹp được chư Phật khen ngợi ấy, tôi đã di chuyển đến chư Thiên và loài người, rồi từ nơi ấy đã chết đi. 
‘‘Bārāṇasiyaṃ nagare, seṭṭhissa ekaputtako; 55. Tôi đã được sanh ra ở gia đình giàu có, là con trai độc nhất của một triệu phú ở thành Bārāṇasī, và được yêu quý hơn những sinh mạng (khác). 
Aḍḍhe kulasmiṃ uppajjiṃ, pāṇehi ca piyataro.  
‘‘Tato ca viññutaṃ patto, devaputtena codito; 56. Và sau đó, tôi đã đạt đến tuổi hiểu biết. Được khích lệ bởi vị Thiên tử, tôi đã bước xuống từ tòa lâu đài, và đã đi đến gặp đấng Toàn Giác. 
Pāsādā orūhitvāna, sambuddhamupasaṅkamiṃ.  
‘‘So me dhammamadesayi, anukampāya gotamo; Dukkhaṃ dukkhasamuppādaṃ, dukkhassa ca atikkamaṃ.  57. Vị Gotama ấy, vì lòng thương tưởng, đã chỉ bảo tôi về Giáo Pháp, về  Khổ, về sự sanh lên của Khổ, về sự vượt qua đối với Khổ, – 
‘‘Ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ, dukkhūpasamagāminaṃ; Cattāri ariyasaccāni, muni dhammamadesayi. 58. – và về Đạo lộ thánh thiện tám chi phần đưa đến sự yên lặng của Khổ. Bậc Hiền Trí đã chỉ bảo về Giáo Pháp, về bốn Chân Lý Cao Thượng. 
‘‘Tassāhaṃ vacanaṃ sutvā, vihariṃ sāsane rato; 59. Sau khi lắng nghe lời nói của vị ấy, tôi đã sống, vui thích trong giáo lý. Tôi đã thấu triệt thiền chỉ tịnh, đêm và ngày không biếng nhác. 
Samathaṃ paṭivijjhāhaṃ, rattindivamatandito.  
‘‘Ajjhattañca bahiddhā ca, ye me vijjiṃsu [vijjhiṃsu (sī.)] āsavā; Sabbe āsuṃ samucchinnā, na ca uppajjare puna.  60. Các lậu hoặc nào đã hiện diện ở tôi, bên trong và bên ngoài, tất cả  đã được cắt lìa và không sanh lên lại nữa. 
‘‘Pariyantakataṃ dukkhaṃ, carimoyaṃ samussayo;  61. Khổ đau đã được làm cho chấm dứt; đây là xác thân sau chót có sự  luân hồi sanh tử, giờ đây không còn hiện hữu lại nữa.” 
Jātimaraṇasaṃsāro, natthidāni punabbhavo’’ti.  
Idaṃ vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến huân tập. 
99. Tattha katamaṃ nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ? (3) Ở đấy, kinh liên quan đến thấu triệt là kinh nào? 
‘‘Uddhaṃ adho sabbadhi vippamutto, ayaṃ ahasmīti [ayamahamasmīti (sī.) passa udā. 61] anānupassī;  1. “Bên trên, bên dưới, tất cả các nơi, vị đã được giải thoát không có sự suy xét rằng: ‘Tôi là cái này.’ 
Evaṃ vimutto udatāri oghaṃ, atiṇṇapubbaṃ apunabbhavāyā’’ti. Vị được giải thoát như vậy đã vượt lên dòng chảy trước đây chưa vượt qua, do việc không còn hiện hữu lại nữa.”
Idaṃ nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến thấu triệt. 
‘‘Sīlavato, ānanda, na cetanā [cetanāya (a. ni. 11.2)] karaṇīyā ‘kinti me avippaṭisāro jāyeyyā’ti. Dhammatā esā, ānanda, yaṃ sīlavato avippaṭisāro jāyeyya. Avippaṭisārinā, ānanda, na cetanā karaṇīyā ‘kinti me pāmojjaṃ jāyeyyā’ti. Dhammatā esā, ānanda, yaṃ avippaṭisārino pāmojjaṃ jāyeyya. Pamuditena, ānanda, na cetanā karaṇīyā ‘kinti me pīti jāyeyyā’ti. Dhammatā esā, ānanda, yaṃ pamuditassa pīti jāyeyya. Pītimanassa, ānanda, na cetanā karaṇīyā ‘kinti me kāyo passambheyyā’ti.  “Này Ānanda, đối với vị có giới, sẽ không có ý định rằng: ‘Làm thế nào để sự không hối hận có thể sanh khởi đến tôi?’ Này Ānanda, pháp tự nhiên là sự không hối hận có thể sanh khởi đến vị có giới.  Này Ānanda, đối với vị có sự không hối hận, sẽ không có ý định rằng:  ‘Làm thế nào để sự hân hoan có thể sanh khởi đến tôi?’ Này Ānanda, pháp tự nhiên là sự hân hoan có thể sanh khởi đến vị có sự không hối hận.  Này Ānanda, với vị được hân hoan, sẽ không có ý định rằng: ‘Làm thế  nào để sự no vui (hỷ) có thể sanh khởi đến tôi?’ Này Ānanda, pháp tự nhiên là sự no vui (hỷ) có thể sanh khởi đến vị được hân hoan.  Này Ānanda, đối với vị có ý no vui (hỷ), sẽ không có ý định rằng: ‘Làm thế nào để thân của tôi có thể được khinh an?’
Dhammatā esā, ānanda, yaṃ pītimanassa kāyo passambheyya. Passaddhakāyassa ānanda, na cetanā karaṇīyā ‘kintāhaṃ sukhaṃ vediyeyya’nti. Dhammatā esā, ānanda, yaṃ passaddhakāyo sukhaṃ vediyeyya. Sukhino ānanda, na cetanā karaṇīyā ‘kinti me samādhi jāyeyyā’ti. Dhammatā esā, ānanda, yaṃ sukhino samādhi jāyeyya. Samāhitassa ānanda, na cetanā karaṇīyā ‘kintāhaṃ yathābhūtaṃ pajāneyya’nti.  Này Ānanda, pháp tự nhiên là thân của vị có ý no vui (hỷ) có thể được khinh an.  Này Ānanda, đối với vị có thân được khinh an, sẽ không có ý định rằng:  ‘Làm thế nào để tôi có thể cảm nhận sự an lạc?’ Này Ānanda, pháp tự nhiên là vị có thân được khinh an có thể cảm nhận sự an lạc.  Này Ānanda, đối với vị có sự an lạc, sẽ không có ý định rằng: ‘Làm thế nào để định có thể sanh khởi đến tôi?’ Này Ānanda, pháp tự nhiên là định có thể sanh khởi đến vị có sự an lạc. 
Samāhitassa ānanda, na cetanā karaṇīyā ‘kintāhaṃ yathābhūtaṃ pajāneyya’nti. Dhammatā esā, ānanda, yaṃ samāhito yathābhūtaṃ pajāneyya.  Này Ānanda, đối với vị được định tĩnh, sẽ không có ý định rằng: ‘Làm thế nào để tôi có thể nhận biết đúng theo thực thể?’ Này Ānanda, pháp tự nhiên là vị được định tĩnh có thể nhận biết đúng theo thực thể. 
Yathābhūtaṃ pajānatā, ānanda, na cetanā karaṇīyā ‘kinti me nibbidā jāyeyyā’ti. Dhammatā esā, ānanda, yaṃ yathābhūtaṃ pajānanto nibbindeyya. Này Ānanda, với vị đang nhận biết đúng theo thực thể, sẽ không có ý định rằng: ‘Làm thế nào để sự nhàm chán có thể sanh khởi đến tôi?’ Này Ānanda, pháp tự nhiên là vị đang nhận biết đúng theo thực thể thì có thể nhàm chán. 
Nibbindantena, ānanda, na cetanā karaṇīyā ‘kinti me virāgo jāyeyyā’ti. Dhammatā esā, ānanda, yaṃ nibbindanto virajjeyya. Này Ānanda, với vị đang nhàm chán, sẽ không có ý định rằng: ‘Làm thế nào để sự xa lìa luyến ái có thể sanh khởi đến tôi?’ Này Ānanda, pháp tự nhiên là vị đang nhàm chán thì có thể xa lìa luyến ái. 
Virajjantena ānanda na cetanā karaṇīyā ‘kinti me vimutti jāyeyyā’ti. Dhammatā esā, ānanda, yaṃ virajjanto vimucceyya.  Này Ānanda, với vị đang xa lìa luyến ái, sẽ không có ý định rằng: ‘Làm thế nào để sự giải thoát có thể sanh khởi đến tôi?’ Này Ānanda, pháp tự nhiên là vị đang xa lìa luyến ái có thể giải thoát. 
Vimuttena, ānanda, na cetanā karaṇīyā ‘kinti me vimuttiñāṇadassanaṃ uppajjeyyā’ti. Dhammatā esā, ānanda, yaṃ vimuttassa vimuttiñāṇadassanaṃ uppajjeyyā’’ti. Này Ānanda, với vị đã được giải thoát, sẽ không có ý định rằng: ‘Làm thế nào để sự biết và thấy về giải thoát có thể sanh khởi đến tôi?’ Này Ānanda, pháp tự nhiên là sự biết và thấy về giải thoát có thể sanh khởi đến vị đã được giải thoát.” 
Idaṃ nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến thấu triệt. 
100. ‘‘Yadā have pātubhavanti dhammā, ātāpino jhāyato brāhmaṇassa; Athassa kaṅkhā vapayanti sabbā, yato pajānāti sahetudhamma’’nti.  2. “Quả vậy, khi các pháp hiện rõ  đến vị Bà-la-môn có nhiệt tâm đang tham thiền thì mọi điều nghi ngờ của vị này được tiêu diệt, từ đó vị ấy nhận biết rằng (mọi) việc là có nguyên nhân.”
Idaṃ nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến thấu triệt. 
‘‘Yadā have pātubhavanti dhammā, ātāpino jhāyato brāhmaṇassa; Athassa kaṅkhā vapayanti sabbā, yato khayaṃ paccayānaṃ avedī’’ti.  3. “Quả vậy, khi các pháp hiện rõ  đến vị Bà-la-môn có nhiệt tâm đang tham thiền thì mọi điều nghi ngờ của vị này được tiêu diệt, từ đó đã hiểu sự hoại diệt của các duyên.”
Idaṃ nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến thấu triệt. 
‘‘Kiṃnu [passa saṃ. ni. 2.243] kujjhasi mā kujjhi, akkodho tissa te varaṃ; Kodhamānamakkhavinayatthaṃ hi, tissa brahmacariyaṃ vussatī’’ti. 4. “Ngươi giận dữ về điều gì? Chớ giận dữ. Này Tissa, không giận dữ là tốt hơn cho ngươi. Phạm hạnh được sống, này Tissa, chỉ nhằm mục đích xóa bỏ giận dữ, ngã mạn, và gièm pha.” 
Idaṃ nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến thấu triệt. 
‘‘Kadāhaṃ nandaṃ passeyyaṃ, āraññaṃ [araññaṃ (ka.) passa saṃ. ni. 2.242] paṃsukūlikaṃ; Aññātuñchena yāpentaṃ, kāmesu anapekkhina’’nti.  5. “Khi nào Ta có thể nhìn thấy Nanda (trở thành) vị ngụ ở rừng, chỉ  mặc y may bằng vải bị quăng bỏ, đang duy trì (mạng sống) bằng vật góp nhặt không được biết trước, không có sự trông mong về các dục? ” 
Idaṃ nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến thấu triệt. 
‘‘Kiṃsu chetvā sukhaṃ seti, kiṃsu chetvā na socati;  
Kissassu [kissassa (sī. ka.) passa saṃ. ni. 1.187] ekadhammassa, vadhaṃ rocesi gotamāti. 6. “Sau khi cắt đứt cái gì, ngủ an lạc? Sau khi cắt đứt cái gì, không sầu muộn? Ngài tán thành việc sát hại đối với một pháp nào, thưa ngài Gotama? ” 
‘‘Kodhaṃ chetvā sukhaṃ seti, kodhaṃ chetvā na socati; Kodhassa visamūlassa, madhuraggassa brāhmaṇa; Vadhaṃ ariyā pasaṃsanti, taṃ hi chetvā na socatī’’ti. 7. “Sau khi cắt đứt giận dữ, ngủ an lạc. Sau khi cắt đứt sự giận dữ, không sầu muộn. Này Thiên nhân, sự giận dữ có độc tố là rễ, có mật ngọt là ngọn, các bậc Thánh ca ngợi việc sát hại đối với nó, bởi vì sau khi cắt đứt nó, không sầu muộn.” 
Idaṃ nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến thấu triệt. 
‘‘Kiṃsu hane uppatitaṃ, kiṃsu jātaṃ vinodaye; 8. “Nên tiêu diệt cái gì đã được bộc phát? Nên xua đi cái gì đã được sanh ra?
Kiñcassu pajahe dhīro, kissābhisamayo sukho. Và bậc sáng trí nên dứt bỏ cái gì? Sự chứng ngộ cái gì là an lạc? ”
‘‘Kodhaṃ hane uppatitaṃ, rāgaṃ jātaṃ vinodaye; 9. “Nên tiêu diệt sự giận dữ đã được bộc phát. Nên xua đi sự luyến ái đã được sanh ra.
Avijjaṃ pajahe dhīro, saccābhisamayo sukho’’ti. Bậc sáng trí nên dứt bỏ vô minh. Sự chứng ngộ Chân Lý là an lạc.” 
Idaṃ nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến thấu triệt. 
101. ‘‘Sattiyā viya omaṭṭho, ḍayhamānova [dayhamāneva (ka.) saṃ. ni. 1.21; theragā. 39 passitabbaṃ] matthake; 10. “Tựa như người bị đâm bởi cây thương, tựa như người đang bị  cháy ở đầu, nhằm dứt bỏ sự ái luyến về dục, vị tỳ khưu, có niệm, nên du hành. 
Kāmarāgappahānāya, sato bhikkhu paribbaje.  
‘‘Sattiyā viya omaṭṭho, ḍayhamānova matthake; 11. Tựa như người bị đâm bởi cây thương, tựa như người đang bị cháy ở đầu, nhằm dứt bỏ thân kiến, vị tỳ khưu, có niệm, nên du hành.” 
Sakkāyadiṭṭhippahānāya, sato bhikkhu paribbaje’’ti.  
Idaṃ nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến thấu triệt. 
‘‘Sabbe khayantā nicayā, patanantā samussayā; Sabbesaṃ maraṇamāgamma, sabbesaṃ jīvitamaddhuvaṃ; 12. “Tất cả các (của cải) tích lũy có sự tiêu hoại là chặng cuối, (tất cả) các gom góp có sự sụp đổ là chặng cuối. Sau khi đi đến sự chết dành cho tất cả (chúng sanh), mạng sống của tất cả (chúng sanh) là không trường tồn.
Etaṃ bhayaṃ maraṇe [maraṇaṃ (ka.) passa saṃ. ni. 1.100] pekkhamāno, puññāni kayirātha sukhāvahāni. Trong khi xem xét nỗi sợ hãi này ở sự chết, nên làm các phước thiện, (bởi vì) chúng là nguồn đem lại an lạc. 
‘‘Sabbe khayantā nicayā, patanantā samussayā; Sabbesaṃ maraṇamāgamma, sabbesaṃ jīvitamaddhuvaṃ;  13. Tất cả các (của cải) tích lũy có sự tiêu hoại là chặng cuối, (tất cả) các gom góp có sự sụp đổ là chặng cuối. Sau khi đi đến sự chết dành cho tất cả  (chúng sanh), mạng sống của tất cả (chúng sanh) là không trường tồn. 
Etaṃ bhayaṃ maraṇe pekkhamāno, lokāmisaṃ pajahe santipekkho’’ti. Trong khi xem xét nỗi sợ hãi này ở sự chết, người có sự tầm cầu (Niết Bàn) an tịnh nên dứt bỏ vật chất thế gian.” 
Idaṃ nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến thấu triệt. 
‘‘Sukhaṃ sayanti munayo, na te socanti māvidha; 14. “Các bậc hiền trí ngủ an lạc. Có tâm vui thích việc tham thiền, các vị  ấy không sầu muộn, này Māvidha. Vị có tuệ, khéo định tĩnh, có sự ra sức tinh tấn, có bản tánh cương quyết, vượt qua dòng lũ khó vượt qua được. 
Yesaṃ jhānarataṃ cittaṃ, paññavā susamāhito;  
Āraddhavīriyo pahitatto, oghaṃ tarati duttaraṃ.  
‘‘Virato kāmasaññāya, sabbasaṃyojanātīto [sabbasaṃyojanātigo (sī.) passa saṃ. ni. 1.96]; Nandibhavaparikkhīṇo [nandīrāgaparikkhīṇo (ka.) saṃ. ni. 1.96], so gambhīre na sīdatī’’ti. 15. Đã xa lánh dục tưởng, đã vượt lên khỏi mọi sự ràng buộc, đã hoàn toàn cạn kiệt sự vui thích và hiện hữu, vị ấy không chìm xuống nơi sâu thẳm.”
Idaṃ nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến thấu triệt. 
‘‘Saddahāno arahataṃ, dhammaṃ nibbānapattiyā; 16. “Trong khi có niềm tin vào Giáo Pháp của các bậc A-la-hán nhằm đạt đến Niết Bàn, 
Sussūsaṃ labhate paññaṃ, appamatto vicakkhaṇo. nhờ vào sự mong muốn lắng nghe, người không xao lãng, khôn ngoan, đạt được trí tuệ. 
Patirūpakārī dhuravā, uṭṭhātā vindate dhanaṃ; 17. Người có việc làm phù hợp, có trách nhiệm, năng động, kiếm được tài sản.
Saccena kittiṃ pappoti, dadaṃ mittāni ganthati; Nhờ vào sự chân thật, người thành đạt tiếng tăm. Trong khi bố thí, người kết giao các bạn hữu.
Asmā lokā paraṃ lokaṃ, evaṃ [save (sī.) passa saṃ. ni. 1.246] pecca na socatī’’ti. Sau khi đi đến đời khác từ đời này, người ấy chắc chắn không sầu muộn.” 
Idaṃ nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến thấu triệt. 
‘‘Sabbaganthapahīnassa, vippamuttassa te sato; 18. “Trong khi Ngài là vị Sa-môn đã dứt bỏ mọi sự trói buộc, đã được giải thoát, việc Ngài chỉ dạy cho người khác là không tốt đối với ngài.” 
Samaṇassa na taṃ sādhu, yadaññamanusāsasīti.  
‘‘Yena kenaci vaṇṇena, saṃvāso sakka jāyati; 19. “Này (Dạ Xoa) Sakka, bởi bất cứ lý do nào đó mà nảy sanh ra việc cộng trú, bậc có trí tuệ không thể không có lòng thương tưởng đối với kẻ ấy
Na taṃ arahati sappañño, manasā anukampituṃ [ananukampitaṃ (sī. ka.) passa saṃ. ni.1.236].  
‘‘Manasā ce pasannena, yadaññamanusāsati; 20. Nếu với ý tịnh tín mà chỉ dạy người khác, thì không vì việc ấy mà trở thành bị ràng buộc bởi lòng thương tưởng, bởi lòng trắc ẩn.” 
Na tena hoti saṃyutto, yānukampā anuddayā’’ti.  
Idaṃ nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến thấu triệt. 
102. ‘‘Rāgo ca doso ca kutonidānā, aratī ratī [arati rati (ka.) saṃ. ni. 1.237; su. ni. 273 passitabbaṃ] lomahaṃso kutojā;  21. “Luyến ái và sân hận có căn nguyên từ đâu?  Ghét, thương, sự rởn lông (vì sợ hãi) sanh ra từ đâu?  Phát khởi từ nơi nào, các suy tầm (về dục) khuấy rối tâm, tựa như  những bé trai thả lỏng con quạ (đã bị cột chân bởi sợi chỉ dài)? ” 
Kuto samuṭṭhāya manovitakkā, kumārakā dhaṅkamivossajanti.  
‘‘Rāgo ca doso ca itonidānā, aratī ratī lomahaṃso itojā;  22. “Luyến ái và sân hận có căn nguyên từ nơi (bản ngã) này.  Ghét, thương, sự rởn lông (vì sợ hãi) sanh ra từ nơi (bản ngã) này.  Phát khởi từ nơi (bản ngã) này, các suy tầm (về dục) khuấy rối tâm, tựa như những bé trai thả lỏng con quạ (đã bị cột chân bởi sợi chỉ dài). 
Ito samuṭṭhāya manovitakkā, kumārakā dhaṅkamivossajanti.  
‘‘Snehajā attasambhūtā, nigrodhasseva khandhajā;  23. Chúng được sinh ra từ sự thương yêu, được hình thành ở bản ngã, tựa như việc sanh ra từ thân của giống cây nigrodha. Chúng nhiều vô số, bị  vướng mắc vào các dục, tựa như loài dây leo lan rộng ở khu rừng. 
Puthu visattā kāmesu, māluvāva vitatā vane.  
‘‘Ye naṃ pajānanti yatonidānaṃ, te naṃ vinodenti suṇohi yakkha; Te duttaraṃ oghamimaṃ taranti, atiṇṇapubbaṃ apunabbhavāyā’’ti. 24. Những ai nhận biết điều ấy có căn nguyên từ đâu, những vị ấy xua đuổi nó, này Dạ-xoa, ngươi hãy lắng nghe, những vị ấy vượt qua dòng lũ này, (dòng lũ) khó vượt qua được, chưa được vượt qua trước đây, để không còn hiện hữu lại nữa.”
Idaṃ nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến thấu triệt. 
‘‘Dukkaraṃ bhagavā sudukkaraṃ bhagavā’’ti; “Bạch đức Thế Tôn, là việc khó làm! 
‘‘Dukkaraṃ vāpi karonti, [kāmadāti bhagavā] Bạch đức Thế Tôn, là việc vô cùng khó làm! ” 
Sekkhā sīlasamāhitā; 25. (Đức Thế Tôn nói: “Này Kāmada,) họ cũng làm việc khó làm, (là) các vị hữu học, đã được thành tựu về giới, có bản thân vững chãi.
Ṭhitattā anagāriyupetassa, tuṭṭhi hoti sukhāvahā’’ti. Đối với vị đã đạt đến cuộc sống không nhà, sự hài lòng (biết đủ) là nguồn đem lại an lạc.” 
‘‘Dullabhā [dullabhaṃ (sī. ka.) passa saṃ. ni. 1.87] bhagavā yadidaṃ tuṭṭhī’’ti; ‘‘Dullabhaṃ vāpi labhanti, [kāmadāti bhagavā] “Bạch đức Thế Tôn, sự hài lòng (biết đủ) là điều khó đạt! ” 26. (Đức Thế Tôn nói: “Này Kāmada,) họ cũng đạt được điều khó đạt,
Cittavūpasame ratā; (là) các vị vui thích ở sự vắng lặng của tâm.
Yesaṃ divā ca ratto ca, bhāvanāya rato mano’’ti. Ý của các vị ấy vui thích trong việc tu tập ban ngày và ban đêm.” 
‘‘Dussamādahaṃ bhagavā yadidaṃ citta’’nti; ‘‘Dussamādahaṃ vāpi samādahanti, [kāmadāti bhagavā] Indriyūpasame ratā; “Bạch đức Thế Tôn, tâm là khó tập trung! ” 27. (Đức Thế Tôn nói: “Này Kāmada,) họ cũng tập trung cái (tâm) khó tập trung, (là) các vị vui thích ở sự an tịnh của các quyền.
Te chetvā maccuno jālaṃ, ariyā gacchanti kāmadā’’ti. Sau khi cắt đứt mạng lưới của Thần Chết, các bậc Thánh ra đi, này Kāmada.” 
‘‘Duggamo bhagavā visamo maggo’’ti; “Bạch đức Thế Tôn, con đường là khó đi, không bằng phẳng! ” 
‘‘Duggame visame vāpi, ariyā gacchanti kāmada [kāmadā (ka.) passa saṃ. ni. 1.87]; Anariyā visame magge, papatanti avaṃsirā; 28. “Này Kāmada, dầu là khó đi, không bằng phẳng, các bậc Thánh cũng đi. Những kẻ không phải bậc Thánh té ngã ở con đường không bằng phẳng, có đầu chúi xuống.
Ariyānaṃ samo maggo, ariyā hi visame samā’’ti. Con đường ấy của các bậc Thánh là bằng phẳng, bởi vì các bậc Thánh là bằng phẳng ở nơi không bằng phẳng.” 
Idaṃ nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến thấu triệt. 
103. ‘‘Idaṃ hi [passa saṃ. ni. 1.101] taṃ jetavanaṃ, isisaṅghanisevitaṃ; Āvutthaṃ dhammarājena, pītisañjananaṃ mama. 29. “Chính Jetavana này đây, nơi được hội chúng các ẩn sĩ lui tới, được đấng Pháp Vương trú ngụ, là nguồn tạo ra niềm vui cho con. 
‘‘Kammaṃ vijjā ca dhammo ca, sīlaṃ jīvitamuttamaṃ; Etena maccā sujjhanti, na gottena dhanena vā. 30. Hành động, sự hiểu biết, Giáo Pháp, giới, và mạng sống tối thượng, nhờ vào (Thánh Đạo tám chi phần) này nhiều người được trong sạch, không do dòng họ hoặc do tài sản. 
‘‘Tasmā hi paṇḍito poso, sampassaṃ atthamattano; 31. Chính vì điều ấy, người sáng trí, trong khi nhìn thấy lợi ích cho bản thân, nên suy xét Giáo Pháp đúng theo đường lối, như vậy được thanh tịnh tại nơi ấy. 
Yoniso vicine dhammaṃ, evaṃ tattha visujjhati.  
‘‘Sāriputtova paññāya, sīlena upasamena ca; 32. Tựa như vị Sāriputta với tuệ, với giới, và với sự an tịnh (ô nhiễm), vị tỳ khưu nào đã đi đến bờ kia, vị tỳ khưu ấy tối đa chỉ có thể giống như vị (Sāriputta) ấy.” 1 
Yopi pāraṅgato bhikkhu, etāvaparamo siyā’’ti.  
Idaṃ nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến thấu triệt. 
‘‘Atītaṃ nānvāgameyya, nappaṭikaṅkhe anāgataṃ; 33. “Không nên theo đuổi quá khứ, 2 không nên mong ước vị lai, (bởi vì) cái nào thuộc quá khứ, cái ấy đã được dứt bỏ, và cái nào thuộc vị lai, cái ấy là chưa đạt đến. 
Yadatītaṃ pahīnaṃ [pahīṇaṃ (sī.) passa ma. ni. 3.272] taṃ, appattañca anāgataṃ.  
‘‘Paccuppannañca yo dhammaṃ, tattha tattha vipassati; Asaṃhīraṃ asaṃkuppaṃ, taṃ vidvā manubrūhaye.  34. Vị nào (minh sát) nhìn thấy rõ pháp thuộc hiện tại ở nơi nọ, ở nơi kia, sau khi biết điều ấy, nên làm phát triển pháp (minh sát) ấy không bị  tiêu hoại, không bị lay chuyển. 
‘‘Ajjeva kiccamātappaṃ [kiccaṃ ātappaṃ (sī.)], ko jaññā maraṇaṃ suve; Na hi no saṅgaraṃ tena, mahāsenena maccunā.  35. Ngay hôm nay, việc cần phải làm là sự nhiệt tâm. Người nào có thể  biết cái chết ở ngày mai? Bởi vì không có sự thỏa thuận của chúng ta với Ma Vương có đội quân to lớn. 
‘‘Evaṃ vihāriṃ ātāpiṃ, ahorattamatanditaṃ; 36. Vị có sự an trú như vậy, có sự nhiệt tâm, không biếng nhác cả ngày lẫn đêm, thật vậy, bậc Hiền Trí an tịnh gọi vị ấy là ‘vị có một đêm tốt lành. ’” 
Taṃ ve ‘‘bhaddekaratto’’ti, santo ācikkhate munī’’ti.  
Idaṃ nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến thấu triệt. 
‘‘Cattārimāni, bhikkhave, sacchikātabbāni. Katamāni cattāri? Atthi, bhikkhave, dhammā cakkhunā paññāya ca sacchikātabbā, atthi dhammā satiyā paññāya ca sacchikātabbā, atthi dhammā kāyena paññāya ca sacchikātabbā, atthi dhammā paññāya veditabbā, paññāya ca sacchikātabbā.  “Này các tỳ khưu, bốn điều này là cần được chứng ngộ. Bốn điều nào?  Này các tỳ khưu, có các pháp là cần được chứng ngộ bằng mắt và bằng tuệ, có các pháp là cần được chứng ngộ bằng niệm và bằng tuệ, có các pháp là cần được chứng ngộ bằng thân và bằng tuệ, có các pháp là cần được hiểu biết bằng tuệ và cần được chứng ngộ bằng tuệ. 
‘‘Katame ca, bhikkhave, dhammā cakkhunā paññāya ca sacchikātabbā? Dibbacakkhu suvisuddhaṃ atikkantamānusakaṃ cakkhunā paññāya ca sacchikātabbaṃ. Và này các tỳ khưu, các pháp nào là cần được chứng ngộ bằng mắt và bằng tuệ? Thiên nhãn vô cùng thanh tịnh, vượt trội loài người, là cần được chứng ngộ bằng mắt và bằng tuệ. 
‘‘Katame ca, bhikkhave, dhammā satiyā paññāya ca sacchikātabbā? Pubbenivāsānussati satiyā paññāya ca sacchikātabbā. Và này các tỳ khưu, các pháp nào là cần được chứng ngộ bằng niệm và bằng tuệ? Tùy niệm về các kiếp sống quá khứ là cần được chứng ngộ bằng niệm và bằng tuệ. 
‘‘Katame ca, bhikkhave, dhammā kāyena paññāya ca sacchikātabbā? Iddhividhā nirodhā kāyena paññāya ca sacchikātabbā. Và này các tỳ khưu, các pháp nào là cần được chứng ngộ bằng thân và bằng tuệ? Nhiều loại thần thông, sự tịch diệt (Niết Bàn) là cần được chứng ngộ bằng thân và bằng tuệ. 
‘‘Katame ca, bhikkhave, dhammā paññāya veditabbā, paññāya sacchikātabbā? Āsavānaṃ khaye ñāṇaṃ paññāya veditabbaṃ, paññāya ca sacchikātabba’’nti. Và này các tỳ khưu, các pháp nào là cần được hiểu biết bằng tuệ và cần được chứng ngộ bằng tuệ? Trí về sự diệt trừ các lậu hoặc là cần được hiểu biết bằng tuệ và cần được chứng ngộ bằng tuệ.” 
Idaṃ nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến thấu triệt. 
104. Tattha katamaṃ asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ? (4) Ở đấy, kinh liên quan đến bậc Vô Học là kinh nào? 
‘‘Yassa selūpamaṃ cittaṃ, ṭhitaṃ nānupakampati; 1. “Tâm của người nào giống như tảng đá, đứng yên, không rung động, không luyến ái ở các vật đáng bị luyến ái, không bị bực tức đối với việc đáng bị bực tức, tâm của người nào được tu tập như vậy, do đâu khổ đau sẽ đến với người ấy? ”
Virattaṃ rajanīyesu, kopaneyye na kuppati;  
Yassevaṃ bhāvitaṃ cittaṃ, kuto naṃ [taṃ (udā. 34)] dukkhamessatī’’ti.  
Idaṃ asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến bậc Vô Học. 
Āyasmato ca sāriputtassa cārikādasamaṃ veyyākaraṇaṃ kātabbanti. “Lời giải thích thứ mười về cuộc du hành của đại đức Sāriputta cần được thực hiện.” 
Idaṃ asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến bậc Vô Học. 
‘‘Yo brāhmaṇo bāhitapāpadhammo, nihuṃhuṅko [nihuhuṅko (sī.) passa udā. 4] nikkasāvo yatatto; 2. “Vị Bà-la-môn nào có ác pháp đã được ngăn trừ, là vị không làm tiếng ‘hum hum,’ đã thoát khỏi điều ô nhiễm, có bản thân đã được chế ngự, là vị thông thạo các bộ Vệ Đà, đã sống đời Phạm hạnh, vị ấy có thể thuyết giảng lời nói của Phạm Thiên một cách đúng đắn, đối với vị ấy không có sự tồn trữ ở bất cứ nơi nào ở trên thế gian.”
Vedantagū vūsitabrahmacariyo, dhammena so brahmavādaṃ vadeyya; Yassussadā natthi kuhiñci loke’’ti.  
Idaṃ asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến bậc Vô Học. 
‘‘Bāhitvā pāpake dhamme, ye caranti sadā satā; 3. “Sau khi lánh xa các ác pháp, các vị nào sống thường xuyên có niệm, có các sự ràng buộc đã được cạn kiệt, đã được giác ngộ, các vị ấy quả thật là các Bà-la-môn ở thế gian.”
Khīṇasaṃyojanā buddhā, te ve lokasmi [lokasmiṃ (sī. ka.) passa udā. 5] brāhmaṇā’’ti.  
Idaṃ asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến bậc Vô Học.
‘‘Yattha āpo ca pathavī, tejo vāyo na gādhati; 4. “Nơi nào nước và đất, lửa, gió không được thiết lập, nơi ấy các vì sao không lấp lánh, mặt trời không chói sáng, nơi ấy mặt trăng không chiếu sáng, nơi ấy sự tối tăm không tìm thấy. 
Na tattha sukkā jotanti, ādicco nappakāsati;  
Na tattha candimā bhāti, tamo tattha na vijjati.  
‘‘Yadā ca attanāvedi [vedī (sī.) passa udā. 10], muni monena brāhmaṇo; Atha rūpā arūpā ca, sukhadukkhā pamuccatī’’ti. 5. Và vào lúc bậc hiền trí, vị Bà-la-môn tự mình hiểu biết bằng trí tuệ, khi ấy được giải thoát khỏi sắc, khỏi vô sắc, khỏi hạnh phúc và khổ đau.”
Idaṃ asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến bậc Vô Học. 
‘‘Yadā sakesu [passa udā. 7] dhammesu, pāragū hoti brāhmaṇo; Atha etaṃ pisācañca, pakkulañcātivattatī’’ti.  6. “Khi đã đi đến bờ kia đối với các pháp của chính mình, trở thành vị  Bà-la-môn, thì vượt qua con yêu tinh ấy và tiếng gào thét (của nó).”
Idaṃ asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến bậc Vô Học. 
‘‘Nābhinandati āyantiṃ [āyantiṃ nābhinandati (udā. 8)], pakkamantiṃ na socati; Saṅgā saṅgāmajiṃ muttaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇa’’nti. 7. “Chẳng thích thú cô nàng đi đến, không sầu muộn cô nàng bỏ đi; Sangāmaji đã thoát khỏi sự dính mắc, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.”
Idaṃ asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến bậc Vô Học. 
‘‘Na udakena sucī [suci (sī. ka.) passa udā. 9] hoti, bahvettha nhāyatī [nahāyati (sī.)] jano; Yamhi saccañca dhammo ca, so sucī so ca brāhmaṇo’’ti.  8. “Không do nước mà trở nên trong sạch. Nhiều người tắm ở nơi này.  Ở người nào có sự chân thật và có Giáo Pháp, người ấy là trong sạch, và người ấy là Bà-la-môn.”
Idaṃ asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến bậc Vô Học. 
‘‘Yadā have pātubhavanti dhammā, ātāpino jhāyato brāhmaṇassa; Vidhūpayaṃ tiṭṭhati mārasenaṃ, sūriyova obhāsayamantalikkha’’nti. 9. “Quả vậy, khi các pháp hiện rõ đến vị Bà-la-môn có nhiệt tâm đang tham thiền, trong khi đánh tan binh đội của Ma Vương, (vị ấy) tồn tại tựa như ánh mặt trời đang làm rực sáng không gian.”
Idaṃ asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến bậc Vô Học. 
‘‘Santindriyaṃ passatha iriyamānaṃ, tevijjapattaṃ apahānadhammaṃ; Sabbāni yogāni upātivatto, akiñcano iriyati paṃsukūliko.  10. “Các vị hãy nhìn xem vị đang sinh hoạt, có giác quan an tịnh, đã đạt đến ba Minh, là pháp không bị hư hoại.  Vị đã vượt lên trên tất cả các sự ràng buộc,  không có gì, mặc y may bằng vải bị quăng bỏ, (đang) sinh hoạt. 
‘‘Taṃ devatā sambahulā uḷārā, brahmavimānaṃ upasaṅkamitvā; Ājāniyaṃ jātibalaṃ nisedhaṃ, nidha namassanti pasannacittā. 11. Nhiều vị Thiên nhân cao cả đã đi đến gần vị ấy, cung điện của đấng Brahma, vị có thuần huyết thống, có sự chối bỏ uy thế của dòng dõi. Với tâm tịnh tín, các vị Thiên nhân, tại nơi ấy, đã cúi chào (nói rằng): 12. ‘ Thưa bậc siêu nhân, xin kính lễ ngài. Thưa bậc tối thượng nhân, xin kính lễ ngài. Chúng tôi không biết rõ về ngài đây. Ngài tham thiền, nương tựa vào người nào? ’”
‘‘Namo te purisājañña, namo te purisuttama;  
Yassa te nābhijānāma, kiṃ tvaṃ nissāya jhāyasī’’ti.  
Idaṃ asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến bậc Vô Học. 
‘‘Sahāyā vatime bhikkhū, cirarattaṃ sametikā; 13. “Thật vậy, (hai) vị tỳ khưu này là bạn bè, là những người đã gặp nhau dài lâu. Phẩm chất tốt đẹp của hai vị ấy gặp nhau ở Giáo Pháp đã được đức Phật tuyên bố. 
Sameti nesaṃ saddhammo, dhamme buddhappavedite’’.  
‘‘Suvinītā kappinena, dhamme ariyappavedite; 14. Khéo được huấn luyện bởi ngài Kappina trong Giáo Pháp đã được các bậc Thánh tuyên bố, (hai vị ấy) mang thân mạng cuối cùng sau khi đã chiến thắng Ma Vương cùng với đạo quân binh.” 
Dhārenti antimaṃ dehaṃ, jetvā māraṃ savāhini’’nti [savāhana’’nti (ka.) passa saṃ. ni. 2.246].  
Idaṃ asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến bậc Vô Học. 
‘‘Nayidaṃ sithilamārabbha, nayidaṃ appena thāmasā; 15. “Niết Bàn này, sự giải thoát tất cả trói buộc, không thể nào được chứng đắc sau khi ra sức một cách lơi lỏng, với chút ít sức lực. 
Nibbānaṃ adhigantabbaṃ, sabbadukkhappamocanaṃ [sabbagantapamocanaṃ (ka.) passa saṃ. ni. 2.238].  
‘‘Ayañca daharo bhikkhu, ayamuttamapuriso; 16. Và vị tỳ khưu trẻ này, con người tối thượng này, mang thân mạng cuối cùng, sau khi chiến thắng Ma Vương cùng với đạo quân binh.”
Dhāreti antimaṃ dehaṃ, jetvā māraṃ savāhini’’nti.  
Idaṃ asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến bậc Vô Học. 
‘‘Dubbaṇṇako lūkhacīvaro, mogharājā sadā sato; 17. “Vị Mogharājā có vóc dáng xấu xí, có y thô xấu, luôn luôn có niệm, có lậu hoặc đã được cạn kiệt, không bị ràng buộc, có phận sự đã được làm xong, không còn lậu hoặc. 
Khīṇāsavo visaṃyutto, katakicco anāsavo.  
‘‘Tevijjo iddhippatto ca, cetopariyakovido [cetopariyāyakovido (sī.)]; Dhāreti antimaṃ dehaṃ, jetvā māraṃ savāhini’’nti. 18. Có ba Minh, đã đạt được thần thông, và thiện xảo về tâm của người khác, vị mang thân mạng cuối cùng, sau khi chiến thắng Ma Vương cùng với đạo quân binh.” 
Idaṃ asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến bậc Vô Học. 
105. ‘‘Tathāgato, bhikkhave, arahaṃ sammāsambuddho rūpassa nibbidā virāgā nirodhā anupādā vimutto sammāsambuddhoti vuccati. Bhikkhupi, bhikkhave, paññāvimutto rūpassa nibbidā virāgā nirodhā anupādā vimutto paññāvimuttoti vuccati. “Này các tỳ khưu, đức Như Lai là bậc A-la-hán, đấng Chánh Ðẳng Giác, đã được giải thoát do nhàm chán đối với sắc, do xa lìa luyến ái, do sự diệt tận, do không còn chấp thủ, được gọi là ‘đấng Chánh Đẳng Giác.’ Này các tỳ khưu, còn vị tỳ khưu được giải thoát do tuệ đã được giải thoát do nhàm chán đối với sắc, do xa lìa luyến ái, do sự diệt tận, do không còn chấp thủ, được gọi là ‘vị được giải thoát do tuệ.’ 
‘‘Tathāgato, bhikkhave, arahaṃ sammāsambuddho vedanāya …pe… saññāya …pe… saṅkhārānaṃ …pe… viññāṇassa nibbidā virāgā nirodhā anupādā vimutto sammāsambuddhoti vuccati. Bhikkhupi, bhikkhave, paññāvimutto viññāṇassa nibbidā virāgā nirodhā anupādā vimutto paññāvimuttoti vuccati.  Này các tỳ khưu, đức Như Lai là bậc A-la-hán, đấng Chánh Ðẳng Giác, đã được giải thoát do nhàm chán đối với thọ ―nt― đối với tưởng ―nt― đối với các hành ―nt― đối với thức, do xa lìa luyến ái, do sự diệt tận, do không còn chấp thủ, được gọi là ‘đấng Chánh Đẳng Giác.’ Này các tỳ khưu, còn vị  tỳ khưu được giải thoát do tuệ đã được giải thoát do nhàm chán đối với thức, do xa lìa luyến ái, do sự diệt tận, do không còn chấp thủ, được gọi là  ‘vị được giải thoát do tuệ.’ 
‘‘Tatra kho, bhikkhave, ko viseso ko adhippayāso [adhippāyo (ka.) passa saṃ. ni. 3.58] kiṃ nānākaraṇaṃ tathāgatassa arahato sammāsambuddhassa paññāvimuttena bhikkhunāti? Bhagavaṃmūlakā no, bhante, dhammā …pe… Này các tỳ khưu, ở đấy, cái gì là sự khác biệt, cái gì là ý định, cái gì là việc làm khác nhau của đức Như Lai, bậc A-la-hán, đấng Chánh Ðẳng Giác so với vị tỳ khưu được giải thoát do tuệ?” Bạch Ngài, đối với chúng con, các pháp có đức Thế Tôn là gốc rễ ―nt― 
‘‘Tathāgato, bhikkhave, arahaṃ sammāsambuddho anuppannassa maggassa uppādetā, asañjātassa maggassa sañjanetā, anakkhātassa maggassa akkhātā, maggaññū maggavidū maggakovido, maggānugā ca, bhikkhave, etarahi sāvakā viharanti pacchāsamannāgatā. Ayaṃ kho, bhikkhave, viseso, ayaṃ adhippayāso, idaṃ nānākaraṇaṃ tathāgatassa arahato sammāsambuddhassa paññāvimuttena bhikkhunā’’ti. “Này các tỳ khưu, đức Như Lai là bậc A-la-hán, đấng Chánh Ðẳng Giác, là vị làm sanh khởi Đạo Lộ chưa được sanh khởi, là vị làm sanh ra Đạo Lộ chưa được sanh ra, là vị tuyên thuyết Đạo Lộ chưa được tuyên thuyết, là vị biết về Đạo Lộ, là vị hiểu rõ về Đạo Lộ, là vị rành rẽ về Đạo Lộ. Và này các tỳ khưu, những người đi theo Đạo Lộ hiện nay là các đệ tử đang an trú và sau này sẽ thành tựu (Đạo Lộ ấy). Này các tỳ khưu, đây là sự khác biệt, đây là ý định, đây là việc làm khác nhau của đức Như Lai, bậc A-la-hán, đấng Chánh Ðẳng Giác so với vị tỳ  khưu được giải thoát do tuệ.” 
Idaṃ asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ. Đây là kinh liên quan đến bậc Vô Học. 
106. Tattha katamaṃ saṃkilesabhāgiyañca vāsanābhāgiyañca suttaṃ? (5) Ở đấy, kinh liên quan đến phiền não và liên quan đến huân tập là kinh nào? 
‘‘Channamativassati [passa udā. 45], vivaṭaṃ nātivassati; Tasmā channaṃ vivaretha, evaṃ taṃ nātivassatī’’ti. 1. “Mưa rơi nhiều ở vật đã được che đậy, mưa không rơi nhiều ở vật đã được mở ra. Vì thế, hãy mở ra vật đã được che đậy, như vậy mưa không rơi nhiều ở vật ấy.”
‘‘Channamativassatī’’ti saṃkileso, ‘‘vivaṭaṃ nātivassatī’’ti vāsanā, ‘‘tasmā channaṃ vivaretha, evaṃ taṃ nātivassatī’’ti ayaṃ saṃkileso ca vāsanā ca. Idaṃ saṃkilesabhāgiyañca vāsanābhāgiyañca suttaṃ.  ‘ Mưa rơi nhiều ở vật đã được che đậy’: là phiền não; ‘ mưa không rơi nhiều ở vật đã được mở ra’: là sự huân tập; ‘ vì thế, hãy mở ra vật đã được che đậy, như vậy mưa không rơi nhiều ở vật ấy’: đây là phiền não và sự  huân tập. Đây là kinh liên quan đến phiền não và liên quan đến huân tập.
‘‘Cattārome, mahārāja [bhikkhave (a. ni. 4.85)], puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame cattāro? Tamo tamaparāyaṇo tamo jotiparāyaṇo joti tamaparāyaṇo joti jotiparāyaṇo’’ti. Tattha yo ca puggalo joti tamaparāyaṇo yo ca puggalo tamo tamaparāyaṇo, ime dve puggalā saṃkilesabhāgiyā, yo ca puggalo tamo jotiparāyaṇo yo ca puggalo joti jotiparāyaṇo, ime dve puggalā vāsanābhāgiyā. Idaṃ saṃkilesabhāgiyañca vāsanābhāgiyañca suttaṃ. “Tâu đại vương, bốn hạng người này đang hiện diện ở thế gian. Bốn hạng nào? Là bóng tối có sự đi đến bóng tối, là bóng tối có sự đi đến ánh sáng, là ánh sáng có sự đi đến bóng tối, là ánh sáng có sự đi đến ánh sáng.”  Ở đấy, hạng người nào là ánh sáng có sự đi đến bóng tối và hạng người nào là bóng tối có sự đi đến bóng tối, đây là hai hạng người liên quan đến phiền não; hạng người nào là bóng tối có sự đi đến ánh sáng và hạng người nào là ánh sáng có sự đi đến ánh sáng, đây là hai hạng người liên quan đến huân tập. Đây là kinh liên quan đến phiền não và liên quan đến huân tập. 
Tattha katamaṃ saṃkilesabhāgiyañca nibbedhabhāgiyañca suttaṃ? (6) Ở đấy, kinh liên quan đến phiền não và liên quan đến thấu triệt là kinh nào? 
‘‘Na taṃ daḷhaṃ bandhanamāhu dhīrā, yadāyasaṃ dārujapabbajañca [dārujaṃ pabbajañca (saṃ. ni. 1.121)];  1. “Các bậc sáng trí đã nói rằng sự trói buộc làm bằng sắt, bằng gỗ, và bằng dây gai là không chắc chắn. 
Sārattarattā maṇikuṇḍalesu, puttesu dāresu ca yā apekkhā’’ti; Ayaṃ saṃkileso. Sự mong muốn, bị luyến ái dính mắc ở  các bông tai gắn ngọc ma-ni, ở những người con, và ở những người vợ, …”  Đây là phiền não. 
‘‘Etaṃ daḷhaṃ bandhanamāhu dhīrā, ohārinaṃ sithilaṃ duppamuñcaṃ; Etampi chetvāna paribbajanti, anapekkhino kāmasukhaṃ pahāyā’’ti.  2. “… các bậc sáng trí đã nói rằng sự trói buộc này là chắc chắn, có sự trì xuống, dẻo dai, khó tháo gỡ.  Sau khi cắt đứt luôn cả sự trói buộc này, các vị du hành, không có mong cầu, sau khi đã dứt bỏ khoái lạc của các dục.”
Ayaṃ nibbedho. Idaṃ saṃkilesabhāgiyañca nibbedhabhāgiyañca suttaṃ.  Đây là sự thấu triệt.  Đây là kinh liên quan đến phiền não và liên quan đến thấu triệt. 
107. ‘‘Yañca, bhikkhave, ceteti, yañca pakappeti, yañca anuseti. Ārammaṇametaṃ hoti viññāṇassa ṭhitiyā, ārammaṇe sati patiṭṭhā viññāṇassa hoti, tasmiṃ patiṭṭhite viññāṇe virūḷhe āyatiṃ [āyati (sī. ka.) passa saṃ. ni. 2.38] punabbhavābhinibbatti hoti, āyatiṃ punabbhavābhinibbattiyā sati āyatiṃ [āyati (sī. ka.) passa saṃ. ni. 2.38] jātijarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā sambhavanti, evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti.  “Này các tỳ khưu, (khi) có ý định về điều nào, toan tính về điều nào, ngấm ngầm về điều nào, thì điều ấy là cảnh cho sự tồn tại của thức. Khi cảnh có mặt, thì có sự hình thành của thức ấy. Khi thức ấy được thành lập, được lớn mạnh, thì có sự sanh ra và sự hiện hữu lại nữa ở vị lai. Khi có sự  sanh ra và sự hiện hữu lại nữa ở vị lai, thì già, chết, sầu-bi-khổ-ưu-não sanh khởi ở vị lai. Như thế là sự sanh lên của toàn bộ khổ uẩn này. 
‘‘No ce, bhikkhave, ceteti, no ce pakappeti, atha ce anuseti. Ārammaṇametaṃ hoti viññāṇassa ṭhitiyā, ārammaṇe sati patiṭṭhā viññāṇassa [tassa viññāṇassa (sī. ka.) passa saṃ. ni. 2.38] hoti, tasmiṃ patiṭṭhite viññāṇe virūḷhe āyatiṃ punabbhavābhinibbatti hoti, āyatiṃ punabbhavābhinibbattiyā sati āyatiṃ jātijarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā sambhavanti, evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hotī’’ti. Ayaṃ saṃkileso.  Này các tỳ khưu, nếu không có ý định, nếu không toan tính, nhưng nếu ngấm ngầm, thì điều ấy là cảnh cho sự tồn tại của thức. Khi cảnh có mặt, thì có sự hình thành của thức ấy. Khi thức ấy được thành lập, được lớn mạnh, thì có sự sanh ra và sự hiện hữu lại nữa ở vị lai. Khi có sự sanh ra và sựhiện hữu lại nữa ở vị lai, thì sanh, già, chết, sầu-bi-khổ-ưu-não sanh khởi ở vị lai. Như thế là sự sanh lên của toàn bộ khổ uẩn này.”  Đây là phiền não. 
‘‘Yato ca kho, bhikkhave, no ceva [ca (sī. ka.)] ceteti, no ca pakappeti, no ca anuseti. Ārammaṇametaṃ na hoti viññāṇassa ṭhitiyā, ārammaṇe asati patiṭṭhā viññāṇassa na hoti, tasmiṃ appatiṭṭhite viññāṇe avirūḷhe āyatiṃ punabbhavābhinibbatti na hoti, āyatiṃ punabbhavābhinibbattiyā asati āyatiṃ jātijarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā nirujjhanti. Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hotī’’ti, ayaṃ nibbedho. Idaṃ saṃkilesabhāgiyañca nibbedhabhāgiyañca suttaṃ.  Và này các tỳ khưu, khi không có ý định, không toan tính, và không ngấm ngầm, thì điều ấy không là cảnh cho sự tồn tại của thức. Khi cảnh không có mặt, thì không có sự hình thành của thức ấy. Khi thức ấy không được thành lập, không được lớn mạnh, thì không có sự sanh ra và sự hiện hữu lại nữa ở vị lai. Khi không có sự sanh ra và sự hiện hữu lại nữa ở vị  lai, thì sanh, già, chết, sầu-bi-khổ-ưu-não ở vị lai được diệt tận. Như thế là sự diệt tận của toàn bộ khổ uẩn này.”  Đây là sự thấu triệt.  Đây là kinh liên quan đến phiền não và liên quan đến thấu triệt. 
108. Tattha katamaṃ saṃkilesabhāgiyañca asekkhabhāgiyañca suttaṃ? (7) Ở đấy, kinh liên quan đến phiền não và liên quan đến bậc Vô Học là kinh nào? 
‘‘‘Samuddo samuddo’ti kho, bhikkhave, assutavā puthujjano bhāsati, neso, bhikkhave, ariyassa vinaye samuddo, mahā eso bhikkhave, udakarāsi mahāudakaṇṇavo. Cakkhu, bhikkhave, purisassa samuddo, tassa rūpamayo vego. Ayaṃ saṃkileso.  “Này các tỳ khưu, kẻ phàm phu, không lắng nghe, nói rằng: ‘Biển, biển.’  Này các tỳ khưu, cái đó không phải là biển ở Luật của bậc Thánh. Này các tỳ khưu, cái đó là khối nước lớn, là dòng nước lớn. Mắt, này các tỳ khưu, là biển của con người; sức xô đẩy của nó được tạo thành bởi sắc.”  Đây là phiền não. 
‘‘Yo taṃ rūpamayaṃ vegaṃ sahati ayaṃ vuccati, bhikkhave, atari [atāri (sī. ka.) passa saṃ. ni. 4.228] cakkhusamuddaṃ saūmiṃ sāvaṭṭaṃ sagahaṃ [sagāhaṃ (saṃ. ni. 4.228)] sarakkhasaṃ tiṇṇo pāraṅgato thale tiṭṭhati brāhmaṇo’’ti. Ayaṃ asekkho.  “Người nào ngự trị sức xô đẩy được tạo thành bởi sắc ấy, này các tỳ  khưu, người này được gọi là đã vượt qua biển của mắt, có sóng, có xoáy nước, có cá dữ, có quỷ sứ; người đã được vượt qua, đã đi đến bờ kia, đứng ở đất liền (được gọi là) vị Bà-la-môn.”  Đây là bậc Vô Học. 
‘‘‘Sotaṃ, bhikkhave …pe… ghānaṃ …pe… jivhā …pe… kāyo …pe… mano, bhikkhave, purisassa samuddo tassa dhammamayo vegoti. Ayaṃ saṃkileso.  “Tai, này các tỳ khưu, ―nt― Mũi ―nt― Lưỡi ―nt― Thân ―nt― Ý, này các tỳ khưu, là biển của con người; sức xô đẩy của nó được tạo thành bởi pháp.”  Đây là phiền não. 
‘‘Yo taṃ dhammamayaṃ vegaṃ sahati, ayaṃ vuccati, bhikkhave, atari manosamuddaṃ saūmiṃ sāvaṭṭaṃ sagahaṃ sarakkhasaṃ tiṇṇo pāraṅgato thale tiṭṭhati brāhmaṇo’’ti. Ayaṃ asekkho. Idamavoca bhagavā, idaṃ vatvāna sugato, athāparaṃ etadavoca satthā –  “Người nào ngự trị sức xô đẩy được tạo thành bởi pháp ấy, này các tỳ  khưu, người này được gọi là đã vượt qua biển của ý, có sóng, có xoáy nước, có cá dữ, có quỷ sứ; người đã được vượt qua, đã đi đến bờ kia, đứng ở đất liền (được gọi là) vị Bà-la-môn.”  Đây là bậc Vô Học. Đức Thế Tôn đã nói điều này. Sau khi nói điều này, đấng Thiện Thệ, bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: 
‘‘Yo imaṃ samuddaṃ sagahaṃ sarakkhasaṃ,  “Người nào đã vượt qua biển có cá dữ, có quỷ sứ, có sóng và nỗi sợ hãi, khó vượt qua được này, người ấy là vị thông thạo các bộ Vệ Đà, đã sống đời Phạm hạnh, đã đi đến tận cùng thế giới, được gọi là ‘vị đã đi đến bờ  kia.’” 
Saūmiṃ sāvaṭṭaṃ sabhayaṃ duttaraṃ accatari;  
Sa vedantagū vusitabrahmacariyo, lokantagū pāragatoti vuccatī’’ti.  
Ayaṃ asekkho. Idaṃ saṃkilesabhāgiyañca asekkhabhāgiyañca suttaṃ. Đây là bậc Vô Học. Đây là kinh liên quan đến phiền não và liên quan đến bậc Vô Học. 
‘‘Chayime, bhikkhave, baḷisā lokasmiṃ anayāya sattānaṃ byābādhāya [vadhāya (saṃ. ni. 4.230)] pāṇīnaṃ. Katame cha? Santi, bhikkhave, cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā, tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati, ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu gilitabaḷiso [gilabaḷiso (sī. ka.) passa saṃ. ni. 4.230] mārassa anayaṃ āpanno, byasanaṃ āpanno, yathākāmaṃ karaṇīyo pāpimato.  “Này các tỳ khưu, đây là sáu lưỡi câu ở thế gian đưa đến sự bất hạnh cho chúng sanh, đưa đến tai họa cho các sinh mạng. Sáu cái nào? Này các tỳ khưu, có các sắc được nhận thức bởi mắt là đáng mong, đáng muốn, đáng mến, đáng yêu, liên hệ đến dục, gợi tình. Nếu vị tỳ khưu thích thú điều ấy, tán thưởng, bám chặt rồi tồn tại, này các tỳ khưu, vị này được gọi là vị  tỳ khưu đã nuốt vào lưỡi câu của Ma Vương, đã đi đến sự bất hạnh, đã đi đến sự tổn hại, sẽ bị điều khiển theo như ước muốn bởi Ác Ma. 
‘‘Santi, bhikkhave, sotaviññeyyā saddā …pe… ghānaviññeyyā gandhā …pe… jivhāviññeyyā rasā… pe… kāyaviññeyyā phoṭṭhabbā …pe… manoviññeyyā dhammā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā, tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu gilitabaḷiso mārassa anayaṃ āpanno, byasanaṃ āpanno, yathākāmaṃ karaṇīyo [yathākāmakaraṇīyo (sī.) saṃ. ni. 4.230] pāpimato’’ti. Ayaṃ saṃkileso.  Này các tỳ khưu, có các thinh được nhận thức bởi tai –nt– các hương được nhận thức bởi mũi –nt– các vị được nhận thức bởi lưỡi –nt– các xúc được nhận thức bởi thân –nt– các pháp được nhận thức bởi ý là đáng mong, đáng muốn, đáng mến, đáng yêu, liên hệ đến dục, gợi tình. Nếu vị tỳ  khưu thích thú điều ấy, tán thưởng, bám chặt rồi tồn tại, này các tỳ khưu, vị này được gọi là vị tỳ khưu đã nuốt vào lưỡi câu của Ma Vương, đã đi đến sự bất hạnh, đã đi đến sự tổn hại, sẽ bị điều khiển theo như ước muốn bởi Ác Ma.” Đây là phiền não.
‘‘Santi ca, bhikkhave, cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā, tañce bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati, ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu na gilitabaḷiso mārassa, abhedi baḷisaṃ, paribhedi baḷisaṃ, na anayaṃ āpanno, na byasanaṃ āpanno, na yathākāmaṃ karaṇīyo pāpimato. “Này các tỳ khưu, có các sắc được nhận thức bởi mắt là đáng mong, đáng muốn, đáng mến, đáng yêu, liên hệ đến dục, gợi tình. Nếu vị tỳ khưu không thích thú điều ấy, không tán thưởng, không bám chặt rồi tồn tại, này các tỳ khưu, vị này được gọi là vị tỳ khưu đã không nuốt vào lưỡi câu của Ma Vương, đã bẻ gãy lưỡi câu, đã bẻ vụn lưỡi câu, đã không đi đến sự bất hạnh, đã không đi đến sự tổn hại, sẽ không bị điều khiển theo như ước muốn bởi Ác Ma. 
‘‘Santi ca, bhikkhave, sotaviññeyyā saddā …pe… manoviññeyyā dhammā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā, tañce bhikkhu nābhinandati nābhivadati, nājjhosāya tiṭṭhati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu na gilitabaḷiso mārassa, abhedi baḷisaṃ, paribhedi baḷisaṃ, na anayaṃ āpanno, na byasanaṃ āpanno, na yathākāmaṃ karaṇīyo pāpimato’’ti. Ayaṃ asekkho. Idaṃ saṃkilesabhāgiyañca asekkhabhāgiyañca suttaṃ.  Này các tỳ khưu, có các thinh được nhận thức bởi tai –nt– bởi mũi –nt–  bởi lưỡi –nt– bởi thân –nt– các pháp được nhận thức bởi ý là đáng mong, đáng muốn, đáng mến, đáng yêu, liên hệ đến dục, gợi tình. Nếu vị tỳ khưu không thích thú điều ấy, không tán thưởng, không bám chặt rồi tồn tại, này các tỳ khưu, vị này được gọi là vị tỳ khưu đã không nuốt vào lưỡi câu của Ma Vương, đã bẻ gãy lưỡi câu, đã bẻ vụn lưỡi câu, đã không đi đến sự bất hạnh, đã không đi đến sự tổn hại, sẽ không bị điều khiển theo như ước muốn bởi Ác Ma.”  Đây là bậc Vô Học. Đây là kinh liên quan đến phiền não và liên quan đến bậc Vô Học. 
109. Tattha katamaṃ saṃkilesabhāgiyañca nibbedhabhāgiyañca asekkhabhāgiyañca suttaṃ? (8) Ở đấy, kinh liên quan đến phiền não, liên quan đến thấu triệt, và liên quan đến bậc Vô Học là kinh nào? 
‘‘Ayaṃ loko santāpajāto, phassapareto rogaṃ vadati attato [attano (sī. ka.) passa udā. 30]; Yena yena hi maññati [maññanti (sī. ka.)], tato taṃ hoti aññathā.  1. “Thế gian này bị đốt nóng, bị quấy nhiễu bởi (sáu) xúc, khóc lóc, nói rằng của ta, dầu chúng sanh suy nghĩ theo cách này cách kia, nó hình thành theo một cách khác so với cái ấy. 
‘‘Aññathābhāvī bhavasatto loko, bhavapareto bhavamevābhinandati; Yadabhinandati taṃ bhayaṃ; 2. Có sự hình thành theo một cách khác, thế gian bị dính mắc vào hữu, bị quấy nhiễu bởi hữu, lại thích thú hữu ấy. Thích thú cái nào, cái ấy là sự sợ hãi. 
Yassa bhāyati taṃ dukkha’’nti; Ayaṃ saṃkileso. Bị sợ hãi đối với cái nào, cái ấy là khổ. ” Đây là phiền não. 
‘‘Bhavavippahānāya kho panidaṃ brahmacariyaṃ vussatī’’ti; Ayaṃ nibbedho;  “Quả vậy, Phạm hạnh này được sống nhằm lìa bỏ hữu. ”  Đây là sự thấu triệt. 
‘‘Ye hi keci samaṇā vā brāhmaṇā vā bhavena bhavassa vippamokkhamāhaṃsu, sabbe te ‘avippamuttā bhavasmā’ti vadāmi. Ye vā pana keci samaṇā vā brāhmaṇā vā vibhavena bhavassa nissaraṇamāhaṃsu, sabbe te ‘anissaṭā bhavasmā’ti vadāmi. Upadhiṃ [upadhi (sī. ka.) passa udā. 30] hi paṭicca dukkhamidaṃ sambhotī’’ti. Ayaṃ saṃkileso.  “Bất cứ các vị Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào đã nói rằng sự giải thoát khỏi hữu nhờ vào hữu, Ta nói rằng tất cả các vị đó không được giải thoát khỏi hữu.  Hơn nữa, bất cứ các vị Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào đã nói rằng sự tách ly khỏi hữu nhờ vào phi hữu, Ta nói rằng tất cả các vị đó không được tách ly khỏi hữu. Bởi vì, tùy thuận vào mầm tái sanh, khổ này được hình thành. ”  Đây là phiền não. 
‘‘Sabbupādānakkhayā natthi dukkhassa sambhavo’’ti. Ayaṃ nibbedho.  “Do sự cạn kiệt của mọi chấp thủ, không có sự hình thành của khổ. ”  Đây là sự thấu triệt. 
‘‘Lokamimaṃ passa, puthū avijjāya paretā bhūtā bhūtaratā, bhavā aparimuttā, ye hi keci bhavā sabbadhi sabbatthatāya, sabbe te bhavā aniccā dukkhā vipariṇāmadhammā’’ti. Ayaṃ saṃkileso.  “Hãy nhìn xem thế gian này, số đông bị quấy nhiễu bởi vô minh, được hiện hữu, thích thú sự hiện hữu, không được giải thoát hoàn toàn khỏi hữu.  Bất cứ các hữu nào, ở mọi nơi, với mọi tính chất, tất cả các hữu ấy là vô thường, khổ đau, có tính chất đổi thay.”  Đây là phiền não. 
‘‘Evametaṃ yathābhūtaṃ, sammappaññāya passato; Bhavataṇhā pahīyati, vibhavaṃ nābhinandati;  3. “Tương tự, đối với vị đang nhìn thấy điều này đúng theo thực thể  bằng tuệ chơn chánh, hữu ái của vị ấy được dứt bỏ, vị ấy không thích thú phi hữu. 
Sabbaso taṇhānaṃ khayā, asesavirāganirodho nibbāna’’nti; Ayaṃ nibbedho.  Do sự cạn kiệt của các tham ái một cách trọn vẹn, có sự lìa ái luyến và sự diệt tận không còn dư sót, Niết Bàn. ”  Đây là sự thấu triệt. 
‘‘Tassa nibbutassa bhikkhuno, anupādā punabbhavo na hoti; Abhibhūto māro vijitasaṅgāmo, upaccagā sabbabhavāni tādī’’ti.  4. “Đối với vị tỳ khưu đã được tịch tịnh ấy,  do không còn chấp thủ, sự hiện hữu lại nữa là không có, Ma Vương đã bị chế ngự; cuộc chiến đã được chiến thắng, bậc tự tại đã vượt qua khỏi tất cả các hữu.” 
Ayaṃ asekkho. Idaṃ saṃkilesabhāgiyañca nibbedhabhāgiyañca asekkhabhāgiyañca suttaṃ.  Đây là bậc Vô Học.  Đây là kinh liên quan đến phiền não, liên quan đến thấu triệt, và liên quan đến bậc Vô Học. 
‘‘Cattārome, bhikkhave [passa a. ni. 4.5], puggalā. Katame cattāro? Anusotagāmī paṭisotagāmī ṭhitatto tiṇṇo pāraṅgato thale tiṭṭhati brāhmaṇo’’ti. Tattha yoyaṃ puggalo anusotagāmī, ayaṃ puggalo saṃkilesabhāgiyo. Tattha yoyaṃ puggalo paṭisotagāmī yo ca ṭhitatto, ime dve puggalā nibbedhabhāgiyā. Tattha yoyaṃ puggalo tiṇṇo pāraṅgato thale tiṭṭhati brāhmaṇo, ayaṃ asekkho. Idaṃ saṃkilesabhāgiyañca nibbedhabhāgiyañca asekkhabhāgiyañca suttaṃ.  “Này các tỳ khưu, đây là bốn hạng người. Bốn hạng nào? Hạng đi xuôi dòng, hạng đi ngược dòng, hạng có bản thân ổn định, hạng đã vượt qua, đã đi đến bờ kia, đứng ở đất liền, vị Bà-la-môn.”  Ở đấy, hạng người đi xuôi dòng là hạng người liên quan đến phiền não. Ở  đấy, hạng người đi ngược dòng và hạng có bản thân ổn định là hai hạng người liên quan đến thấu triệt. Ở đấy, hạng người đã vượt qua, đã đi đến bờ  kia, đứng ở đất liền, vị Bà-la-môn, là bậc Vô Học.  Đây là kinh liên quan đến phiền não, liên quan đến thấu triệt, và liên quan đến bậc Vô Học. 
110. Tattha katamaṃ saṃkilesabhāgiyañca vāsanābhāgiyañca nibbedhabhāgiyañca suttaṃ? (9) Ở đấy, kinh liên quan đến phiền não, liên quan đến huân tập, và liên quan đến thấu triệt là kinh nào? 
Chaḷābhijātiko atthi puggalo kaṇho kaṇhābhijātiko kaṇhaṃ dhammaṃ abhijāyati, atthi puggalo kaṇho kaṇhābhijātiko sukkaṃ dhammaṃ abhijāyati, atthi puggalo kaṇho kaṇhābhijātiko akaṇhaṃ asukkaṃ akaṇhaasukkavipākaṃ accantadiṭṭhaṃ [antaṃ niṭṭhaṃ (sī.)] nibbānaṃ ārādheti, atthi puggalo sukko sukkābhijātiko kaṇhaṃ dhammaṃ abhijāyati, atthi puggalo sukko sukkābhijātiko sukkaṃ dhammaṃ abhijāyati, atthi puggalo sukko sukkābhijātiko akaṇhaṃ asukkaṃ akaṇhaasukkavipākaṃ accantadiṭṭhaṃ nibbānaṃ ārādheti. “Sáu dòng dõi: có hạng người đen, thuộc dòng dõi đen, tạo ra pháp đen; có hạng người đen, thuộc dòng dõi đen, tạo ra pháp trắng; có hạng người đen, thuộc dòng dõi đen, đạt đến mục đích tột cùng là Niết Bàn không đen không trắng, có quả thành tựu không đen không trắng; có hạng người trắng, thuộc dòng dõi trắng, tạo ra pháp đen; có hạng người trắng, thuộc dòng dõi trắng, tạo ra pháp trắng; có hạng người trắng, thuộc dòng dõi trắng, đạt đến mục đích tột cùng là Niết Bàn không đen không trắng, có quả thành tựu không đen không trắng. 
Tattha yo ca puggalo kaṇho kaṇhābhijātiko kaṇhaṃ dhammaṃ abhijāyati, yo ca puggalo sukko sukkābhijātiko kaṇhaṃ dhammaṃ abhijāyati, ime dve puggalā saṃkilesabhāgiyā. Ở đấy, hạng người đen, thuộc dòng dõi đen, tạo ra pháp đen và hạng người trắng, thuộc dòng dõi trắng, tạo ra pháp đen là hai hạng người liên quan đến phiền não. 
Tattha yo ca puggalo kaṇho kaṇhābhijātiko sukkaṃ dhammaṃ abhijāyati, yo ca puggalo sukko sukkābhijātiko sukkaṃ dhammaṃ abhijāyati, ime dve puggalā vāsanābhāgiyā. Ở đấy, hạng người đen, thuộc dòng dõi đen, tạo ra pháp trắng và hạng người trắng, thuộc dòng dõi trắng, tạo ra pháp trắng là hai hạng người liên quan đến huân tập. 
Tattha yo ca puggalo kaṇho kaṇhābhijātiko akaṇhaṃ asukkaṃ akaṇhaasukkavipākaṃ accantadiṭṭhaṃ nibbānaṃ ārādheti, yo ca puggalo sukko sukkābhijātiko akaṇhaṃ asukkaṃ akaṇhaasukkavipākaṃ accantadiṭṭhaṃ nibbānaṃ ārādheti, ime dve puggalā nibbedhabhāgiyā, idaṃ saṃkilesabhāgiyañca vāsanābhāgiyañca nibbedhabhāgiyañca suttaṃ.  Ở đấy, hạng người đen, thuộc dòng dõi đen, đạt đến mục đích tột cùng là Niết Bàn không đen không trắng, có quả thành tựu không đen không trắng, và hạng người trắng, thuộc dòng dõi trắng, đạt đến mục đích tột cùng là Niết Bàn không đen không trắng, có quả thành tựu không đen không trắng, là hai hạng người liên quan đến thấu triệt.”  Đây là kinh liên quan đến phiền não, liên quan đến huân tập, và liên quan đến thấu triệt. 
‘‘Cattārimāni, bhikkhave [passa a. ni. 4.232-233], kammāni. Katamāni cattāri? Atthi kammaṃ kaṇhaṃ kaṇhavipākaṃ, atthi kammaṃ sukkaṃ sukkavipākaṃ, atthi kammaṃ kaṇhasukkaṃ kaṇhasukkavipākaṃ, atthi kammaṃ akaṇhaṃ asukkaṃ akaṇhaasukkavipākaṃ kammuttamaṃ kammaseṭṭhaṃ kammakkhayāya saṃvattati’’. “Này các tỳ khưu, đây là bốn loại nghiệp. Bốn loại nào? Có nghiệp đen với quả thành tựu đen, có nghiệp trắng với quả thành tựu trắng, có nghiệp đen trắng với quả thành tựu đen trắng, có nghiệp không đen không trắng với quả thành tựu không đen không trắng là nghiệp tối thượng trong các nghiệp, hạng nhất trong các nghiệp, vận hành đưa đến sự diệt trừ nghiệp. 
Tattha yañca kammaṃ kaṇhaṃ kaṇhavipākaṃ, yañca kammaṃ kaṇhasukkaṃ kaṇhasukkavipākaṃ, ayaṃ saṃkileso. Yañca kammaṃ sukkaṃ sukkavipākaṃ, ayaṃ vāsanā. Yañca kammaṃ akaṇhaṃ asukkaṃ akaṇhaasukkavipākaṃ kammuttamaṃ kammaseṭṭhaṃ kammakkhayāya saṃvattati, ayaṃ nibbedho. Idaṃ saṃkilesabhāgiyañca vāsanābhāgiyañca nibbedhabhāgiyañca suttaṃ.  Ở đấy, nghiệp đen với quả thành tựu đen và nghiệp đen trắng với quả  thành tựu đen trắng là phiền não. Nghiệp trắng với quả thành tựu trắng là huân tập. Nghiệp không đen không trắng với quả thành tựu không đen không trắng là nghiệp tối thượng trong các nghiệp, tốt nhất trong các nghiệp, vận hành đưa đến sự diệt trừ nghiệp, điều này là thấu triệt.”  Đây là kinh liên quan đến phiền não, liên quan đến huân tập, và liên quan đến thấu triệt. 
111. Tattha katamaṃ vāsanābhāgiyañca, nibbedhabhāgiyañca suttaṃ? (10) Ở đấy, kinh liên quan đến huân tập và liên quan đến thấu triệt là kinh nào? 
‘‘Laddhāna mānusattaṃ dve, kiccaṃ akiccameva ca; Sukiccaṃ ceva puññāni, saṃyojanavippahānaṃ vā’’ti. 1. “Sau khi đạt được bản thể nhân loại, có hai việc là việc nên làm và việc không nên làm. Việc nên làm tốt đẹp là các việc phước thiện hoặc là việc lìa bỏ các mối ràng buộc.” 
‘‘Sukiccaṃ ceva puññānī’’ti vāsanā. ‘‘Saṃyojanavippahānaṃ vā’’ti nibbedho. ‘ Việc nên làm tốt đẹp là các việc phước thiện’ là huân tập; ‘ hoặc là việc lìa bỏ các sự ràng buộc’ là thấu triệt. 
‘‘Puññāni karitvāna, saggā saggaṃ vajanti katapuññā; Saṃyojanappahānā, jarāmaraṇā vippamuccantī’’ti. 2. “Sau khi làm các việc phước thiện, những người đã làm việc phước thiện đi từ cõi Trời đến cõi Trời. Những người có sự dứt bỏ các mối ràng buộc được giải thoát khỏi già và chết.” 
‘‘Puññāni karitvāna, saggā saggaṃ vajanti katapuññā’’ti vāsanā. ‘‘Saṃyojanappahānā jarāmaraṇā vippamuccantī’’ti nibbedho. Idaṃ vāsanābhāgiyañca nibbedhabhāgiyañca suttaṃ. ‘ Sau khi làm các việc phước thiện, những người đã làm việc phước thiện đi từ cõi Trời đến cõi Trời’ là huân tập; ‘ những người có sự dứt bỏ các mối ràng buộc được giải thoát khỏi già và chết’ là thấu triệt. Đây là kinh liên quan đến huân tập và liên quan đến thấu triệt. 
‘‘Dvemāni, bhikkhave, padhānāni [passa a. ni. 2.2]. Katamāni dve? Yo ca agārasmā anagāriyaṃ pabbajitesu cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ pariccajati, yo ca agārasmā anagāriyaṃ pabbajitesu sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbāna’’nti. Tattha yo agārasmā anagāriyaṃ pabbajitesu cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ pariccajati, ayaṃ vāsanā.  “Này các tỳ khưu, đây là hai việc nỗ lực. Hai việc nào? Việc một người xả thí y phục, đồ ăn khất thực, chỗ nằm ngồi, và vật dụng là thuốc men chữa bệnh ở các vị xuất gia rời nhà sống không nhà, và việc là sự buông bỏ  tất cả các mầm tái sanh, sự diệt trừ tham ái, sự lìa khỏi luyến ái, sự diệt tận, Niết Bàn ở các vị xuất gia rời nhà sống không nhà.”  Ở đấy, ‘ việc một người xả thí y phục, đồ ăn khất thực, chỗ nằm ngồi, và vật dụng là thuốc men chữa bệnh ở các vị xuất gia rời nhà sống không nhà’  là huân tập; ‘ 
Yo agārasmā anagāriyaṃ pabbajitesu sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhakkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ, ayaṃ nibbedho. Idaṃ vāsanābhāgiyañca nibbedhabhāgiyañca suttaṃ. việc là sự buông bỏ tất cả các mầm tái sanh, sự diệt trừ tham ái, sự lìa khỏi luyến ái, sự diệt tận, Niết Bàn ở các vị xuất gia rời nhà sống không nhà’ là thấu triệt. Đây là kinh liên quan đến huân tập và liên quan đến thấu triệt. 
Tattha taṇhāsaṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ taṇhāpakkheneva niddisitabbaṃ tīhi taṇhāhi – kāmataṇhāya bhavataṇhāya vibhavataṇhāya. Yena yena vā pana vatthunā ajjhositā, tena teneva niddisitabbaṃ, tassā vitthāro chattiṃsataṇhājāliniyāvicaritāni. Ở đấy, kinh liên quan đến phiền não tham ái nên được diễn giải chỉ với nhóm tham ái, với ba tham ái: với tham ái về dục, với tham ái về hữu, với tham ái về phi hữu, hoặc hơn nữa (tham ái) đã bám chặt vào bất cứ nền tảng nào thì nên diễn giải theo chính (nền tảng) ấy. Chi tiết của tham ái ấy là ba mươi sáu hành vi của mạng lưới tham ái. 
Tattha diṭṭhisaṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ diṭṭhipakkheneva niddisitabbaṃ ucchedasassatena, yena yena vā pana vatthunā diṭṭhivasena abhinivisati ‘‘idameva saccaṃ moghamañña’’nti, tena teneva niddisitabbaṃ, tassā vitthāro dvāsaṭṭhidiṭṭhigatāni. Ở đấy, kinh liên quan đến phiền não tà kiến nên được diễn giải chỉ với nhóm tà kiến, với đoạn kiến và thường kiến, hoặc hơn nữa chấp chặt vào bất cứ nền tảng nào do tác động của tà kiến (rằng): ‘ Chỉ điều này là chân lý, điều khác là rồ dại’ thì nên diễn giải theo chính (nền tảng) ấy. Chi tiết của tà kiến là sáu mươi hai tà kiến. 
Tattha duccaritasaṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ cetanāya cetasikakammena niddisitabbaṃ tīhi duccaritehi – kāyaduccaritena vacīduccaritena manoduccaritena, tassa vitthāro dasaakusalakammapathā. Ở đấy, kinh liên quan đến phiền não uế hạnh nên được diễn giải với việc làm của tư tâm sở, với ba uế hạnh: với uế hạnh về thân, với uế hạnh về khẩu, với uế hạnh về ý. Chi tiết của uế hạnh là mười đường lối hành động bất thiện. 
Tattha taṇhāvodānabhāgiyaṃ suttaṃ samathena niddisitabbaṃ, diṭṭhivodānabhāgiyaṃ suttaṃ vipassanā niddisitabbaṃ, duccaritavodānabhāgiyaṃ suttaṃ sucaritena niddisitabbaṃ. Tīṇi akusalamūlāni. Taṃ kissa hetu? Saṃsārassa nibbattiyā. Tathā nibbatte saṃsāre kāyaduccaritaṃ kāyasucaritaṃ vacīduccaritaṃ vacīsucaritaṃ manoduccaritaṃ manosucaritaṃ iminā asubhena kammavipākena idaṃ bālalakkhaṇaṃ nibbattatīti. Idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ. Ở đấy, kinh liên quan đến việc thanh lọc tham ái nên được diễn giải với chỉ tịnh. Kinh liên quan đến việc thanh lọc tà kiến nên được diễn giải với minh sát. Kinh liên quan đến việc thanh lọc uế hạnh nên được diễn giải với thiện hạnh. “Ba gốc rễ của bất thiện. Điều ấy có nguyên nhân là gì? Do sự vận hành của luân hồi, tương tự như thế khi luân hồi được vận hành, (thì có) uế hạnh về thân, thiện hạnh về thân, uế hạnh về khẩu, thiện hạnh về khẩu, uế hạnh về ý, thiện hạnh về ý.  Do quả thành tựu của nghiệp không trong sạch này, tướng trạng ngu này được sanh ra.”  Đây là kinh liên quan đến phiền não.
Iminā subhena kammavipākena idaṃ mahāpurisalakkhaṇaṃ nibbattatīti. Idaṃ vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ. “Do quả thành tựu của nghiệp trong sạch này, tướng trạng của bậc đại nhân này được sanh ra.”  Đây là kinh liên quan đến huân tập. 
Tattha saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ catūhi kilesabhūmīhi niddisitabbaṃ – anusayabhūmiyā pariyuṭṭhānabhūmiyā saṃyojanabhūmiyā upādānabhūmiyā. Sānusayassa pariyuṭṭhānaṃ jāyati, pariyuṭṭhito saṃyujjati, saṃyujjanto upādiyati, upādānapaccayā bhavo, bhavapaccayā jāti, jātipaccayā jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā sambhavanti, evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti. Imāhi catūhi kilesabhūmīhi sabbe kilesā saṅgahaṃ samosaraṇaṃ gacchanti, idaṃ saṃkilesabhāgiyaṃ suttaṃ.  Ở đấy, kinh liên quan đến phiền não nên được diễn giải với bốn lãnh vực của ô nhiễm: lãnh vực tiềm ẩn, lãnh vực xâm nhập, lãnh vực ràng buộc, lãnh vực chấp thủ. Đối với người có sự tiềm ẩn, sự xâm nhập được sanh ra; người bị xâm nhập thì bị ràng buộc; trong khi bị ràng buộc thì chấp thủ; do duyên chấp thủ, hữu (sanh khởi); do duyên hữu, sanh (sanh khởi); do duyên sanh, lão, tử, sầu-bi-khổ-ưu-não sanh khởi; như thế là sự sanh lên của toàn bộ khổ  uẩn này. Tất cả các ô nhiễm đi đến sự tổng hợp, sự hội tụ với bốn lãnh vực của ô nhiễm này.  Đây là kinh liên quan đến phiền não. 
Vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ tīhi sucaritehi niddisitabbaṃ, nibbedhabhāgiyaṃ suttaṃ catūhi saccehi niddisitabbaṃ, asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ tīhi dhammehi niddisitabbaṃ – buddhadhammehi paccekabuddhadhammehi sāvakabhūmiyā. Jhāyivisaye niddisitabbanti. Kinh liên quan đến huân tập nên được diễn giải với ba thiện hạnh. Kinh liên quan đến thấu triệt nên được diễn giải với bốn Chân Lý. Kinh liên quan đến bậc Vô Học nên được diễn giải với ba pháp: với các pháp của đức Phật, với các pháp của đức Phật Độc Giác, với lãnh vực của vị Thinh Văn thì nên được diễn giải ở lãnh vực của vị chứng thiền. 
112. Tattha katame aṭṭhārasa mūlapadā? Lokiyaṃ lokuttaraṃ lokiyañca lokuttarañca, sattādhiṭṭhānaṃ dhammādhiṭṭhānaṃ sattādhiṭṭhānañca dhammādhiṭṭhānañca, ñāṇaṃ ñeyyaṃ ñāṇañca ñeyyañca, dassanaṃ bhāvanā dassanañca bhāvanā ca, sakavacanaṃ paravacanaṃ sakavacanañca paravacanañca, visajjanīyaṃ avisajjanīyaṃ visajjanīyañca avisajjanīyañca, kammaṃ vipāko kammañca vipāko ca, kusalaṃ akusalaṃ kusalañca akusalañca, anuññātaṃ paṭikkhittaṃ anuññātañca paṭikkhittañca, thavo cāti.  Ở đấy, mười tám thuật ngữ căn bản là những gì? Hợp thế, xuất thế, hợp thế và xuất thế, xác định chúng sanh, xác định pháp, xác định chúng sanh và xác định pháp, sự biết (trí), điều-có-thể-biết, sự biết và điều-có-thể-biết, sự  thấy, sự tu tập, sự thấy và sự tu tập, lời nói của Ta, lời nói của vị khác, lời nói của Ta và lời nói của vị khác, điều có thể trả lời, điều không thể trả lời, điều có thể trả lời và điều không thể trả lời, nghiệp, quả thành tựu, nghiệp và quả  thành tựu, thiện, bất thiện, thiện và bất thiện, điều được cho phép, điều bị từ  khước, điều được cho phép và bị từ khước, và sự ca tụng. 
Tattha katamaṃ lokiyaṃ? (1) Ở đấy, cái nào là hợp thế? 
‘‘Na hi pāpaṃ kataṃ kammaṃ, sajjukhīraṃva muccati;  1. “Ví như sữa không trở chua ngay lập tức, nghiệp ác đã làm không trổ  quả liền liền, nó theo đuổi kẻ ngu, đốt nóng, ví như ngọn lửa đã được phủ  tro.”
Ḍahantaṃ [dahantaṃ (sī. ka.) passa dha. pa. 71] bālamanveti, bhasmacchannova [bhasmāchannova (ka.)] pāvakoti.  
Idaṃ lokiyaṃ. Cái này là hợp thế. 
‘‘Cattārimāni, bhikkhave, agatigamanāni sabbaṃ …pe… nihīyate tassa yaso kāḷapakkheva candimā’’ti. Idaṃ lokiyaṃ.  “Này các tỳ khưu, đây là bốn việc đi đến sự sai trái (toàn bộ) ―nt―  danh tiếng của vị ấy bị hủy hoại, ví như mặt trăng vào lúc hạ huyền.”  Cái này là hợp thế. 
‘‘Aṭṭhime, bhikkhave, lokadhammā [passa a. ni. 8.6]. Katame aṭṭha? Lābho alābho, yaso ayaso, nindā pasaṃsā, sukhaṃ dukkhaṃ. Ime kho, bhikkhave, aṭṭha lokadhammā’’ti. Idaṃ lokiyaṃ.  “Này các tỳ khưu, đây là tám pháp của thế gian? Tám pháp nào? Lợi lộc và không lợi lộc, không danh vọng và danh vọng, tiếng chê và lời khen, hạnh phúc và khổ đau. Này các tỳ khưu, đây là tám pháp của thế gian.”  Cái này là hợp thế. 
Tattha katamaṃ lokuttaraṃ? (2) Ở đấy, cái nào là xuất thế? 
‘‘Yassindriyāni samathaṅgatāni [samathaṃ gatāni (sī.) passa dha. pa. 94]; Assā yathā sārathinā sudantā;  2. “Vị nào có các giác quan đã đi đến sự vắng lặng, giống như những con ngựa đã khéo được huấn luyện bởi người đánh xe, có ngã mạn đã được dứt bỏ, không còn lậu hoặc, ngay cả chư Thiên cũng yêu mến vị có đức hạnh như thế ấy.”
Pahīnamānassa anāsavassa, devāpi tassa pihayanti tādino’’ti.  
Idaṃ lokuttaraṃ. Cái này là xuất thế. 
‘‘Pañcimāni, bhikkhave, indriyāni lokuttarāni. Katamāni pañca? Saddhindriyaṃ vīriyindriyaṃ satindriyaṃ samādhindriyaṃ paññindriyaṃ. Imāni kho, bhikkhave, pañcindriyāni lokuttarānī’’ti. Idaṃ lokuttaraṃ.  “Này các tỳ khưu, đây là năm quyền xuất thế gian. Năm quyền nào? Tín quyền, tấn quyền, niệm quyền, định quyền, tuệ quyền. Này các tỳ khưu, đây là năm quyền xuất thế gian.”  Cái này là xuất thế. 
Tattha katamaṃ lokiyañca lokuttarañca? (3) Ở đấy, cái nào là hợp thế và xuất thế? 
‘‘Laddhāna mānusattaṃ dve, kiccaṃ akiccameva cā’’ti dve gāthā. Yaṃ iha ‘‘sukiccaṃ ceva puññānī’’ti ca ‘‘puññāni karitvāna, saggā saggaṃ vajanti katapuññā’’ti ca. Idaṃ lokiyaṃ.  Hai câu kệ: “Sau khi đạt được bản thể nhân loại, có hai việc là việc nên làm và việc không nên làm.” Ở đây, ‘ việc nên làm tốt đẹp là các việc phước thiện’ và ‘ sau khi làm các việc phước thiện, những người đã làm việc phước thiện đi từ cõi Trời đến cõi Trời’ là hợp thế.
Yaṃ iha ‘‘saṃyojanavippahānaṃ vā’’ti ca ‘‘saṃyojanappahānā, jarāmaraṇā vippamuccantī’’ti ca, idaṃ lokuttaraṃ. Idaṃ lokiyañca lokuttarañca. Ở đây, ‘ hoặc là việc lìa bỏ các sự  ràng buộc’ và ‘ những người có sự dứt bỏ các mối ràng buộc được giải thoát khỏi già và chết’ là xuất thế.  Cái này là hợp thế và xuất thế. 
‘‘Viññāṇe ce, bhikkhave, āhāre sati nāmarūpassa avakkanti hoti, nāmarūpassa avakkantiyā sati punabbhavo hoti, punabbhave sati jāti hoti, jātiyā sati jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā sambhavanti. Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti. Seyyathāpi, bhikkhave [passa saṃ. ni. 2.55], mahārukkho, tassa yāni ceva mūlāni adhogamāni yāni ca tiriyaṃ gamāni, sabbāni tāni uddhaṃ ojaṃ abhiharanti. Evaṃ hi so, bhikkhave, mahārukkho tadāhāro tadupādāno ciraṃ dīghamaddhānaṃ tiṭṭheyya. Evameva kho, bhikkhave, viññāṇe āhāre sati nāmarūpassa avakkanti hoti sabbaṃ …pe… evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hotī’’ti. Idaṃ lokiyaṃ.  “Này các tỳ khưu, bởi vì khi có thức là yếu tố nuôi dưỡng thì có sự hình thành của danh sắc, khi có sự hình thành của danh sắc thì có sự hiện hữu lại nữa, khi có sự hiện hữu lại nữa thì có sự sanh ra, khi có sự sanh ra thì lão, tử, sầu-bi-khổ-ưu-não sanh khởi; như thế là sự sanh lên của toàn bộ  khổ uẩn này. Này các tỳ khưu, cũng giống như cái cây lớn, tất cả các rễ của nó, những cái đâm xuống luôn cả những cái đâm ngang, đều đưa dưỡng chất lên trên. Bởi vì như vậy, này các tỳ khưu, cái cây lớn ấy, với chất ấy là yếu tố nuôi dưỡng, với chất ấy là nguồn cấp dưỡng, có thể tồn tại một thời gian lâu dài. Tương tự y như vậy, này các tỳ khưu, khi có thức là yếu tố  nuôi dưỡng thì có sự hình thành của danh sắc, (toàn bộ) ―nt― như thế là sự sanh lên của toàn bộ khổ uẩn này.”  Cái này là hợp thế. 
‘‘Viññāṇe ce, bhikkhave, āhāre asati nāmarūpassa avakkanti na hoti, nāmarūpassa avakkantiyā asati punabbhavo na hoti, punabbhave asati jāti na hoti, jātiyā asati jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā nirujjhanti. Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hoti. Seyyathāpi, bhikkhave, mahārukkho atha puriso āgaccheyya kuddālapiṭakaṃ [kudālapiṭakaṃ (ka.)] ādāya, so taṃ rukkhaṃ mūle chindeyya, mūle [mūlaṃ (saṃ. ni. 2.55)] chetvā palikhaṇeyya, palikhaṇitvā mūlāni uddhareyya antamaso usīranāḷimattānipi. So taṃ rukkhaṃ khaṇḍākhaṇḍikaṃ chindeyya, khaṇḍākhaṇḍikaṃ chinditvā [chitvā (sī. ka.)] phāleyya, phāletvā sakalikaṃ sakalikaṃ kareyya, sakalikaṃ sakalikaṃ karitvā vātātape visoseyya, vātātape visosetvā agginā ḍaheyya, agginā ḍahetvā masiṃ kareyya, masiṃ karitvā mahāvāte vā ophuneyya, nadiyā vā sīghasotāya pavāheyya, evaṃ hi so, bhikkhave, mahārukkho ucchinnamūlo assa tālāvatthukato anabhāvaṃkato [anabhāvaṃgato (sī.)] āyatiṃ anuppādadhammo. Evameva kho, bhikkhave, viññāṇe āhāre asati nāmarūpassa avakkanti na hoti, nāmarūpassa avakkantiyā asati sabbaṃ …pe… evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hotī’’ti. Idaṃ lokuttaraṃ. Idaṃ lokiyañca lokuttarañca.  “Này các tỳ khưu, nếu thức không là yếu tố nuôi dưỡng thì không có sự  hình thành của danh sắc, khi không có sự hình thành của danh sắc thì không có sự hiện hữu lại nữa, khi không có sự hiện hữu lại nữa thì không có sự sanh ra, khi không có sự sanh ra thì lão, tử, sầu-bi-khổ-ưu-não được diệt tận; như thế là sự diệt tận của toàn bộ khổ uẩn này. Này các tỳ khưu, cũng giống như cái cây lớn, rồi có người đi đến, mang theo cuốc và giỏ.  Người ấy chặt cây ấy ở rễ, sau khi chặt ở rễ rồi đào lên, sau khi đào lên rồi nhổ lên các rễ, thậm chí các rễ phụ và rễ con. Người ấy chặt cây ấy thành khúc, sau khi chặt thành khúc rồi chẻ ra, sau khi chẻ ra rồi làm thành từng miếng, sau khi làm thành miếng rồi phơi ở nơi có gió và nắng, sau khi phơi ở nơi có gió và nắng, rồi đốt bằng lửa, sau khi đốt bằng lửa rồi làm thành tro, sau khi làm thành tro rồi sàng sảy ở gió lớn hoặc để cho cuốn đi ở dòng nước chảy xiết.―   ― Này các tỳ khưu, như vậy cái cây lớn ấy là có rễ đã bị cắt lìa, như cây thốt-nốt đã bị cụt ngọn, đã đi đến trạng thái không còn hiện hữu, không còn điều kiện sanh khởi trong tương lai. Tương tự y như vậy, này các tỳ khưu, khi thức không là yếu tố nuôi dưỡng thì không có sự hình thành của danh sắc, khi không có sự hình thành của danh sắc (toàn bộ) ―nt― như thế là sự  sanh lên của toàn bộ khổ uẩn này.”  Cái này là xuất thế.  Cái này là hợp thế và xuất thế. 
113. Tattha katamaṃ sattādhiṭṭhānaṃ? (4) Ở đấy, cái nào là xác định chúng sanh? 
‘‘Sabbā disā anuparigamma cetasā, nevajjhagā piyataramattanā kvaci;  3. “Sau khi đi vòng quanh tất cả các phương bằng tâm, vẫn không đạt được người đáng yêu hơn bản thân ở bất cứ đâu. Tương tự như vậy, bản thân của những người khác là đáng yêu đối với chính họ; vì thế người yêu mến bản thân không nên hãm hại người khác.”
Evaṃ piyo puthu attā paresaṃ, tasmā na hiṃse paramattakāmo’’ti [paraṃ attakāmoti (sī.) saṃ. ni. 1.119; udā. 41 passitabbaṃ].  
Idaṃ sattādhiṭṭhānaṃ. Đây là xác định chúng sanh. 
‘‘Ye keci bhūtā bhavissanti ye vāpi [ca (sī. ka.) passa udā. 42], sabbe gamissanti pahāya dehaṃ;  4. “Tất cả mọi loài đã được sanh hoặc sẽ được sanh ra, tất cả sẽ ra đi sau khi buông bỏ thân xác. 
Taṃ sabbajāniṃ kusalo viditvā, ātāpiyo [ātāpī so (sī. ka.) passa udā. 42] brahmacariyaṃ careyyā’’ti. Sau khi biết được mọi sự mất mát ấy, bậc thiện xảo có nhiệt tâm ấy nên thực hành Phạm hạnh.”
Idaṃ sattādhiṭṭhānaṃ. Đây là xác định chúng sanh. 
‘‘Sattahi, bhikkhave, aṅgehi samannāgataṃ kalyāṇamittaṃ api viveciyamānena paṇāmiyamānena gale pisanamajjamānena [galepi pamajjamānena (sī.)] yāvajīvaṃ na vijahitabbaṃ. Katamehi sattahi? Piyo ca hoti manāpo ca garu ca bhāvanīyo ca vattā ca vacanakkhamo ca gambhīrañca kathaṃ kattā hoti, no ca aṭṭhāne [na ca aṭṭhāne (sī. ka.) passa a. ni. 7.37] niyojeti. Imehi kho, bhikkhave, sattahi …pe… na vijahitabbaṃ. Idamavoca bhagavā, idaṃ vatvāna sugato. Athāparaṃ etadavoca satthā –  “Này các tỳ khưu, cho đến trọn đời không nên rời bỏ người bạn tốt được thành tựu với bảy yếu tố, thậm chí bị tẩy chay, bị hất hủi, thậm chí bị  lôi cổ đuổi ra. Với bảy yếu tố nào? Là vị đáng yêu, đáng kính, đáng trọng, là vị diễn giả, có sự nhẫn nại với lời nói, là vị thuyết giảng sâu sắc, và không xúi giục làm công việc không hợp lý. Này các tỳ khưu, không nên rời bỏ ―nt― với bảy yếu tố này. Đức Thế Tôn đã nói điều này. Sau khi nói điều này, đấng Thiện Thệ, bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: 
‘‘Piyo garu bhāvanīyo, vattā ca vacanakkhamo; ‘ Vị đáng yêu và đáng kính, đáng trọng, vị diễn giả, và có sự nhẫn nại với lời nói, là vị thuyết giảng sâu sắc, và không xúi giục làm công việc không hợp lý.
Gambhīrañca kathaṃ kattā, na caṭṭhāne niyojako;  
Taṃ mittaṃ mittakāmena, yāvajīvampi seviya’’nti. Người mong muốn bạn bè nên phục vụ người bạn ấy cho đến trọn đời.’” 
Idaṃ sattādhiṭṭhānaṃ. Đây là xác định chúng sanh. 
Tattha katamaṃ dhammādhiṭṭhānaṃ? (5) Ở đấy, cái nào là xác định pháp? 
‘‘Yañca kāmasukhaṃ loke, yañcidaṃ diviyaṃ sukhaṃ; 6. “Khoái lạc ngũ dục nào ở thế gian, và sự an lạc nào thuộc cõi Trời, các điều này có mười sáu phần không giá trị bằng (một phần) an lạc của sự  diệt tận tham ái.”
Taṇhakkhayasukhassete [taṇhakkhayā sukhassete (sī.) passa udā. 12], kalaṃ nāgghanti soḷasi’’nti.  
Idaṃ dhammādhiṭṭhānaṃ. Đây là xác định pháp. 
‘‘Susukhaṃ [passa theragā. 227] vata nibbānaṃ, sammāsambuddhadesitaṃ; Asokaṃ virajaṃ khemaṃ, yattha dukkhaṃ nirujjhatī’’ti. 7. “Niết Bàn được chỉ bảo bởi đấng Chánh Đẳng Giác quả thật là vô cùng an lạc, không sầu muộn, xa lìa bợn nhơ, được an ổn, là nơi khổ đau được diệt tận.” 
Idaṃ dhammādhiṭṭhānaṃ. Đây là xác định pháp. 
Tattha katamaṃ sattādhiṭṭhānañca dhammādhiṭṭhānañca (6) Ở đấy, cái nào là xác định chúng sanh và xác định pháp? 
‘‘Mātaraṃ pitaraṃ hantvā, rājāno dve ca khattiye; Raṭṭhaṃ sānucaraṃ hantvā’’ti idaṃ dhammādhiṭṭhānaṃ. 8. “Sau khi giết mẹ và cha, và hai vị vua dòng Sát-đế-lỵ, sau khi tiêu diệt vương quốc cùng quan lại tùy tùng, …” Đây là xác định pháp. 
‘‘Anīgho yāti brāhmaṇo’’ti; Idaṃ sattādhiṭṭhānaṃ;  “… vị Bà-la-môn ra đi không phiền muộn.” Đây là xác định chúng sanh. 
Idaṃ sattādhiṭṭhānañca dhammādhiṭṭhānañca. Đây là xác định chúng sanh và xác định pháp. 
‘‘Cattārome, bhikkhave, iddhipādā [passa iddhipādasaṃyutte]. Katame cattāro? Chandasamādhipadhānasaṅkhārasamannāgato iddhipādo, vīriya …pe… citta. Vīmaṃsāsamādhipadhānasaṅkhārasamannāgato iddhipādo’’ti. Idaṃ dhammādhiṭṭhānaṃ.  “Này các tỳ khưu, đây là bốn nền tảng của thần thông. Bốn nền tảng nào? Nền tảng của thần thông hội đủ (các yếu tố) định do ước muốn và các tạo tác do nỗ lực, ―nt― do tinh tấn ―nt― do tâm ―nt―, nền tảng của thần thông hội đủ (các yếu tố) định do thẩm xét và các tạo tác do nỗ lực.”  Đây là xác định pháp. 
So kāyepi cittaṃ samodahati, cittepi kāyaṃ samodahati, kāye sukhasaññañca lahusaññañca okkamitvā upasampajja viharati. Idaṃ sattādhiṭṭhānaṃ, idaṃ sattādhiṭṭhānañca dhammādhiṭṭhānañca.  “Vị ấy kết hợp tâm với thân, kết hợp thân với tâm. Sau khi tiến vào lạc tưởng và khinh tưởng ở thân, vị ấy thể nhập và an trú.”  Đây là xác định chúng sanh.  Đây là xác định chúng sanh và xác định pháp. 
114. Tattha katamaṃ ñāṇaṃ? (7) Ở đấy, sự biết (trí) là gì? 
‘‘Yaṃ taṃ lokuttaraṃ ñāṇaṃ, sabbaññū yena vuccati; Na tassa parihānatthi, sabbakāle pavattatī’’ti.  9. “Trí vượt trội thế gian ấy gọi là Toàn Tri.  Không có sự suy giảm đối với nó. Nó vận hành vào mọi lúc.” 
Idaṃ ñāṇaṃ. Đây là sự biết. 
‘‘Paññā hi seṭṭhā lokasmiṃ, yāyaṃ nibbānagāminī [nibbedhagāminī (itivu. 41)]; Yāya sammā pajānāti, jātimaraṇasaṅkhaya’’nti. 10. “Bởi vì tuệ là hạng nhất ở thế gian, cái này dẫn đến Niết Bàn, nhờ nó mà nhận biết đúng đắn sự diệt trừ hoàn toàn của sanh và tử.” 2 
Idaṃ ñāṇaṃ. Đây là sự biết. 
Tattha katamaṃ ñeyyaṃ? (8) Ở đấy, điều-có-thể-biết là gì? 
‘‘Kittayissāmi te [vo (sī. ka.) passa su. ni. 1072] santiṃ, [dhotakāti bhagavā,] Diṭṭhe dhamme anītihaṃ; 11. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) Ta sẽ giải bày cho ngươi về sự an tịnh, tự mình chứng ngộ, không phải do nghe nói lại; sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.” 3 
Yaṃ viditvā sato caraṃ, tare loke visattikaṃ.  
‘‘Tañcāhaṃ abhinandāmi, mahesi santimuttamaṃ; 12. (Tôn giả Dhotaka nói:) “Thưa bậc đại ẩn sĩ, con thích thú sự an tịnh tối thượng ấy; sau khi hiểu pháp ấy, có niệm, trong khi sống, con có thể  vượt qua sự vướng mắc này ở thế gian.” 
Yaṃ viditvā sato caraṃ, tare loke visattikaṃ.  
‘‘Yaṃ kiñci sampajānāsi, [dhotakāti bhagavā] 13. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) bất cứ điều gì mà ngươi tự mình nhận biết, ở bên trên, bên dưới, luôn cả chiều ngang và khoảng giữa, sau khi hiểu điều này là ‘sự quyến luyến’ ở thế gian, ngươi chớ tạo ra tham ái ở  hữu và phi hữu.”
Uddhaṃ adho tiriyañcāpi majjhe;  
Etaṃ viditvā saṅgoti loke,  
Bhavābhavāya mākāsi taṇha’’nti.  
Idaṃ ñeyyaṃ. Đây là điều-có-thể-biết. 
‘‘Catunnaṃ, bhikkhave, ariyasaccānaṃ ananubodhā appaṭivedhā evamidaṃ dīghamaddhānaṃ sandhāvitaṃ saṃsaritaṃ mamañceva tumhākañca …pe… tayidaṃ, bhikkhave, dukkhaṃ ariyasaccaṃ anubuddhaṃ paṭividdhaṃ, dukkhasamudayaṃ [dukkhasamudayo (sī. ka.) passa dī. ni. 2.155] ariyasaccaṃ anubuddhaṃ paṭividdhaṃ, dukkhanirodhaṃ [dukkhanirodho (sī. ka.)] ariyasaccaṃ anubuddhaṃ paṭividdhaṃ, dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ anubuddhaṃ paṭividdhaṃ. Ucchinnā bhavataṇhā, khīṇā bhavanetti, natthi dāni punabbhavo’’ti. Idamavoca bhagavā, idaṃ vatvāna sugato, athāparaṃ etadavoca satthā –  “Này các tỳ khưu, do không giác ngộ, do không thấu triệt bốn Chân Lý Cao Thượng mà Ta và các ngươi đã rong ruổi, đã luân chuyển một thời gian dài như thế này. Này các tỳ khưu, Chân Lý Cao Thượng về Khổ này đây đã được giác ngộ đã được thấu triệt, Chân Lý Cao Thượng về nhân sanh Khổ đã được giác ngộ đã được thấu triệt, Chân Lý Cao Thượng về sự  diệt tận Khổ đã được giác ngộ đã được thấu triệt, Chân Lý Cao Thượng về  sự thực hành đưa đến sự diệt tận Khổ đã được giác ngộ đã được thấu triệt.  Tham ái về hữu đã được trừ tuyệt, lối dẫn đến hữu đã được cạn kiệt, giờ  đây không còn sự hiện hữu lại nữa.” Đức Thế Tôn đã nói điều này. Sau khi nói điều này, đấng Thiện Thệ, bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: 14. “Do không nhìn thấy bốn Chân Lý Cao Thượng đúng theo thực thể, nên đã bị luân hồi một thời gian dài ở những kiếp sống này khác. 
‘‘Catunnaṃ ariyasaccānaṃ, yathābhūtaṃ adassanā;  
Saṃsitaṃ [saṃsaritaṃ (sī.)] dīghamaddhānaṃ, tāsu tāsveva jātisu.  
‘‘Tāni etāni diṭṭhāni, bhavanetti samūhatā;  15. Những (Chân Lý) này đây đã được nhìn thấy, lối dẫn đến hữu đã được bứng lên, gốc rễ của khổ đã được trừ tuyệt, giờ đây không còn sự  hiện hữu lại nữa.”
Ucchinnaṃ mūlaṃ dukkhassa, natthi dāni punabbhavo’’ti.  
Idaṃ ñeyyaṃ. Đây là điều-có-thể-biết. 
Tattha katamaṃ ñāṇañca ñeyyañca? Rūpaṃ aniccaṃ, vedanā aniccā, saññā aniccā, saṅkhārā aniccā, viññāṇaṃ aniccanti. Idaṃ ñeyyaṃ.  (9) Ở đấy, sự biết và điều-có-thể-biết là gì?  “Sắc là vô thường, thọ là vô thường, tưởng là vô thường, các hành là vô thường, thức là vô thường.” Đây là điều-có-thể-biết. 
Evaṃ jānaṃ evaṃ passaṃ ariyasāvako ‘‘rūpaṃ anicca’’nti passati, ‘‘vedanā aniccā’’ti passati, ‘‘saññaṃ …pe… saṅkhāre …pe… viññāṇaṃ anicca’’nti passatīti. Idaṃ ñāṇaṃ.  “Trong khi biết như vậy, trong khi thấy như vậy, vị Thánh Thinh Văn nhìn thấy ‘sắc là vô thường,’ nhìn thấy ‘thọ là vô thường,’ nhìn thấy ‘tưởng  ―nt― ‘các hành ―nt― ‘thức là vô thường.’” Đây là sự biết. 
So parimuccati rūpena, parimuccati vedanāya, parimuccati saññāya, parimuccati saṅkhārehi, parimuccati viññāṇamhā, parimuccati dukkhasmāti vadāmīti. Idaṃ ñāṇañca ñeyyañca.  “Ta nói rằng: ‘Vị ấy được hoàn toàn giải thoát khỏi sắc, được hoàn toàn giải thoát khỏi thọ, được hoàn toàn giải thoát khỏi tưởng, được hoàn toàn giải thoát khỏi các hành, được hoàn toàn giải thoát khỏi thức, được hoàn toàn giải thoát khỏi khổ.’”  Đây là sự biết và điều-có-thể-biết. 
‘‘Sabbe saṅkhārā aniccā’’ti idaṃ ñeyyaṃ. ‘‘Yadā paññāya passatī’’ti idaṃ ñāṇaṃ. ‘‘Atha nibbindati dukkhe esa maggo visuddhiyā’’ti idaṃ ñāṇañca ñeyyañca. “Tất cả các hành là vô thường.” Đây là điều-có-thể-biết.  “Khi nào nhìn thấy bằng tuệ.” Đây là sự biết. “Thì nhàm chán khổ, đây là con đường đưa đến sự thanh tịnh.” Đây là sự biết và điều-có-thể-biết. 
‘‘Sabbe saṅkhārā dukkhā’’ti idaṃ ñeyyaṃ. ‘‘Yadā paññāya passatī’’ti idaṃ ñāṇaṃ. ‘‘Atha nibbindati dukkhe esa maggo visuddhiyā’’ti idaṃ ñāṇañca ñeyyañca. “Tất cả các hành là khổ.” ―nt― 
‘‘Sabbe dhammā anattā’’ti idaṃ ñeyyaṃ. ‘‘Yadā paññāya passatī’’ti idaṃ ñāṇaṃ. ‘‘Atha nibbindati dukkhe esa maggo visuddhiyā’’ti idaṃ ñāṇañca ñeyyañca.  “Tất cả các pháp là vô ngã.” Đây là điều-có-thể-biết.  “Khi nào nhìn thấy bằng tuệ.” Đây là sự biết.  “Thì nhàm chán khổ, đây là con đường đưa đến sự thanh tịnh.” Đây là sự biết và điều-có-thể-biết. 
‘‘Ye hi keci, soṇa [passa saṃ. ni. 3.49], samaṇā vā brāhmaṇā vā aniccena rūpena dukkhena vipariṇāmadhammena ‘seyyohamasmī’ti vā samanupassanti, ‘sadisohamasmī’ti vā samanupassanti, ‘hīnohamasmī’ti vā samanupassanti. Kimaññatra yathābhūtassa adassanā. Aniccāya vedanāya …pe… aniccāya saññāya …pe… aniccehi saṅkhārehi …pe… aniccena viññāṇena dukkhena vipariṇāmadhammena ‘seyyohamasmī’ti vā samanupassanti, ‘sadisohamasmī’ti vā samanupassanti, ‘hīnohamasmī’ti vā samanupassanti, kimaññatra yathābhūtassa adassanā’’ti. Idaṃ ñeyyaṃ. “Này Soṇa, bất cứ những Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào nhận thấy: ‘Tôi là tốt hơn,’ hoặc nhận thấy: ‘Tôi là ngang bằng,’ hoặc nhận thấy: ‘Tôi là thua kém’ về sắc―là pháp vô thường, khổ, có trạng thái biến đổi, thì còn có lý do nào khác hơn là do không nhìn thấy đúng theo thực thể? Nhận thấy:  ‘Tôi là tốt hơn,’ hoặc nhận thấy: ‘Tôi là ngang bằng,’ hoặc nhận thấy: ‘Tôi là thua kém’ về thọ―là pháp vô thường, ―nt― về tưởng―là pháp vô thường,  ―nt― về các hành―là pháp vô thường, ―nt― về thức―là pháp vô thường, khổ, có trạng thái biến đổi, thì còn có lý do nào khác hơn là do không nhìn thấy đúng theo thực thể? ” Đây là điều-có-thể-biết. 
‘‘Ye ca kho keci, soṇa, samaṇā vā brāhmaṇā vā aniccena rūpena dukkhena vipariṇāmadhammena ‘seyyohamasmī’tipi na samanupassanti, ‘sadisohamasmī’tipi na samanupassanti, ‘hīnohamasmī’tipi na samanupassanti, kimaññatra yathābhūtassa dassanā. Aniccāya vedanāya …pe… aniccāya saññāya …pe… aniccehi saṅkhārehi …pe… aniccena viññāṇena dukkhena vipariṇāmadhammena ‘seyyohamasmī’tipi na samanupassanti, ‘sadisohamasmī’tipi na samanupassanti, ‘hīnohamasmī’tipi na samanupassanti, kimaññatra yathābhūtassa dassanāti. Idaṃ ñāṇaṃ. “Và này Soṇa, bất cứ những Sa-môn hoặc Bà-la-môn nào không nhận thấy: ‘Tôi là tốt hơn,’ không nhận thấy: ‘Tôi là ngang bằng,’ không nhận thấy: ‘Tôi là thua kém’ về sắc―là pháp vô thường, khổ, có trạng thái biến đổi, thì còn có lý do nào khác hơn là do nhìn thấy đúng theo thực thể?  Không nhận thấy: ‘Tôi là tốt hơn,’ không nhận thấy: ‘Tôi là ngang bằng,’  không nhận thấy: ‘Tôi là thua kém’ về thọ―là pháp vô thường, ―nt― về  tưởng―là pháp vô thường, ―nt― về các hành―là pháp vô thường, ―nt―  về thức―là pháp vô thường, khổ, có trạng thái biến đổi, thì còn có lý do nào khác hơn là do nhìn thấy đúng theo thực thể? ” Đây là sự biết. 
Idaṃ ñāṇañca ñeyyañca. Đây là sự biết và điều-có-thể-biết. 
Tattha katamaṃ dassanaṃ? (10) Ở đấy, sự thấy là gì? 
115. ‘‘Ye ariyasaccāni vibhāvayanti, gambhīrapaññena sudesitāni; 16. “Các vị nào hiểu rõ về bốn Chân Lý Cao Thượng đã khéo được chỉ bảo bởi vị có tuệ thâm sâu,  dầu cho các vị ấy thường xuyên bị xao lãng,  các vị ấy cũng không nhận lấy kiếp sống thứ tám.” 
Kiñcāpi te honti bhusaṃ pamattā [bhusappamattā (sī.) passa khu. pā. 609], na te bhavaṃ aṭṭhamamādiyantī’’ti.  
Idaṃ dassanaṃ. Đây là sự thấy. 
‘‘Yathindakhīlo pathavissito siyā, catubbhi vātehi asampakampiyo; Tathūpamaṃ sappurisaṃ vadāmi, yo ariyasaccāni avecca passatī’’ti. 17. “Giống như cột trụ đá được nương vào lòng đất, sẽ không bị lay động bởi các cơn gió từ bốn phương, với sự so sánh như thế Ta nói về bậc chân nhân, là vị nào nhìn thấy rõ ràng bốn Chân Lý Cao Thượng.” 
Idaṃ dassanaṃ. Đây là sự thấy. 
‘‘Catūhi, bhikkhave, sotāpattiyaṅgehi samannāgato ariyasāvako ākaṅkhamāno attanāva attānaṃ byākareyya ‘khīṇanirayomhi, khīṇatiracchānayoni, khīṇapettivisayo, khīṇāpāyaduggativinipāto, sotāpannohamasmi avinipātadhammo niyato sambodhiparāyaṇo, sattakkhattuparamaṃ [sattakkhattuparamo (sī.)] deve ca manusse ca sandhāvitvā saṃsaritvā dukkhassantaṃ karissāmī’ti.   “Này các tỳ khưu, được thành tựu với bốn yếu tố của vị Nhập Lưu, vị  Thánh Thinh Văn, trong khi mong muốn, có thể tự chính mình tuyên bố về  bản thân rằng: ‘Tôi đã cạn kiệt về địa ngục, đã cạn kiệt về loài thú, đã cạn kiệt về thân phận ngạ quỷ, đã cạn kiệt về đọa xứ, khổ cảnh, nơi trừng phạt, tôi là vị Nhập Lưu, có pháp không bị thối đọa, đã được chắc chắn, có sự  giác ngộ là đích đến, sau khi rong ruổi, sau khi luân hồi ở cõi Trời và cõi người tối đa bảy lần, tôi sẽ thực hiện việc chấm dứt khổ đau.’
Katamehi catūhi? Idha, bhikkhave, ariyasāvakassa tathāgate saddhā niviṭṭhā patiṭṭhitā virūḷhā mūlajātā asaṃhāriyā samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmiṃ saha dhammena, dhamme kho pana niṭṭhaṃ gato hoti, svākkhāto bhagavatā dhammo sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhi, yadidaṃ madanimmadano …pe… nirodho nibbānaṃ,  Với bốn yếu tố nào?  Ở đây, này các tỳ khưu, niềm tin vào đức Như Lai của vị Thánh Thinh Văn là đã được gầy dựng, đã được thiết lập, đã được lớn mạnh, đã được mọc rễ, không thể bị lấy đi bởi vị Sa-môn, bởi vị Bà-la- môn, bởi Thiên nhân, bởi Ma Vương, bởi Phạm Thiên, hoặc bởi bất cứ ai ở thế gian có cùng tính chất. Hơn nữa, vị ấy đã đi đến sự hoàn thành trong Giáo Pháp rằng: ‘Pháp của đức Thế Tôn đã khéo được thuyết giảng, có thể thấy được bởi tự thân, không bị chi phối bởi thời gian, hãy đến và hãy thấy, có khả  năng dẫn dắt về hướng (Niết-bàn), và có thể được hiểu biết tự cá nhân bởi các bậc trí tuệ,’ tức là sự nghiền nát say đắm ―nt― sự diệt tận, Niết Bàn. 
saha dhammiyā kho panassa honti iṭṭhā kantā piyā manāpā gihī ceva pabbajitā ca. Ariyakantehi kho pana sīlehi samannāgato hoti akhaṇḍehi acchiddehi asabalehi akammāsehi bhujissehi viññuppasaṭṭhehi aparāmaṭṭhehi samādhisaṃvattanikehi. Imehi kho, bhikkhave, catūhi sotāpattiyaṅgehi samannāgato ariyasāvako ākaṅkhamāno attanāva attānaṃ byākareyya ‘khīṇanirayomhi, khīṇatiracchānayoni, khīṇapettivisayo, khīṇāpāyaduggativinipāto, sotāpannohamasmi avinipātadhammo niyato sambodhiparāyaṇo, sattakkhattuparamaṃ deve ca manusse ca sandhāvitvā saṃsaritvā dukkhassantaṃ karissāmī’’’ti. Hơn nữa, đối với vị này, các bậc đồng Phạm hạnh, tại gia và xuất gia, là được mong, được muốn, được yêu, được mến. Hơn nữa, vị này là được thành tựu với các giới được yêu quý bởi các bậc Thánh, không bị bể vỡ, không bị sứt mẻ, không lấm nhơ, không khuyết điểm, được tự tại, được các bậc trí ngợi khen, không bị hoen ố, đưa đến thiền định. Này các tỳ khưu, được thành tựu với bốn yếu tố này của vị Nhập Lưu, vị Thánh Thinh Văn, trong khi mong muốn, có thể tự chính mình tuyên bố về bản thân rằng: ‘Tôi đã cạn kiệt về địa ngục, đã cạn kiệt về loài thú, đã cạn kiệt về thân phận ngạ quỷ, đã cạn kiệt về đọa xứ, khổ cảnh, nơi trừng phạt, tôi là vị Nhập Lưu, có pháp không bị thối đọa, đã được chắc chắn, có sự giác ngộ là đích đến, sau khi rong ruổi, sau khi luân hồi ở cõi Trời và cõi người tối đa bảy lần, tôi sẽ thực hiện việc chấm dứt khổ đau.’” 
Idaṃ dassanaṃ. Đây là sự thấy. 
Tattha katamā bhāvanā? (11) Ở đấy, sự tu tập là gì? 
‘‘Yassindriyāni bhāvitāni [subhāvitāni (sī. ka.) passa su. ni. 512], ajjhattaṃ bahiddhā ca sabbaloke;  18. “Vị nào có các giác quan đã khéo được tu tập, ở nội phần và ở ngoại phần, ở toàn thể thế gian, sau khi thấu triệt đời này và đời sau,  vị đã được tu tập chờ đợi thời điểm, vị ấy là ‘đã được huấn luyện.’” 
Nibbijjha imaṃ parañca lokaṃ, kālaṃ kaṅkhati bhāvito sadanto’’ti.  
Ayaṃ bhāvanā. Đây là sự tu tập. 
‘‘Cattārimāni, bhikkhave, dhammapadāni [passa a. ni. 4.29]. Katamāni cattāri? Anabhijjhā dhammapadaṃ, abyāpādo dhammapadaṃ, sammāsati dhammapadaṃ, sammāsamādhi dhammapadaṃ, imāni kho, bhikkhave, cattāri dhammapadānī’’ti. Ayaṃ bhāvanā.  “Này các tỳ khưu, đây là bốn cơ sở của Giáo Pháp. Bốn cơ sở nào?  Không tham đắm là cơ sở của Giáo Pháp, không sân hận là cơ sở của Giáo Pháp, chánh niệm là cơ sở của Giáo Pháp, chánh định là cơ sở của Giáo Pháp. Này các tỳ khưu, đây là bốn cơ sở của Giáo Pháp.” Đây là sự tu tập. 
Tattha katamaṃ dassanañca bhāvanā ca? ‘‘Pañca chinde pañca jahe’’ti idaṃ dassanaṃ. ‘‘Pañca cuttari bhāvaye. Pañca saṅgātigo bhikkhu, oghatiṇṇoti vuccatī’’ti ayaṃ bhāvanā. Idaṃ dassanañca bhāvanā ca.  (12) Ở đấy, sự thấy và sự tu tập là gì?   ‘ Nên chặt đứt năm, nên từ bỏ năm.’ Đây là sự thấy. ‘ Nên tu tập hơn nữa về năm. Là người đã vượt qua năm sự dính líu, vị tỳ khưu được gọi là đã vượt qua (bốn) dòng nước lũ.’ Đây là sự tu tập.  Đây là là sự thấy và sự tu tập.
‘‘Tīṇimāni, bhikkhave, indriyāni [passa saṃ. ni. 5.493]. Katamāni tīṇi, anaññātaññassāmītindriyaṃ aññindriyaṃ aññātāvindriyaṃ. Katamañca, bhikkhave, anaññātaññassāmītindriyaṃ? Idha, bhikkhave, bhikkhu anabhisametassa dukkhassa ariyasaccassa abhisamayāya chandaṃ janeti vāyamati vīriyaṃ ārabhati cittaṃ paggaṇhāti padahati, anabhisametassa dukkhasamudayassa ariyasaccassa …pe… dukkhanirodhassa …pe… dukkhanirodhagāminiyā paṭipadāya ariyasaccassa abhisamayāya chandaṃ janeti vāyamati vīriyaṃ ārabhati cittaṃ paggaṇhāti padahati. Idaṃ, bhikkhave, anaññātaññassāmītindriya’’nti. Idaṃ dassanaṃ. “Này các tỳ khưu, đây là ba quyền. Ba quyền nào? Vị tri quyền, dĩ tri quyền, cụ tri quyền. Và này các tỳ khưu, vị tri quyền là gì? Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ  khưu làm sanh khởi sự mong muốn, rồi gắng sức, khởi sự tinh tấn, nắm chặt và xác định tâm nhằm chứng ngộ Chân Lý Tối Thượng về Khổ chưa được chứng ngộ, làm sanh khởi sự mong muốn, rồi gắng sức, khởi sự tinh tấn, nắm chặt và xác định tâm nhằm chứng ngộ Chân Lý Tối Thượng về  nhân sanh Khổ ―nt― về sự diệt tận Khổ ―nt― Chân Lý Tối Thượng về sự  thực hành đưa đến sự diệt tận Khổ chưa được chứng ngộ. Này các tỳ khưu, cái này là vị tri quyền.”  Đây là sự thấy. 
‘‘Katamañca, bhikkhave, aññindriyaṃ? Idha, bhikkhave, bhikkhu ‘idaṃ dukkha’nti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ dukkhasamudayo’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ dukkhanirodho’ti …pe… ‘ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā’ti yathābhūtaṃ pajānāti. Idaṃ, bhikkhave, aññindriyaṃ.  “Và này các tỳ khưu, dĩ tri quyền là gì? Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ  khưu nhận biết đúng theo thực thể rằng: ‘Đây là Khổ,’ nhận biết đúng theo thực thể rằng: ‘Đây là nhân sanh Khổ,’ nhận biết đúng theo thực thể rằng:  ‘Đây là sự diệt tận Khổ,’ nhận biết đúng theo thực thể rằng: ‘Đây là sự thực hành đưa đến sự diệt tận Khổ.’ Này các tỳ khưu, cái này là dĩ tri quyền. 
‘‘Katamañca, bhikkhave, aññātāvindriyaṃ? Idha, bhikkhave, bhikkhu āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharati, khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ nāparaṃ itthattāyāti pajānāti. Idaṃ, bhikkhave, aññātāvindriya’’nti. Ayaṃ bhāvanā.  Và này các tỳ khưu, cụ tri quyền là gì? Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ  khưu, do sự cạn kiệt của các lậu hoặc, nhờ vào thắng trí của mình chứng ngộ, đạt đến, và an trú vào sự không còn lậu hoặc, sự giải thoát của tâm, sự giải thoát của tuệ ngay ở đời hiện tại. Vị ấy nhận biết rằng: ‘Sự tái sanh đã cạn kiệt, Phạm hạnh đã hoàn tất, việc cần làm đã làm, không còn gì khác (phải làm) đối với bản thể (A-la-hán) này nữa.’ Này các tỳ khưu, cái này là cụ tri quyền.”  Đây là sự tu tập. 
Idaṃ dassanañca bhāvanā ca. Đây là là sự thấy và sự tu tập. 
116. Tattha katamaṃ sakavacanaṃ? (13) Ở đấy, điều nào là lời nói của Ta? 
‘‘Sabbapāpassa akaraṇaṃ, kusalassa upasampadā; 20. “Không làm mọi điều ác, thành tựu việc thiện, thanh lọc tâm của mình, điều này là lời giáo huấn của chư Phật.”
Sacittapariyodāpanaṃ, etaṃ buddhāna sāsana’’nti.  
Idaṃ sakavacanaṃ. Đây là lời nói của Ta. 
‘‘Tīṇimāni, bhikkhave, bālassa bālalakkhaṇāni bālanimittāni bālāpadānāni, yehi bālaṃ bāloti pare sañjānanti. Katamāni tīṇi? Bālo, bhikkhave, duccintitacintī ca hoti, dubbhāsitabhāsī ca hoti, dukkaṭakammakārī [dukkatakammakārī (sī.) ma. ni. 3.246; a. ni. 3.3 passitabbaṃ] ca hoti. Imāni kho, bhikkhave, tīṇi bālassa bālalakkhaṇāni bālanimittāni bālāpadānāni. “Này các tỳ khưu, đây là ba tướng trạng ngu, hiện tướng ngu, dấu ấn ngu của kẻ ngu, nhờ đó, những người khác nhận ra kẻ ngu là ‘kẻ ngu.’ Ba điều nào? Này các tỳ khưu, kẻ ngu nghĩ ý nghĩ xấu xa, nói lời nói xấu xa, và làm hành động xấu xa. Này các tỳ khưu, đây là ba tướng trạng ngu, hiện tướng ngu, dấu ấn ngu của kẻ ngu. 
‘‘Tīṇimāni, bhikkhave, paṇḍitassa paṇḍitalakkhaṇāni paṇḍitanimittāni paṇḍitāpadānāni, yehi paṇḍitaṃ paṇḍitoti pare sañjānanti. Katamāni tīṇi? Paṇḍito, bhikkhave, sucintitacintī ca hoti, subhāsitabhāsī ca hoti, sukatakammakārī ca hoti. Imāni kho, bhikkhave, tīṇi paṇḍitassa paṇḍitalakkhaṇāni paṇḍitanimittāni paṇḍitāpadānānī’’ti.  Này các tỳ khưu, đây là ba tướng trạng trí, hiện tướng trí, dấu ấn trí của người trí, nhờ đó, những người khác nhận ra người trí là ‘người trí.’  Ba điều nào? Này các tỳ khưu, người trí nghĩ ý nghĩ tốt lành, nói lời nói tốt lành, và làm hành động tốt lành. Này các tỳ khưu, đây là ba tướng trạng trí, hiện tướng trí, dấu ấn trí của người trí.” 
Idaṃ sakavacanaṃ. Đây là lời nói của Ta. 
Tattha katamaṃ paravacanaṃ? (14) Ở đấy, điều nào là lời nói của vị khác? 
‘‘Pathavīsamo natthi vitthato, ninno pātālasamo na vijjati; Merusamo natthi unnato, cakkavattisadiso natthi poriso’’ti.  21. “Không có gì rộng bằng trái đất,  nơi sâu bằng vực Pātālā không tìm thấy,  không có gì vươn cao bằng núi Meru,  không có người tương đương đức Chuyển Luân Vương.” 
Idaṃ paravacanaṃ. Đây là lời nói của vị khác. 
‘‘‘Hotu, devānaminda, subhāsitena jayoti. Hotu, vepacitti subhāsitena jayoti. Bhaṇa, vepacitti, gātha’nti. Atha kho, bhikkhave, vepacitti asurindo imaṃ gāthaṃ abhāsi – “‘ Này Chúa của chư Thiên, hãy xác định sự chiến thắng với lời được khéo nói. ’ ‘ Này Vepacitti, hãy xác định sự chiến thắng với lời được khéo nói.’ … ‘ Này Vepacitti, ngài hãy nói lời kệ.’ Khi ấy, này các tỳ khưu, Vepacitti, chúa các A-tu-la, đã nói lời kệ này: 22. ‘ Các kẻ ngu có thể nổi giận nhiều hơn nếu không có người ngăn chặn; vì thế, bậc sáng trí nên ngăn cản kẻ ngu bằng hình phạt nặng nề.’ 
‘‘Bhiyyo bālā pabhijjeyyuṃ [pakujjheyyuṃ (sī. ka.) passa saṃ. ni. 1.251], no cassa paṭisedhako;  
Tasmā bhusena daṇḍena, dhīro bālaṃ nisedhaye’’ti.  
‘‘Bhāsitāya kho pana, bhikkhave, vepacittinā asurindena gāthāya asurā anumodiṃsu, devā tuṇhī ahesuṃ. Atha kho, bhikkhave, vepacitti asurindo sakkaṃ devānamindaṃ etadavoca ‘bhaṇa, devānaminda, gātha’nti. Evaṃ vutte, bhikkhave, sakko devānamindo imaṃ gāthaṃ abhāsi –  Này các tỳ khưu, quả thật các A-tu-la đã tùy hỷ với lời kệ được nói lên bởi Vepacitti, chúa các A-tu-la, còn chư Thiên đã im lặng. Khi ấy, này các tỳ khưu, Vepacitti, chúa các A-tu-la, đã nói với với Sakka, chúa của chư  Thiên, điều này: ‘Này chúa của chư Thiên, ngài hãy nói lời kệ.’ Khi ấy, này các tỳ khưu, Sakka, chúa của chư Thiên, đã nói lời kệ này: 23. ‘ Sau khi biết được người khác bị nổi giận, người có niệm, được an tịnh. Ta nghĩ chính điều này là sự ngăn chặn đối với kẻ ngu.’ 
‘‘Etadeva ahaṃ maññe, bālassa paṭisedhanaṃ;  
Paraṃ saṅkupitaṃ ñatvā, yo sato upasammatī’’ti.  
‘‘Bhāsitāya kho pana, bhikkhave, sakkena devānamindena gāthāya devā anumodiṃsu, asurā tuṇhī ahesuṃ. Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo vepacittiṃ asurindaṃ etadavoca ‘bhaṇa, vepacitti, gātha’nti. Evaṃ vutte, bhikkhave, vepacitti asurindo imaṃ gāthaṃ abhāsi –  Này các tỳ khưu, quả thật chư Thiên đã tùy hỷ với lời kệ được nói lên bởi Sakka, chúa của chư Thiên, còn các A-tu-la đã im lặng. Khi ấy, này các tỳ khưu, Sakka, chúa của chư Thiên, đã nói với với Vepacitti, chúa các A-tu-la, điều này: ‘Này Vepacitti, ngài hãy nói lời kệ.’ Khi ấy, này các tỳ khưu, Vepacitti, chúa các A-tu-la, đã nói lời kệ này: 24. ‘ Này Vāsava, ta nhìn thấy chính điều này là lỗi lầm của sự nhẫn nhịn, khi kẻ ngu nghĩ về người kia rằng: ‘Người này nhẫn nhịn với ta vì sợ  hãi,’ kẻ ngu si càng thêm lấn lướt, ví như con bò càng hung hăng với kẻ bỏ  chạy. ’ 
‘‘Etadeva titikkhāya, vajjaṃ passāmi vāsava;  
Yadā naṃ maññati [maññatī (sī.) passa saṃ. ni. 1.251] bālo, bhayā myāyaṃ titikkhati; Ajjhāruhati dummedho, gova bhiyyo palāyina’’nti.  
‘‘Bhāsitāya kho pana, bhikkhave, vepacittinā asurindena gāthāya asurā anumodiṃsu, devā tuṇhī ahesuṃ. Atha kho vepacitti asurindo sakkaṃ devānamindaṃ etadavoca ‘bhaṇa, devānaminda, gātha’nti. Evaṃ vutte, bhikkhave, sakko devānamindo imā gāthāyo abhāsi –  Này các tỳ khưu, quả thật các A-tu-la đã tùy hỷ với lời kệ được nói lên bởi Vepacitti, chúa các A-tu-la, còn chư Thiên đã im lặng. Khi ấy, này các tỳ khưu, Vepacitti, chúa các A-tu-la, đã nói với với Sakka, chúa của chư  Thiên, điều này: ‘Này chúa của chư Thiên, ngài hãy nói lời kệ.’ Khi ấy, này các tỳ khưu, Sakka, chúa của chư Thiên, đã nói các lời kệ này: 25. ‘ Hãy để nó nghĩ hoặc không nghĩ theo như ước muốn (rằng): ‘Người này nhẫn nhịn với ta vì sợ hãi.’ So với lợi ích tốt nhất trong số các lợi ích của bản thân, không tìm thấy (lợi ích khác) tốt hơn nhẫn nhịn. 
‘‘Kāmaṃ maññatu vā mā vā, bhayā myāyaṃ titikkhati; Sadatthaparamā atthā, khantā bhiyyo na vijjati.  
‘‘Yo have balavā santo, dubbalassa titikkhati; Tamāhu paramaṃ khantiṃ, niccaṃ khamati dubbalo. 26. Thật vậy, người có sức mạnh nhẫn nhịn với người yếu sức, (các bậc trí) đã nói việc ấy là kham nhẫn tối cao. Người yếu sức phải thường kham nhẫn. 
‘‘Abalaṃ taṃ balaṃ āhu, yassa bālabalaṃ balaṃ; 27. (Các bậc trí) đã nói sức mạnh ấy không phải là sức mạnh, sức mạnh ấy là sức mạnh của kẻ ngu.
Balassa dhammaguttassa, paṭivattā na vijjati. Đối với sức mạnh đã được chân lý bảo vệ, người chống đối lại (sức mạnh ấy) không tìm thấy. 
‘‘Tasseva tena pāpiyo, yo kuddhaṃ paṭikujjhati; 28. Người nào nổi giận lại với kẻ đã nổi giận, với việc ấy có điều tệ hại hơn cho chính người ấy. 
Kuddhaṃ appaṭikujjhanto, saṅgāmaṃ jeti dujjayaṃ. Trong khi không nổi giận lại với kẻ đã nổi giận, (người ấy) chiến thắng cuộc chiến khó thể chiến thắng. 
‘‘Ubhinnamatthaṃ carati, attano ca parassa ca; 29. Người ấy thực hành điều lợi ích cho cả hai, cho mình và cho người khác. Sau khi biết được người khác bị nổi giận, người nào có niệm, được an tịnh. 
Paraṃ saṅkupitaṃ ñatvā, yo sato upasammati.  
‘‘Ubhinnaṃ tikicchantānaṃ, attano ca parassa ca;  30. Trong khi đang chữa bệnh cho cả hai, cho mình và cho người khác, những kẻ nào không rành rẽ về chân lý mới nghĩ rằng: ‘(Người này) là kẻ  ngu.’ 
Janā maññanti bāloti, ye dhammassa akovidā’’ti.  
‘‘Bhāsitāsu kho pana, bhikkhave, sakkena devānamindena gāthāsu devā anumodiṃsu, asurā tuṇhī ahesu’’nti. Idaṃ paravacanaṃ. Này các tỳ khưu, quả thật chư Thiên đã tùy hỷ với các lời kệ được nói lên bởi Sakka, chúa của chư Thiên, còn các A-tu-la đã im lặng.”  Đây là lời nói của vị khác.
117. Tattha katamaṃ sakavacanañca paravacanañca? (15) Ở đấy, điều nào là lời nói của Ta và lời nói của vị khác? 
Yañca pattaṃ yañca pattabbaṃ ubhayametaṃ rajānukiṇṇaṃ āturassānusikkhato. Ye ca sikkhāsārā sīlaṃ vataṃ jīvitaṃ brahmacariyaṃ upaṭṭhānasārā, ayameko anto. Ye ca evaṃvādino evaṃdiṭṭhino ‘‘natthi kāmesu doso’’ti, ayaṃ dutiyo anto. Iccete ubho antā kaṭasivaḍḍhanā kaṭasiyo diṭṭhiṃ vaḍḍhenti. Ete ubho ante anabhiññāya olīyanti eke atidhāvanti eketi. Idaṃ paravacanaṃ.  “Cái nào đã được đạt đến và cái nào sẽ được đạt đến, cả hai cái này đều bị lấm bụi (ô nhiễm) đối với người bị bệnh đang còn học tập (người có tà kiến). Những người nào có việc học tập là cốt lõi, có sự phục vụ là cốt lõi đối với giới, phận sự, sự nuôi mạng, Phạm hạnh; đây là một cực đoan (hành xác). Và những người nào có học thuyết như vầy, có quan điểm như  vầy: ‘Không có lỗi lầm ở các dục;’ đây là cực đoan thứ hai (hưởng dục).  Như thế, cả hai cực đoan này là sự tăng trưởng của các bãi tha ma (tham ái và vô minh). Các bãi tha ma làm tăng trưởng tà kiến. Những người này không biết rõ cả hai cực đoan ấy, một số thụ động (thường kiến), một số  chạy quá mức (đoạn kiến). ” Đây là lời nói của vị khác. 
Ye ca kho te ubho ante abhiññāya tatra ca na ahesuṃ, tena ca amaññiṃsu, vaṭṭaṃ tesaṃ natthi paññāpanāyāti. Idaṃ sakavacanaṃ. Ayaṃ udāno sakavacanañca paravacanañca.  “Và những người nào, sau khi biết rõ cả hai cực đoan ấy, đã không ở  nơi ấy (đã dứt bỏ hai cực đoan), và đã không suy nghĩ về chúng (đã không bị tác động của tham ái, tà kiến, và ngã mạn). Đối với các vị ấy, không có luân hồi để mô tả.” 1  Đây là lời nói của Ta.  Lời cảm hứng này là lời nói của Ta và lời nói của vị khác. 
Rājā pasenadi [passenadi (ka.) passa saṃ. ni. 1.113] kosalo bhagavantaṃ etadavoca – idha mayhaṃ, bhante, rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi ‘‘kesaṃ nu kho piyo attā, kesaṃ appiyo attā’’ti. Tassa mayhaṃ, bhante, etadahosi ‘‘ye ca kho keci kāyena duccaritaṃ caranti, vācāya duccaritaṃ caranti, manasā duccaritaṃ caranti, tesaṃ appiyo attā. Kiñcāpi te evaṃ vadeyyuṃ ‘piyo no attā’ti, atha kho tesaṃ appiyo attā. Taṃ kissa hetu? Yaṃ hi appiyo appiyassa kareyya, taṃ te attanāva attano karonti, tasmā tesaṃ appiyo attā. Ye ca kho keci kāyena sucaritaṃ caranti, vācāya sucaritaṃ caranti, manasā sucaritaṃ caranti, tesaṃ piyo attā. Kiñcāpi te evaṃ vadeyyuṃ ‘appiyo no attā’ti, atha kho tesaṃ piyo attā. Taṃ kissa hetu? Yaṃ hi piyo piyassa kareyya. Taṃ te attanāva attano karonti. Tasmā tesaṃ piyo attā’’ti.  “Đức vua Pasenadi xứ Kosala đã nói với đức Thế Tôn điều này: ‘Bạch Ngài, ở đây, trong lúc trẫm đang thiền tịnh ở nơi thanh vắng có ý nghĩ suy tầm như vầy đã khởi lên: ‘Ðối với những người nào, bản thân là được yêu quý? Ðối với những người nào, bản thân là không được yêu quý?’ Bạch Ngài, trẫm đây đã khởi ý điều này: ‘Những người nào thực hành uế hạnh bằng thân, thực hành uế hạnh bằng khẩu, thực hành uế hạnh bằng ý, đối với những người ấy, bản thân là không được yêu quý. Mặc dầu họ có thể nói điều gì đó như vầy: ‘Bản thân được chúng tôi yêu quý,’ thật ra đối với họ, bản thân là không được yêu quý. Điều ấy có nguyên nhân là gì? Bởi vì, điều gì người không được yêu quý có thể làm cho người không được yêu quý, điều ấy họ  đích thân làm cho bản thân; vì thế, đối với những người ấy, bản thân là không được yêu quý. Và những người nào thực hành thiện hạnh bằng thân, thực hành thiện hạnh bằng khẩu, thực hành thiện hạnh bằng ý, đối với những người ấy, bản thân là được yêu quý. Mặc dầu họ có thể nói điều gì đó như vầy: ‘Bản thân không được chúng tôi yêu quý,’ thật ra đối với họ, bản thân là được yêu quý. Điều ấy có nguyên nhân là gì? Bởi vì, điều gì người được yêu quý có thể làm cho người được yêu quý, điều ấy họ đích thân làm cho bản thân; vì thế, đối với những người ấy, bản thân là được yêu quý.’ 
‘‘Evametaṃ, mahārāja, evametaṃ, mahārāja, ye hi keci, mahārāja, kāyena duccaritaṃ caranti, vācāya duccaritaṃ caranti, manasā duccaritaṃ caranti tasmā tesaṃ appiyo attā. Kiñcāpi te evaṃ vadeyyuṃ ‘piyo no attā’ti, atha kho tesaṃ appiyo attā. Taṃ kissa hetu? Yaṃ hi, mahārāja, appiyo appiyassa kareyya, taṃ te attanāva attano karonti, tasmā tesaṃ appiyo attā. Ye ca kho keci mahārāja kāyena sucaritaṃ caranti, vācāya sucaritaṃ caranti, manasā sucaritaṃ caranti, tesaṃ piyo attā. Kiñcāpi te evaṃ vadeyyuṃ ‘appiyo no attā’ti, atha kho tesaṃ piyo attā. Taṃ kissa hetu? Yaṃ hi, mahārāja, piyo piyassa kareyya, taṃ te attanāva attano karonti, tasmā tesaṃ piyo attāti. Idamavoca bhagavā …pe… satthā –  ‘Này đại vương, điều ấy là như vậy! Này đại vương, điều ấy là như vậy!  Này đại vương, những người nào thực hành uế hạnh bằng thân, thực hành uế  hạnh bằng khẩu, thực hành uế hạnh bằng ý, đối với những người ấy, bản thân là không được yêu quý. Mặc dầu họ có thể nói điều gì đó như vầy: ‘Bản thân được chúng tôi yêu quý,’ thật ra đối với họ, bản thân là không được yêu quý. Điều ấy có nguyên nhân là gì? Bởi vì, này đại vương, điều gì người không được yêu quý có thể làm cho người không được yêu quý, điều ấy họ  đích thân làm cho bản thân; vì thế, đối với những người ấy, bản thân là không được yêu quý. Và những người nào thực hành thiện hạnh bằng thân, thực hành thiện hạnh bằng khẩu, thực hành thiện hạnh bằng ý, đối với những người ấy, bản thân là được yêu quý. Mặc dầu họ có thể nói điều gì đó như vầy: ‘Bản thân không được chúng tôi yêu quý,’ thật ra đối với họ, bản thân là được yêu quý. Điều ấy có nguyên nhân là gì? Bởi vì, này đại vương, điều gì người được yêu quý có thể làm cho người được yêu quý, điều ấy họ  đích thân làm cho bản thân; vì thế, đối với những người ấy, bản thân là được yêu quý.’ Đức Thế Tôn đã nói điều này. Sau khi nói điều này, đấng Thiện Thệ, bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa: 
‘‘Attānañce piyaṃ jaññā, na naṃ pāpena saṃyuje; 31. ‘ Nếu có thể biết bản thân là đáng yêu, không nên ràng buộc nó với việc ác. Bởi vì hạnh phúc không phải là điều dễ dàng đạt được bởi kẻ đã làm việc xấu. 
Na hi taṃ sulabhaṃ hoti, sukhaṃ dukkaṭakārinā.  
‘‘Antakenādhipannassa [maraṇenābhibhūtassa (ka.) passa saṃ. ni. 1.115], jahato mānusaṃ bhavaṃ; 32. Đối với người đã bị Tử Thần đuổi kịp, đang từ bỏ bản thể nhân loại, cái gì là vật sở hữu của người ấy, cầm lấy cái gì người ấy ra đi, và cái gì đi theo người này, ví như bóng không lìa khỏi (hình)? 
Kiṃ hi tassa sakaṃ hoti, kiñca ādāya gacchati;  
Kiñcassa anugaṃ hoti, chāyāva anapāyinī.  
‘‘Ubho puññañca pāpañca, yaṃ macco kurute idha; 33. Cả hai phước và tội mà con người làm ở nơi này, chính cái ấy là vật sở hữu của người ấy, cầm lấy cái ấy người ấy ra đi, và cái ấy đi theo người này, ví như bóng không lìa khỏi (hình). 
Tañhi tassa sakaṃ hoti, taṃva ādāya gacchati;  
Taṃvassa anugaṃ hoti, chāyāva anapāyinī.  
‘‘Tasmā kareyya kalyāṇaṃ, nicayaṃ samparāyikaṃ; Puññāni paralokasmiṃ, patiṭṭhā honti pāṇina’’nti. 34. Vì thế, nên làm việc tốt lành, là sự tích lũy cho đời sau. Các việc phước thiện là nơi nương tựa cho các sinh mạng ở đời sống khác.’” 
Idaṃ suttaṃ paravacanaṃ. Anugīti sakavacanaṃ. Idaṃ sakavacanañca paravacanañca. Kinh này là lời nói của vị khác. Kệ tóm lược là lời nói của Ta.  Đây là lời nói của Ta và lời nói của vị khác. 
118. Tattha katamaṃ visajjanīyaṃ? (16) Ở đấy, điều nào là điều có thể trả lời? 
Pañhe pucchite idaṃ abhiññeyyaṃ, idaṃ pariññeyyaṃ, idaṃ pahātabbaṃ, idaṃ bhāvetabbaṃ, idaṃ sacchikātabbaṃ, ime dhammā evaṃgahitā idaṃ phalaṃ nibbattayanti. Tesaṃ evaṃgahitānaṃ ayamattho iti idaṃ visajjanīyaṃ. ‘‘Uḷāro buddho bhagavā’’ti buddhauḷārataṃ dhammasvākkhātataṃ saṅghasuppaṭipattiñca ekaṃseneva niddise. ‘‘Sabbe saṅkhārā aniccā’’ti ‘‘sabbe saṅkhārā dukkhā’’ti ‘‘sabbe dhammā anattā’’ti ekaṃseneva niddise. Yaṃ vā panaññampi evaṃ jātiyaṃ. Idaṃ visajjanīyaṃ.  Khi câu hỏi được hỏi là: “(Có phải) cái này cần được biết rõ, cái này cần được biết toàn diện, cái này cần được dứt bỏ, cái này cần được tu tập, cái này cần được chứng ngộ, các pháp này được nắm lấy như vậy thì sanh ra kết quả này, khi chúng được nắm lấy như vậy thì đây là ý nghĩa của chúng? ”  Đây là điều có thể trả lời.  (Khi câu hỏi được hỏi là:) “Có phải đức Phật Thế Tôn là cao cả? ” Nên diễn giải một cách trọn vẹn về tính chất cao cả của đức Phật, về tính chất đã khéo được thuyết giảng của Giáo Pháp, về tính chất đã được thực hành tốt đẹp của Hội Chúng. Nên diễn giải một cách trọn vẹn rằng: ‘ Tất cả các hành là vô thường,’ ‘ tất cả các hành là khổ,’ ‘ tất cả các pháp là vô ngã,’ hoặc hơn nữa, về bất cứ pháp nào thuộc loại như vậy.  Đây là điều có thể trả lời. 
Tattha katamaṃ avisajjanīyaṃ? (17) Ở đấy, điều nào là điều không thể trả lời? 
‘‘Ākaṅkhato te naradammasārathi [naradammasārathī (sī.)], devā manussā manasā vicintitaṃ; Sabbe na jaññā kasiṇāpi pāṇino, santaṃ samādhiṃ araṇaṃ nisevato;  35. “Bạch đấng Ðiều Ngự Trượng Phu, chư Thiên, nhân loại, tất cả  chúng sinh không thể biết về đề mục của Ngài trong khi Ngài thực hành định an tịnh không ô nhiễm, về điều được suy nghĩ bởi ý của Ngài trong khi Ngài mong muốn.
Kintaṃ bhagavā ākaṅkhatī’’ti. Điều mà đức Thế Tôn mong muốn ấy là điều gì? ” 
Idaṃ avisajjanīyaṃ. Đây là điều không thể trả lời. 
Ettako bhagavā sīlakkhandhe samādhikkhandhe paññākkhandhe vimuttikkhandhe vimuttiñāṇadassanakkhandhe iriyāyaṃ pabhāve hitesitāyaṃ karuṇāyaṃ iddhiyanti. Idaṃ avisajjanīyaṃ.  “Đức Thế Tôn là chừng này về giới uẩn, về định uẩn, về tuệ uẩn, về giải thoát uẩn, về giải thoát tri kiến uẩn, 1 về oai nghi, về năng lực, về sự tầm cầu lợi ích, về bi mẫn, về thần thông.”  Đây là điều không thể trả lời. 
‘‘Tathāgatassa, bhikkhave, arahato sammāsambuddhassa loke uppādā tiṇṇaṃ ratanānaṃ uppādo buddharatanassa dhammaratanassa saṅgharatanassa’’. Kiṃ pamāṇāni tīṇi ratanānīti? Idaṃ avisajjanīyaṃ. “Này các tỳ khưu, từ sự hiện khởi ở thế gian của đức Như Lai, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri, có sự hiện khởi của ba bảo vật: của Phật bảo, của Pháp bảo, của Tăng bảo.”  “Ba bảo vật có cái gì là sự đo lường? ” Đây là điều không thể trả lời.
Buddhavisayo avisajjanīyo. Puggalaparoparaññutā avisajjanīyā. ‘‘Pubbā, bhikkhave, koṭi na paññāyati avijjānīvaraṇānaṃ sattānaṃ taṇhāsaṃyojanānaṃ sakiṃ nirayaṃ sakiṃ tiracchānayoniṃ sakiṃ pettivisayaṃ sakiṃ asurayoniṃ sakiṃ deve sakiṃ manusse sandhāvitaṃ saṃsaritaṃ’’. Katamā pubbā koṭīti avisajjanīyaṃ. Na paññāyatīti sāvakānaṃ ñāṇavekallena. Duvidhā buddhānaṃ bhagavantānaṃ desanā attūpanāyikā ca parūpanāyikā ca. Na paññāyatīti parūpanāyikā. Natthi buddhānaṃ bhagavantānaṃ avijānanāti [appajānanāti (sī.)] attūpanāyikā. Yathā bhagavā kokālikaṃ bhikkhuṃ ārabbha aññataraṃ bhikkhuṃ evamāha – Lãnh vực của đức Phật là không thể trả lời. Trạng thái biết về tính trạng khác biệt của con người là không thể trả lời.”  “Này các tỳ khưu, đối với các chúng sanh có sự che lấp của vô minh, có sự ràng buộc của tham ái, đang rong ruổi, đang luân hồi lúc ở địa ngục, lúc ở loài thú, lúc ở thân phận ngạ quỷ, lúc ở loài A-tu-la, lúc ở chư thiên, lúc ở  loài người, thì điểm khởi đầu ở quá khứ (của chúng) không được biết đến.”  ‘ Cái nào là điểm khởi đầu ở quá khứ’ là điều không thể trả lời. ‘ Không được biết đến’ là do sự khiếm khuyết về trí của những người nghe. Sự chỉ bảo của chư Phật Thế Tôn có hai loại: liên quan đến bản thân và liên quan đến người khác. ‘ Không được biết đến’ là liên quan đến người khác; ‘ không có sự  hiểu biết ít ỏi đối với chư Phật Thế Tôn’ là liên quan đến bản thân. Giống như đức Thế Tôn đã nói với vị tỳ khưu nào đó về vị tỳ khưu Kokālika như vầy: 
‘‘Seyyathāpi, bhikkhu, vīsatikhāriko kosalako tilavāho …pe… na tveva eko abbudo nirayo.  “Này tỳ khưu, cũng giống như một cỗ xe chở hạt mè ở xứ Kosala có sức chứa hai mươi khārika, [rồi từ cỗ xe đó vào cuối thời hạn của một trăm năm, của một ngàn năm, người ta lấy bớt ra một hạt mè, này tỳ khưu, theo cách thức này một cỗ xe chở hạt mè ở xứ Kosala có sức chứa hai mươi khārika ấy đi đến sự hoàn toàn cạn kiệt, hoàn toàn hết sạch là còn nhanh hơn,] còn chưa bằng một địa ngục Abbuda. Này tỳ khưu, hai mươi địa ngục Abbuda là tương đương một địa ngục Nirabbuda. Này tỳ khưu, hai mươi địa ngục Nirabbuda là tương đương một địa ngục Ababa. Này tỳ  khưu, hai mươi địa ngục Ababa là tương đương một địa ngục Aṭata. Này tỳ khưu, hai mươi địa ngục Aṭata là tương đương một địa ngục Ahaha. 
Seyyathāpi bhikkhu, vīsati abbudā nirayā, evameko nirabbudo nirayo [nirabbudanirayo (saṃ. ni. 1.181)]. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati nirabbudā nirayā, evameko ababo nirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati ababā nirayā, evameko aṭaṭo nirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati aṭaṭā nirayā, evameko ahaho nirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati ahahā nirayā, evameko kumudo nirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati kumudā nirayā, evameko sogandhiko nirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati sogandhikā nirayā, evameko uppalako nirayo [uppalanirayo (saṃ. ni. 1.181)]. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati uppalakā nirayā, evameko puṇḍarīko nirayo. Seyyathāpi, bhikkhu, vīsati puṇḍarīkā nirayā, evameko padumo nirayo. Padume pana, bhikkhu, niraye kokāliko bhikkhu upapanno sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvā’’ti. Yaṃ vā pana kiñci bhagavā āha ‘‘ayaṃ appameyyo asaṅkhyeyo’’ti. Sabbaṃ taṃ avisajjanīyaṃ. Idaṃ avisajjanīyaṃ.  Này tỳ khưu, hai mươi địa ngục Ahaha là tương đương một địa ngục Kumuda. Này tỳ khưu, hai mươi địa ngục Kumuda là tương đương một địa ngục Sogandhika. Này tỳ khưu, hai mươi địa ngục Sogandhika là tương đương một địa ngục Uppalaka. Này tỳ khưu, hai mươi địa ngục Uppalaka là tương đương một địa ngục Puṇḍarīka. Này tỳ khưu, hai mươi địa ngục Puṇḍarīka là tương đương một địa ngục Paduma. Này tỳ khưu, tỳ khưu Kokālika đã sanh vào địa ngục Paduma sau khi khởi tâm thù hằn với Sāriputta và Moggallāna.” 1  “Hoặc hơn nữa, về bất cứ điều nào mà đức Thế Tôn đã nói rằng: ‘Điều này là không thể đo lường, không thể tính đếm.’ Toàn bộ điều ấy là không thể trả lời.”  Đây là điều không thể trả lời. 
119. Tattha katamaṃ visajjanīyañca avisajjanīyañca, yadā so upako ājīvako bhagavantaṃ āha ‘‘kuhiṃ, āvuso gotama, gamissasī’’ti. Bhagavā āha –  (18) Ở đấy, điều nào là điều có thể trả lời và không thể trả lời?  Vào lúc đạo sĩ lõa thể Upaka ấy đã nói với đức Thế Tôn rằng: “Này đạo hữu Gotama, ngài sẽ đi đâu? ” Đức Thế Tôn đã nói rằng:
‘‘Bārāṇasiṃ gamissāmi, ahaṃ taṃ amatadundubhiṃ; Dhammacakkaṃ pavattetuṃ, loke appaṭivattiya’’nti. 36. “Ta sẽ đi đến Bārāṇasī để đánh lên tiếng trống Bất Tử, để chuyển vận bánh xe Giáo Pháp không thể bị chuyển vận nghịch lại ở thế gian.” 
Upako ājīvako āha ‘‘‘jino’ti kho āvuso, bho gotama, paṭijānāsī’’ti. Bhagavā āha – Đạo sĩ lõa thể Upaka đã nói rằng: “Thưa ngài đạo hữu Gotama, phải chăng ngài tuyên bố là ‘đấng Chiến Thắng’? ” Đức Thế Tôn đã nói rằng: 
‘‘Mādisā ve jinā [jinā ve mādisā (sī. ka.) passa ma. ni. 2.341] honti, ye pattā āsavakkhayaṃ; Jitā me pāpakā dhammā, tasmāhaṃ upakā jino’’ti. 37. “Này Upaka, quả vậy các bậc Chiến Thắng đã đạt đến việc đoạn tận các lậu hoặc là tương đương với Ta. Ta đã chiến thắng các ác pháp, vì thế Ta là bậc Jina.” 
Kathaṃ jino kena jinoti visajjanīyaṃ. Katamo jinoti avisajjanīyaṃ. Katamo āsavakkhayo, rāgakkhayo dosakkhayo mohakkhayoti visajjanīyaṃ. Kittako āsavakkhayoti avisajjanīyaṃ. Idaṃ visajjanīyañca avisajjanīyañca.  ‘ Như thế nào là đấng Chiến Thắng, bởi điều (lý do) gì trở thành đấng Chiến Thắng? ’ là điều có thể trả lời. ‘ Cái nào (sắc, thọ, …) là đấng Chiến Thắng? ’ là điều không thể trả lời. ‘ Cái nào là sự diệt trừ các lậu hoặc, là sự  diệt trừ luyến ái, là sự diệt trừ sân hận, là sự diệt trừ si mê? ’ là điều có thể  trả lời. ‘ Cho đến chừng nào là sự diệt trừ các lậu hoặc? ’ là điều không thể  trả lời.  Đây là điều có thể trả lời và không thể trả lời. 
Atthi tathāgatoti visajjanīyaṃ. Atthi rūpanti visajjanīyaṃ. Rūpaṃ tathāgatoti avisajjanīyaṃ. Rūpavā tathāgatoti avisajjanīyaṃ. Rūpe tathāgatoti avisajjanīyaṃ. Tathāgate rūpanti avisajjanīyaṃ. Evaṃ atthi vedanā …pe… saññā …pe… saṅkhārā …pe… atthi viññāṇanti visajjanīyaṃ. Viññāṇaṃ tathāgatoti avisajjanīyaṃ. Viññāṇavā tathāgatoti avisajjanīyaṃ. Viññāṇe tathāgatoti avisajjanīyaṃ. Tathāgate viññāṇanti avisajjanīyaṃ. Aññatra rūpena tathāgatoti avisajjanīyaṃ. Aññatra vedanāya …pe… saññāya …pe… saṅkhārehi …pe… viññāṇena tathāgatoti avisajjanīyaṃ. Ayaṃ so tathāgato arūpako… pe… avedanako …pe… asaññako …pe… asaṅkhārako …pe… aviññāṇakoti avisajjanīyaṃ. Idaṃ visajjanīyañca avisajjanīyañca.  ‘ Có đức Như Lai? ’ là điều có thể trả lời. ‘ Có sắc? ’ là điều có thể trả lời.  ‘ Sắc là đức Như Lai? ’ là điều không thể trả lời. ‘ Đức Như Lai có sắc? ’ là điều không thể trả lời. ‘ Hoặc đức Như Lai ở trong sắc? ’ là điều không thể trả lời.  ‘ Sắc ở trong đức Như Lai? ’ là điều không thể trả lời. Tương tự như vậy, ‘ Có thọ? ’ ―nt― tưởng? ―nt― các hành? ―nt― ‘ Có thức? ’ là điều có thể trả lời.  ‘ Thức là đức Như Lai? ’ là điều không thể trả lời. ‘ Đức Như Lai có thức? ’ là điều không thể trả lời. ‘ Đức Như Lai ở trong thức? ’ là điều không thể trả lời.  ‘ Thức ở trong đức Như Lai? ’ là điều không thể trả lời. ‘ Trừ sắc ra là đức Như Lai? ’ là điều không thể trả lời. ‘ Trừ thọ ra ―nt― tưởng ―nt― các hành  ―nt― ‘ Trừ thức ra là đức Như Lai? ’ là điều không thể trả lời. ‘ Đức Như Lai này đây là không liên quan đến sắc, không liên quan đến thọ, không liên quan đến tưởng, không liên quan đến các hành, không liên quan đến thức? ’  là điều không thể trả lời.  Đây là điều có thể trả lời và không thể trả lời. 
Passati bhagavā dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte cavamāne upapajjamāne evaṃ sabbaṃ …pe… yathākammūpage satte pajānātīti visajjanīyaṃ. Katame sattā, katamo tathāgatoti avisajjanīyaṃ. Idaṃ visajjanīyañca avisajjanīyañca.  ‘ Có phải đức Thế Tôn, với Thiên nhãn thanh tịnh vượt trội loài người, nhìn thấy các chúng sanh trong khi chết đi rồi sanh lại (toàn bộ là tương tự  như vậy) ―nt― Ngài biết được rằng các chúng sanh đều đi theo nghiệp tương ứng? ’ là điều có thể trả lời. ‘ Những ai là chúng sanh, ai là đức Như  Lai? ’ là điều không thể trả lời.  Đây là điều có thể trả lời và không thể trả lời. 
Atthi tathāgatoti visajjanīyaṃ. Atthi tathāgato paraṃ maraṇāti avisajjanīyaṃ. Idaṃ visajjanīyañca avisajjanīyañca.  ‘ Có đức Như Lai? ’ là điều có thể trả lời. ‘ Có đức Như Lai sau khi chết? ’ là điều không thể trả lời.  Đây là điều có thể trả lời và không thể trả lời. 
120. Tattha katamaṃ kammaṃ? (19) Ở đấy, cái nào là nghiệp? 
‘‘Antakenādhipannassa, jahato mānusaṃ bhavaṃ; 38. “Đối với người đã bị Tử Thần đuổi kịp, đang từ bỏ bản thể nhân loại, cái gì là vật sở hữu của người ấy, cầm lấy cái gì người ấy ra đi, và cái gì đi theo người này, ví như bóng không lìa khỏi (hình)? ” 
Kiṃ hi tassa sakaṃ hoti, kiñca ādāya gacchati;  
Kiñcassa anugaṃ hoti, chāyāva anapāyinī.  
‘‘Ubho puññañca pāpañca, yaṃ macco kurute idha; 39. “Cả hai phước và tội mà con người làm ở nơi này, chính cái ấy là vật sở hữu của người ấy, cầm lấy cái ấy người ấy ra đi, và cái ấy đi theo người này, ví như bóng không lìa khỏi (hình).” 
Tañhi tassa sakaṃ hoti, taṃva [tañca (sī. ka.) passa saṃ. ni. 1.115] ādāya gacchati; Taṃvassa anugaṃ hoti, chāyāva anapāyinī’’ti.  
Idaṃ kammaṃ. Đây là nghiệp. 
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, bālaṃ pīṭhasamārūḷhaṃ vā mañcasamārūḷhaṃ vā chamāyaṃ [chamāya (sī. ka.) passa ma. ni. 3.248] vā semānaṃ yānissa pubbe pāpakāni kammāni katāni kāyena duccaritāni vācāya duccaritāni manasā duccaritāni, tānissa tamhi samaye olambanti ajjholambanti abhippalambanti. Seyyathāpi, bhikkhave, mahataṃ pabbatakūṭānaṃ chāyā sāyanhasamayaṃ pathaviyaṃ olambanti ajjholambanti abhippalambanti. Evameva kho, bhikkhave, bālaṃ pīṭhasamārūḷhaṃ vā mañcasamārūḷhaṃ vā chamāyaṃ vā semānaṃ yānissa pubbe pāpakāni kammāni katāni kāyena duccaritāni vācāya duccaritāni manasā duccaritāni, tānissa tamhi samaye olambanti ajjholambanti abhippalambanti. Tatra, bhikkhave, bālassa evaṃ hoti ‘akataṃ vata me kalyāṇaṃ, akataṃ kusalaṃ, akataṃ bhīruttāṇaṃ. Kataṃ pāpaṃ, kataṃ luddaṃ, kataṃ kibbisaṃ, yāvatā bho akatakalyāṇānaṃ akatakusalānaṃ akatabhīruttāṇānaṃ katapāpānaṃ kataluddānaṃ katakibbisānaṃ gati, taṃ gatiṃ pecca gacchāmī’ti, so socati kilamati paridevati urattāḷiṃ kandati sammohaṃ āpajjatī’’ti.  “Và lại nữa, này các tỳ khưu, khi kẻ ngu đã leo lên ghế, hoặc đã leo lên giường, hoặc đang nằm trên mặt đất, các nghiệp ác đã làm trước đây bởi kẻ  này, là các uế hạnh bằng thân, các uế hạnh bằng khẩu, các uế hạnh bằng ý, vào lúc ấy, trải lên, trùm lên, phủ lên kẻ này. Cũng giống như, này các tỳ  khưu, bóng của các đỉnh núi lớn, vào buổi chiều, trải lên, trùm lên, phủ lên trái đất, tương tự y như vậy, này các tỳ khưu, khi kẻ ngu đã leo lên ghế, hoặc đã leo lên giường, hoặc đang nằm trên mặt đất, các nghiệp ác đã làm trước đây bởi kẻ này, là các uế hạnh bằng thân, các uế hạnh bằng khẩu, các uế  hạnh bằng ý, vào lúc ấy, trải lên, trùm lên, phủ lên kẻ này. Trong trường hợp ấy, này các tỳ khưu, có ý nghĩ như vầy khởi đến kẻ ngu: ‘ Quả thật, ta đã không tạo việc lành, đã không tạo việc thiện, đã không tạo nơi nương náu sự khiếp sợ, đã làm việc ác, đã làm việc hung bạo, đã làm việc sái quấy. Và cảnh giới nào dành cho những kẻ đã không tạo việc tốt, đã không tạo việc thiện, đã không tạo nơi nương náu sự khiếp sợ, đã làm việc ác, đã làm việc hung bạo, đã làm việc sái quấy, sau khi chết, ta (sẽ) đi đến cảnh giới ấy.’ Kẻ  ấy sầu muộn, mệt mỏi, than vãn, đấm ngực khóc lóc, đi đến sự mê muội. 
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, paṇḍitaṃ pīṭhasamārūḷhaṃ vā mañcasamārūḷhaṃ vā chamāyaṃ vā semānaṃ yānissa pubbe kalyāṇāni kammāni katāni kāyena sucaritāni vācāya sucaritāni manasā sucaritāni, tānissa tamhi samaye olambanti ajjholambanti abhippalambanti. Seyyathāpi, bhikkhave, mahataṃ pabbatakūṭānaṃ chāyā sāyanhasamayaṃ pathaviyaṃ olambanti ajjholambanti abhippalambanti. Evameva kho, bhikkhave, paṇḍitaṃ pīṭhasamārūḷhaṃ vā mañcasamārūḷhaṃ vā chamāyaṃ vā semānaṃ yānissa pubbe kalyāṇāni kammāni katāni kāyena sucaritāni vācāya sucaritāni manasā sucaritāni, tānissa tamhi samaye olambanti ajjholambanti abhippalambanti. Tatra, bhikkhave, paṇḍitassa ‘evaṃ hoti akataṃ vata me pāpaṃ, akataṃ luddaṃ, akataṃ kibbisaṃ. Kataṃ kalyāṇaṃ, kataṃ kusalaṃ, kataṃ bhīruttāṇaṃ, yāvatā bho akatapāpānaṃ akataluddānaṃ akatakibbisānaṃ katakalyāṇānaṃ katakusalānaṃ katabhīruttāṇānaṃ gati, taṃ gatiṃ pecca gacchāmī’ti, so na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjati, ‘kataṃ me puññaṃ, akataṃ pāpaṃ, yā bhavissati gati akatapāpassa akataluddassa akatakibbisassa katapuññassa katakusalassa katabhīruttāṇassa, taṃ pecca bhave gatiṃ paccanubhavissāmī’ti vippaṭisāro na jāyati. Avippaṭisārino kho, bhikkhave, itthiyā vā purisassa vā gihino vā pabbajitassa vā bhaddakaṃ maraṇaṃ bhaddikā kālaṅkiriyāti vadāmī’’ti. Idaṃ kammaṃ.  Và lại nữa, này các tỳ khưu, khi người trí đã leo lên ghế, hoặc đã leo lên giường, hoặc đang nằm trên mặt đất, các nghiệp lành đã làm trước đây bởi người này, là các thiện hạnh bằng thân, các thiện hạnh bằng khẩu, các thiện hạnh bằng ý, vào lúc ấy, trải lên, trùm lên, phủ lên người này. Cũng giống như, này các tỳ khưu, bóng của các đỉnh núi lớn, vào buổi chiều, trải lên, trùm lên, phủ lên trái đất, tương tự y như vậy, này các tỳ khưu, khi người trí đã leo lên ghế, hoặc đã leo lên giường, hoặc đang nằm trên mặt đất, các nghiệp lành đã làm trước đây bởi người này, là các thiện hạnh bằng thân, các thiện hạnh bằng khẩu, các thiện hạnh bằng ý, vào lúc ấy, trải lên, trùm lên, phủ lên người này. Trong trường hợp ấy, này các tỳ khưu, có ý nghĩ như vầy khởi đến người trí: ‘ Quả thật, ta đã không làm việc ác, đã không làm việc hung bạo, đã không làm việc sái quấy, đã tạo việc lành, đã tạo việc thiện, đã tạo nơi nương náu sự khiếp sợ. Và cảnh giới nào dành cho những người đã không làm việc ác, đã không làm việc hung bạo, đã không làm việc sái quấy, đã tạo việc lành, đã tạo việc thiện, đã tạo nơi nương náu sự  khiếp sợ, sau khi chết, ta (sẽ) đi đến cảnh giới ấy.’ Người ấy không sầu muộn, không mệt mỏi, không than vãn, không đấm ngực khóc lóc, không đi đến sự mê muội (nghĩ rằng): ‘ Ta đã làm phước, ta đã không làm ác. Sẽ có cảnh giới dành cho người đã không làm việc ác, đã không làm việc hung bạo, đã không làm việc sái quấy, đã tạo việc phước, đã tạo việc thiện, đã tạo nơi nương náu sự khiếp sợ, sau khi chết, ta (sẽ) đi đến cảnh giới ấy,’  như thế sự hối hận không sanh khởi. Thật vậy, này các tỳ khưu, Ta nói rằng:  ‘ (Sẽ có) cái chết đẹp, (sẽ có) sự qua đời đẹp dành cho người nữ, hoặc người nam, hoặc tại gia, hoặc xuất gia, không có sự hối hận.’”  Đây là nghiệp. 
‘‘Tīṇimāni, bhikkhave, duccaritāni. Katamāni tīṇi, kāyaduccaritaṃ vacīduccaritaṃ manoduccaritaṃ. Imāni kho, bhikkhave, tīṇi duccaritāni. Tīṇimāni, bhikkhave, sucaritāni. Katamāni tīṇi? Kāyasucaritaṃ vacīsucaritaṃ manosucaritaṃ. Imāni kho, bhikkhave, tīṇi sucaritāni. Idaṃ kammaṃ.  “Này các tỳ khưu, đây là ba uế hạnh. Ba uế hạnh nào? Uế hạnh về thân, uế hạnh về khẩu, uế hạnh về ý. Thật vậy, này các tỳ khưu, đây là ba uế  hạnh.  Này các tỳ khưu, đây là ba thiện hạnh. Ba thiện hạnh nào? Thiện hạnh về thân, thiện hạnh về khẩu, thiện hạnh về ý. Thật vậy, này các tỳ khưu, đây là ba thiện hạnh.”  Đây là nghiệp. 
Tattha katamo vipāko? (20) Ở đấy, cái nào là quả thành tựu? 
‘‘Lābhā vo, bhikkhave, suladdhaṃ vo, bhikkhave, khaṇo vo, bhikkhave, paṭiladdho brahmacariyavāsāya. Diṭṭhā mayā, bhikkhave, cha phassāyatanikā nāma nirayā. Tattha yaṃ kiñci cakkhunā rūpaṃ passati aniṭṭharūpaṃyeva passati, no iṭṭharūpaṃ. Akantarūpaṃyeva passati, no kantarūpaṃ. Amanāparūpaṃyeva passati, no manāparūpaṃ.  “Này các tỳ khưu, thật lợi ích cho các ngươi! Này các tỳ khưu, thật đã khéo đạt được cho các ngươi! Các ngươi đã đạt được cơ hội để sống đời Phạm hạnh. Này các tỳ khưu, Ta nhìn thấy địa ngục tên Sáu Xúc Xứ. Ở  đấy, bất cứ sắc nào nhìn thấy bằng mắt thì nhìn thấy mỗi sắc không được ước muốn, không phải sắc được ước muốn, nhìn thấy mỗi sắc không được ưa thích, không phải sắc được ưa thích, nhìn thấy mỗi sắc không hợp ý, không phải sắc hợp ý, 
Yaṃ kiñci sotena saddaṃ suṇāti …pe… ghānena …pe… jivhāya …pe… kāyena …pe… yaṃ kiñci manasā dhammaṃ vijānāti aniṭṭhadhammaṃyeva vijānāti, no iṭṭhadhammaṃ. Akantadhammaṃyeva vijānāti, no kantadhammaṃ. Amanāpadhammaṃyeva vijānāti, no manāpadhammaṃ. Lābhā vo, bhikkhave, suladdhaṃ vo, bhikkhave, khaṇo vo, bhikkhave, paṭiladdho brahmacariyavāsāya. bất cứ thinh nào nghe bằng tai ―nt― bằng mũi  ―nt― bằng lưỡi ―nt― bằng thân ―nt― bất cứ pháp nào nhận biết bằng ý thì nhận biết mỗi pháp không được ước muốn, không phải pháp được ước muốn, nhận biết mỗi pháp không được ưa thích, không phải pháp được ưa thích, nhận biết mỗi pháp không hợp ý, không phải pháp hợp ý. Này các tỳ  khưu, thật lợi ích cho các ngươi! Này các tỳ khưu, thật đã khéo đạt được cho các ngươi! Các ngươi đã đạt được cơ hội để sống đời Phạm hạnh.  
‘‘Diṭṭhā mayā, bhikkhave, cha phassāyatanikā nāma saggā. Tattha yaṃ kiñci cakkhunā rūpaṃ passati iṭṭharūpaṃyeva passati, no aniṭṭharūpaṃ. Kantarūpaṃyeva passati, no akantarūpaṃ. Manāparūpaṃyeva passati, no amanāparūpaṃ. Yaṃ kiñci sotena saddaṃ suṇāti …pe… ghānena …pe… jivhāya …pe… kāyena …pe… manasā dhammaṃ vijānāti iṭṭhadhammaṃyeva vijānāti, no aniṭṭhadhammaṃ. Kantadhammaṃyeva vijānāti, no akantadhammaṃ. Manāpadhammaṃyeva vijānāti, no amanāpadhammaṃ. Lābhā vo, bhikkhave, suladdhaṃ vo, bhikkhave, khaṇo vo, bhikkhave, paṭiladdho brahmacariyavāsāyā’’ti. Ayaṃ vipāko. Này các tỳ khưu, Ta nhìn thấy cõi Trời tên Sáu Xúc Xứ. Ở đấy, bất cứ  sắc nào nhìn thấy bằng mắt thì nhìn thấy mỗi sắc được ước muốn, không phải sắc không được ước muốn, nhìn thấy mỗi sắc được ưa thích, không phải sắc không được ưa thích, nhìn thấy mỗi sắc hợp ý, không phải sắc không hợp ý, bất cứ thinh nào nghe bằng tai ―nt― bằng mũi ―nt― bằng lưỡi ―nt― bằng thân ―nt― bất cứ pháp nào nhận biết bằng ý thì nhận biết mỗi pháp được ước muốn, không phải pháp không được ước muốn, nhận biết mỗi pháp được ưa thích, không phải pháp không được ưa thích, nhận biết mỗi pháp hợp ý, không phải pháp không hợp ý. Này các tỳ khưu, thật lợi ích cho các ngươi! Này các tỳ khưu, thật đã khéo đạt được cho các ngươi! Các ngươi đã đạt được cơ hội để sống đời Phạm hạnh.”  Đây là quả thành tựu. 
‘‘Saṭṭhivassasahassāni, paripuṇṇāni sabbaso; 40. “Trong khi bị nung nấu ở địa ngục với mọi hình thức, tròn đủ sáu chục ngàn năm, khi nào sẽ là sự chấm dứt (cho chúng tôi)? ” 
Niraye paccamānānaṃ [paccamānassa (ka.) passa pe. va. 802], kadā anto bhavissati.  
‘‘Natthi anto kuto anto, na anto paṭidissati [patidissati (sī.) jā. 1.4.55]; Tadā hi pakataṃ pāpaṃ, tuyhaṃ mayhañca mārisā’’ti. 41. “Không có sự chấm dứt. Do đâu có sự chấm dứt? Sự chấm dứt không được nhìn thấy. Này các ông, bởi vì khi ấy, tội ác của tôi và của ông đã được tạo ra.” 1 
Ayaṃ vipāko. Đây là quả thành tựu. 
121. Tattha katamaṃ kammañca vipāko ca? (21) Ở đấy, cái nào là nghiệp và quả thành tựu? 
‘‘Adhammacārī hi naro pamatto, yahiṃ yahiṃ gacchati duggatiṃ yo; So naṃ adhammo carito hanāti, sayaṃ gahīto yathā kaṇhasappo.  42. “Bởi vì người có sự thực hành sai pháp là người bị xao lãng, bất cứ khổ cảnh nào người ấy đi đến,  việc sai pháp đã được thực hành ấy hành hạ người ấy, giống như con rắn đen đã bị giữ lại bởi chính nó.” 
‘‘Na hi [passa theragā. 304] dhammo adhammo ca, ubho samavipākino; Adhammo nirayaṃ neti, dhammo pāpeti suggati’’nti. 43. “Bởi vì Chánh Pháp và Phi Chánh Pháp, cả hai không có quả thành tựu giống nhau: Phi Chánh Pháp dẫn đến địa ngục, Chánh Pháp giúp cho thành tựu nhàn cảnh.”
Idaṃ kammañca vipāko ca. Đây là nghiệp và quả thành tựu. 
‘‘Mā, bhikkhave, puññānaṃ bhāyittha, sukhassetaṃ, bhikkhave, adhivacanaṃ iṭṭhassa kantassa piyassa manāpassa yadidaṃ puññāni. Abhijānāmi kho panāhaṃ, bhikkhave, dīgharattaṃ katānaṃ puññānaṃ iṭṭhaṃ [dīgharattaṃ iṭṭhaṃ (sī. ka.) passa itivu. 22] kantaṃ piyaṃ manāpaṃ vipākaṃ paccanubhūtaṃ, satta vassāni mettacittaṃ bhāvetvā satta saṃvaṭṭavivaṭṭakappe na imaṃ [na yimaṃ (itivu. 22)] lokaṃ punarāgamāsiṃ. Saṃvaṭṭamāne sudāhaṃ, bhikkhave, kappe ābhassarūpago homi. Vivaṭṭamāne kappe suññaṃ brahmavimānaṃ upapajjāmi. Tatra sudāhaṃ [sudaṃ (itivu. 22)], bhikkhave, brahmā homi mahābrahmā abhibhū anabhibhūto aññadatthudaso vasavattī. Chattiṃsakkhattuṃ kho panāhaṃ, bhikkhave, sakko ahosiṃ devānamindo, anekasatakkhattuṃ rājā ahosiṃ cakkavattī [cakkavatti (ka.)] dhammiko dhammarājā cāturanto vijitāvī janapadatthāvariyappatto sattaratanasamannāgato, ko pana vādo padesarajjassa? Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi ‘kissa nu kho me idaṃ kammassa phalaṃ, kissa kammassa vipāko, yenāhaṃ etarahi evaṃmahiddhiko evaṃmahānubhāvo’ti. Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi ‘tiṇṇaṃ kho me idaṃ kammānaṃ phalaṃ, tiṇṇaṃ kammānaṃ vipāko. Yenāhaṃ etarahi evaṃmahiddhiko evaṃmahānubhāvo’ti. Seyyathidaṃ, dānassa damassa saṃyamassā’’ti. Tattha yañca dānaṃ yo ca damo yo ca saṃyamo, idaṃ kammaṃ. Yo tappaccayā vipāko paccanubhūto, ayaṃ vipāko. Tathā cūḷakammavibhaṅgo vattabbo.  “Này các tỳ khưu, chớ sợ hãi đối với các phước thiện. Này các tỳ khưu, việc này là từ biểu trưng của sự an lạc, của điều được ước muốn, được ưa thích, đáng yêu, hợp ý, tức là ‘các phước thiện.’ Hơn nữa, này các tỳ khưu, Ta biết rõ về quả thành tựu được ước muốn, được ưa thích, đáng yêu, hợp ý, đã được kinh nghiệm trong một thời gian dài của các việc phước thiện đã được làm trong một thời gian dài. Sau khi tu tập tâm từ trong bảy năm, Ta đã không trở lại thế gian này trong bảy thành và hoại kiếp. Này các tỳ  khưu, vào giai đoạn thành kiếp Ta đi đến cõi Quang Âm Thiên, vào giai đoạn hoại kiếp Ta sanh lên Phạm Thiên Cung trống không. Này các tỳ  khưu, tại nơi ấy Ta là Phạm Thiên, Đại Phạm Thiên, đấng chúa tể, bậc không bị chế ngự, bậc nhìn thấy tất cả, bậc vận hành quyền lực. Này các tỳ  khưu, hơn nữa, ba mươi sáu lần Ta đã là Sakka, Chúa của chư Thiên.   Nhiều trăm lần Ta đã là vị Chuyển Luân Vương, bậc công minh, đấng pháp vương, bậc cai trị bốn phương, bậc chiến thắng, bậc đã đạt được sự ổn định của xứ sở, bậc có đầy đủ bảy vật báu, thì còn có lời nói gì đến vương quyền của địa phận?  Này các tỳ khưu, Ta đây đã khởi ý điều này: ‘Đối với Ta, việc này là quả  báu của nghiệp nào, là quả thành tựu của nghiệp nào, nhờ vào nó hiện nay Ta có đại thần lực như vầy, có đại oai lực như vầy?’ Này các tỳ khưu, Ta đây đã khởi ý điều này: ‘Đối với Ta, việc này là quả báu của ba nghiệp, là quả thành tựu của ba nghiệp, nhờ vào nó hiện nay Ta có đại thần lực như  vầy, có đại oai lực như vầy,’ tức là của sự bố thí, của sự rèn luyện, của sự  chế ngự.” Ở đấy, sự bố thí, sự rèn luyện, sự chế ngự là nghiệp. Quả thành tựu đã được kinh nghiệm do duyên của việc ấy là quả thành tựu.  Kinh Cullakammavibhaṅga,
Yaṃ subhassa māṇavassa todeyyaputtassa desitaṃ. Tattha ye dhammā appāyukadīghāyukatāya saṃvattanti bahvābādhaappābādhatāya appesakkhamahesakkhatāya dubbaṇṇasuvaṇṇatāya nīcakulikauccakulikatāya appabhogamahābhogatāya duppaññapaññavantatāya ca saṃvattanti, idaṃ kammaṃ. Yā tattha appāyukadīghāyukatā …pe… duppaññapaññavantatā, ayaṃ vipāko. Idaṃ kammañca vipāko ca. Bài Kinh chỉ bảo cho thanh niên Subha Todeyya, nên được nói đến như thế. Ở đấy, các pháp nào vận hành đưa đến tình trạng đoản thọ và trường thọ, vận hành đưa đến tình trạng nhiều bệnh và ít bệnh, đưa đến tình trạng có ít quyền thế và có quyền thế lớn, đưa đến tình trạng xấu sắc và đẹp sắc, đưa đến tình trạng gia tộc thấp kém và gia tộc cao sang, đưa đến tình trạng ít tài sản và tài sản lớn, đưa đến tình trạng tuệ  tồi và có tuệ, cái này là nghiệp. Ở đấy, tình trạng đoản thọ và trường thọ  ―nt― tình trạng tuệ tồi và có tuệ là quả thành tựu.  Đây là nghiệp và quả thành tựu. 
122. Tattha katamaṃ kusalaṃ? (22) Ở đấy, cái nào là thiện? 
‘‘Vācānurakkhī manasā susaṃvuto, kāyena ca nākusalaṃ kayirā [akusalaṃ na kayirā (sī.) passa dha. pa. 281];  44. “Người có sự gìn giữ lời nói, đã khéo thu thúc về tâm, không nên làm việc bất thiện bằng thân,  nên làm trong sạch ba đường lối tạo nghiệp này, nên thành đạt đạo lộ đã được tuyên thuyết bởi các bậc Ẩn Sĩ.”
Ete tayo kammapathe visodhaye, ārādhaye maggamisippavedita’’nti.  
Idaṃ kusalaṃ. Đây là thiện.
‘‘Yassa kāyena vācāya, manasā natthi dukkaṭaṃ; Saṃvutaṃ tīhi ṭhānehi, tamahaṃ brūmi brāhmaṇa’’nti. 45. “Đối với vị nào không có việc làm quấy do thân, do khẩu, do ý, (và) đã được thu thúc ở ba nơi (thân khẩu ý), Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.”
Idaṃ kusalaṃ. Đây là thiện. 
‘‘Tīṇimāni, bhikkhave, kusalamūlāni. Katamāni tīṇi? Alobho kusalamūlaṃ, adoso kusalamūlaṃ, amoho kusalamūlaṃ. Imāni kho, bhikkhave, tīṇi kusalamūlāni. Idaṃ kusalaṃ. ‘‘Vijjā, bhikkhave [vijjā ca kho bhikkhave (saṃyuttanikāye)], pubbaṅgamā kusalānaṃ dhammānaṃ samāpattiyā anudeva [anvadeva (sī. ka.), syādikaṇḍe (moggallāne) 11 suttaṃ passitabbaṃ] hirī ottappañcā’’ti. Idaṃ kusalaṃ.  “Này các tỳ khưu, đây là ba gốc rễ của thiện. Ba cái nào? Vô tham là gốc rễ của thiện, vô sân là gốc rễ của thiện, vô si là gốc rễ của thiện. Này các tỳ  khưu, đây là ba gốc rễ của thiện.”  Đây là thiện.  “Này các tỳ khưu, minh là sự đi trước trong việc thành tựu các pháp thiện, theo sau là hổ thẹn (tội lỗi) và ghê sợ (tội lỗi).”  Đây là thiện. 
Tattha katamaṃ akusalaṃ? (23) Ở đấy, cái nào là bất thiện? 
‘‘Yassa accanta dussīlyaṃ, māluvā sālamivotthataṃ; Karoti so tathattānaṃ, yathā naṃ icchatī diso’’ti. 46. “Ví như dây leo māluva trùm lên cây sālā, người có giới tồi tệ quá mức tạo ra cho bản thân điều mà kẻ thù mong muốn gây ra cho người ấy.”
Idaṃ akusalaṃ. Đây là bất thiện. 
‘‘Attanā hi kataṃ pāpaṃ, attajaṃ attasambhavaṃ; 47. “Việc ác đã do chính ta làm, do ta tạo ra, có nguồn sanh khởi từ nơi ta. Việc ác nghiền nát kẻ kém trí tuệ, ví như kim cương nghiền nát viên ngọc ma-ni làm bằng đá.”
Abhimatthati [abhimanthati (sī.) passa dha. pa. 161] dummedhaṃ, vajiraṃvasmamayaṃ maṇi’’nti.  
Idaṃ akusalaṃ. Đây là bất thiện. 
‘‘Dasa kammapathe niseviya, akusalākusalehi vivajjitā; Garahā ca bhavanti devate, bālamatī nirayesu paccare’’ti. 48. “Sau khi thực hành mười đường lối hành động, các pháp bất thiện được xa lìa với các pháp thiện.  Này Thiên nhân, chúng là bị chê trách.  những kẻ ngu bị nung nấu ở các địa ngục.” 
Idaṃ akusalaṃ. Đây là bất thiện. 
‘‘Tīṇimāni, bhikkhave, akusalamūlāni [passa a. ni. 3.70], katamāni tīṇi? Lobho akusalamūlaṃ, doso akusalamūlaṃ, moho akusalamūlaṃ. Imāni kho, bhikkhave, tīṇi akusalamūlāni’’. Idaṃ akusalaṃ. “Này các tỳ khưu, đây là ba gốc rễ của bất thiện. Ba cái nào? Tham là gốc rễ của bất thiện, sân là gốc rễ của bất thiện, si là gốc rễ của bất thiện.  Này các tỳ khưu, đây là ba gốc rễ của bất thiện.”  Đây là bất thiện. 
Tattha katamaṃ kusalañca akusalañca? (24) Ở đấy, cái nào là thiện và bất thiện? 
‘‘Yādisaṃ [saṃ. ni. 1.256] vapate bījaṃ, tādisaṃ harate phalaṃ; Kalyāṇakārī kalyāṇaṃ, pāpakārī ca pāpaka’’nti. 49. “Gieo loại hạt giống như thế nào thì mang lại kết quả như thế ấy.  Người làm lành (mang lại) điều lành, và người làm ác (mang lại) điều ác.”
Tattha yaṃ āha ‘‘kalyāṇakārī kalyāṇa’’nti, idaṃ kusalaṃ. Yaṃ āha ‘‘pāpakārī ca pāpaka’’nti, idaṃ akusalaṃ. Idaṃ kusalañca akusalañca.  Ở đấy, điều đã được nói: ‘ Người làm lành (mang lại) điều lành’ là thiện; điều đã được nói: ‘ Người làm ác (mang lại) điều ác’ là bất thiện.  Đây là thiện và bất thiện. 
‘‘Subhena kammena vajanti suggatiṃ, apāyabhūmiṃ asubhena kammunā; Khayā ca kammassa vimuttacetaso, nibbanti te jotirivindhanakkhayā’’. 50. “Chúng đi đến nhàn cảnh do nghiệp tốt đẹp, đến vùng đất bất hạnh do nghiệp không tốt đẹp, và do sự cạn kiệt của nghiệp, do tâm đã được giải thoát, chúng tịch diệt, tựa như ngọn lửa do sự cạn kiệt của nhiên liệu.” 
Tattha yaṃ āha ‘‘subhena kammena vajanti suggati’’nti, idaṃ kusalaṃ. Yaṃ āha ‘‘apāyabhūmiṃ asubhena kammunā’’ti, idaṃ akusalaṃ. Idaṃ kusalañca akusalañca.  Ở đấy, điều đã được nói: ‘ Chúng đi đến nhàn cảnh do nghiệp tốt đẹp’ là thiện; điều đã được nói: ‘ Đến vùng đất bất hạnh do nghiệp không tốt đẹp’ là bất thiện.  Đây là thiện và bất thiện. 
123. Tattha katamaṃ anuññātaṃ? (25) Ở đấy, điều nào là được cho phép? 
‘‘Yathāpi bhamaro pupphaṃ, vaṇṇagandhamaheṭhayaṃ [vaṇṇagandhaṃ aheṭhayaṃ (sī.) passa dha. pa. 49]; 51. “Cũng giống như loài ong lấy mật rồi bay đi mà không gây tổn hại đến bông hoa, vẻ đẹp, và hương thơm (của nó), bậc hiền trí đi (khất thực) ở  trong làng là tương tự như thế.”
Paleti [paḷeti (ka.)] rasamādāya, evaṃ gāme munī care’’ti.  
Idaṃ anuññātaṃ. Đây là điều được cho phép. 
‘‘Tīṇimāni, bhikkhave, bhikkhūnaṃ karaṇīyāni. Katamāni tīṇi, idha, bhikkhave, bhikkhu pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati ācāragocarasampanno aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī, samādāya sikkhati sikkhāpadesu, kāyakammavacīkammena samannāgato kusalena parisuddhājīvo. Āraddhavīriyo kho pana hoti thāmavā daḷhaparakkamo anikkhittadhuro akusalānaṃ dhammānaṃ pahānāya kusalānaṃ dhammānaṃ bhāvanāya sacchikiriyāya. Paññavā kho pana hoti udayatthagāminiyā paññāya samannāgato ariyāya nibbedhikāya sammā dukkhakkhayagāminiyā. Imāni kho, bhikkhave, bhikkhūnaṃ tīṇi karaṇīyānī’’ti. Idaṃ anuññātaṃ.  “Này các tỳ khưu, đây là ba việc cần được làm đối với các vị tỳ khưu.  Ba việc nào? Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống thu thúc với sự thu thúc trong giới bổn Pātimokkha, được thành tựu về hạnh kiểm và hành xứ, thấy sự sợ hãi trong các tội nhỏ nhặt, thọ trì và thực hành trong các điều học, được đầy đủ về thân nghiệp và khẩu nghiệp thiện, có sự nuôi mạng được trong sạch; hơn nữa là vị có sự ra sức tinh tấn, có sự kiên định, có sự  ra sức vững chãi, không buông bỏ nhiệm vụ nhằm dứt bỏ các bất thiện pháp, nhằm tu tập, nhằm chứng ngộ các thiện pháp; hơn nữa là vị có tuệ, được thành tựu về tuệ hướng đến sự sanh diệt, góp phần vào sự thấu triệt cao thượng, đưa đến sự cạn kiệt hoàn toàn của khổ. Này các tỳ khưu, đây là ba việc cần được làm đối với các vị tỳ khưu.”  Đây là điều được cho phép. 
‘‘Dasayime [dasa ime (sī. ka.) passa a. ni. 10.48], bhikkhave, dhammā pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbā. Katame dasa? ‘Vevaṇṇiyamhi ajjhupagato’ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ …pe… ime kho bhikkhave dasa dhammā pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbā’’ti. Idaṃ anuññātaṃ.  “Này các tỳ khưu, đây là mười pháp nên được quán xét thường xuyên bởi vị xuất gia. Mười pháp nào? ‘Ta đã đi đến tình trạng không có giai cấp’  là nên được quán xét thường xuyên bởi vị xuất gia. ―nt― Này các tỳ khưu, mười pháp này nên được quán xét thường xuyên bởi vị xuất gia.”  Đây là điều được cho phép. 
‘‘Tīṇimāni, bhikkhave, karaṇīyāni. Katamāni tīṇi? Kāyasucaritaṃ vacīsucaritaṃ manosucaritanti.  “Này các tỳ khưu, đây là ba việc nên làm. Ba việc nào? Thiện hạnh về  thân, thiện hạnh về khẩu, thiện hạnh về ý. 
Imāni kho, bhikkhave, tīṇi karaṇīyānī’’ti. Idaṃ anuññātaṃ. Thật vậy, này các tỳ khưu, đây là ba việc nên làm.”  Đây là điều được cho phép. 
Tattha katamaṃ paṭikkhittaṃ? (26) Ở đấy, điều nào là bị từ khước? 
‘‘Natthi puttasamaṃ pemaṃ, natthi gosamitaṃ [goṇasamaṃ (ka.) passa saṃ. ni. 1.13] dhanaṃ; 52. “Không có tình thương nào sánh bằng (tình thương đối với) con cái, không có tài sản nào tương đương trâu bò, không có ánh sáng nào sánh bằng mặt trời, (trong số) các hồ nước, biển cả là hạng nhất.” 
Natthi sūriyasamā [suriyasamā (sī.)] ābhā, samuddaparamā sarā’’ti.  
Bhagavā āha – Đức Thế Tôn đã nói rằng: 
‘‘Natthi attasamaṃ pemaṃ, natthi dhaññasamaṃ dhanaṃ; Natthi paññāsamā ābhā, vuṭṭhiveparamā sarā’’ti. Ettha yaṃ purimakaṃ, idaṃ paṭikkhittaṃ. 53. “Không có tình thương nào sánh bằng (tình thương đối với) bản thân, không có tài sản nào sánh bằng thóc lúa, không có ánh sáng nào sánh bằng trí tuệ, (trong số) các hồ nước, mưa là hạng nhất.”  Ở đây, câu kệ trước bị từ khước. 
‘‘Tīṇimāni, bhikkhaveऋ akaraṇīyāni. Katamāni tīṇi? Kāyaduccaritaṃ vacīduccaritaṃ manoduccaritanti. Imāni kho, bhikkhave, tīṇi akaraṇīyānī’’ti. Idaṃ paṭikkhittaṃ.  “Này các tỳ khưu, đây là ba việc không nên làm. Ba việc nào? Uế hạnh về thân, uế hạnh về khẩu, uế hạnh về ý. Thật vậy, này các tỳ khưu, đây là ba việc không nên làm.”  Đây là điều bị từ khước. 
124. Tattha katamaṃ anuññātañca paṭikkhittañca? (27) Ở đấy, điều nào là được cho phép và bị từ khước? 
‘‘Kiṃsūdha bhītā janatā anekā, maggo canekāyatano pavutto [canekāyatanappavuttā (saṃ. ni. 1.75)]; 54. “Tại sao ở đây nhiều người bị sợ hãi?  Và đạo lộ với nhiều lãnh vực đã được nói ra. 
Pucchāmi taṃ gotama bhūripañña, kismiṃ ṭhito paralokaṃ na bhāyeti. Thưa vị Gotama, đấng có tuệ bao la, tôi hỏi ngài:  ‘Trú ở nơi nào, không sợ hãi đời sau? ’” 
‘‘Vācaṃ manañca paṇidhāya sammā, kāyena pāpāni akubbamāno; Bahvannapānaṃ gharamāvasanto, saddho mudū saṃvibhāgī vadaññū; Etesu dhammesu ṭhito catūsu, dhamme ṭhito paralokaṃ na bhāye’’ti. 55. “Gìn giữ đúng đắn lời nói và ý nghĩ,  không làm các việc ác bằng thân,  sống ở nhà có nhiều cơm nước,  có đức tin, hòa nhã, hào phóng, ân cần,  trú ở bốn pháp này,  trú vào Giáo Pháp, không sợ hãi đời sau.” 
Tattha yaṃ āha ‘‘vācaṃ manañca paṇidhāya sammā’’ti, idaṃ anuññātaṃ. ‘‘Kāyena pāpāni akubbamāno’’ti, idaṃ paṭikkhittaṃ. ‘‘Bahvannapānaṃ gharamāvasanto, saddho mudū saṃvibhāgī vadaññū. Etesu dhammesu ṭhito catūsu, dhamme ṭhito paralokaṃ na bhāye’’ti, idaṃ anuññātaṃ. Idaṃ anuññātañca paṭikkhittañca.  Ở đấy, điều đã được nói: ‘ Gìn giữ đúng đắn lời nói và ý nghĩ’ là điều được cho phép; ‘ không làm các việc ác bằng thân’ là điều bị từ khước ; ‘sống ở nhà có nhiều cơm nước, có đức tin, hòa nhã, hào phóng, ân cần, trú ở bốn pháp này, trú vào Giáo Pháp, không sợ hãi đời sau’ là điều được cho phép.  Đây là điều được cho phép và bị từ khước. 
‘‘Sabbapāpassa akaraṇaṃ, kusalassa upasampadā; 56. “Không làm mọi điều ác, thành tựu việc thiện, thanh lọc tâm của mình, điều này là lời giáo huấn của chư Phật.”
Sacittapariyodāpanaṃ, etaṃ buddhānasāsanaṃ’’.  
Tattha yaṃ āha ‘‘sabbapāpassa akaraṇa’’nti, idaṃ paṭikkhittaṃ, yaṃ āha ‘‘kusalassa upasampadā’’ti, idaṃ anuññātaṃ. Idaṃ anuññātañca paṭikkhittañca.  Ở đấy, điều đã được nói: ‘ Không làm mọi điều ác’ là điều bị từ khước; điều đã được nói: ‘ thành tựu việc thiện’ là điều được cho phép.  Đây là điều được cho phép và bị từ khước. 
‘‘Kāyasamācārampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi asevitabbampi. Vacīsamācārampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi asevitabbampi. Manosamācārampāhaṃ devānaminda, duvidhena vadāmi …pe… pariyesanampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi asevitabbampi’’.  “Về hành vi của thân, này Chúa của chư Thiên, Ta nói theo hai loại: ‘ nên được hành trì, không nên được hành trì.’ Về hành vi của khẩu, này Chúa của chư Thiên, Ta nói theo hai loại: ‘ nên được hành trì, không nên được hành trì.’ Về hành vi của ý, này Chúa của chư Thiên, Ta nói theo hai loại: ―nt― Về  sự tầm cầu, này Chúa của chư Thiên, Ta nói theo hai loại: ‘ nên được hành trì, không nên được hành trì.’ 
‘‘Kāyasamācārampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi asevitabbampī’’ti iti kho panetaṃ vuttaṃ, kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ. Yathārūpañca kho kāyasamācāraṃ sevato akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyanti, evarūpo kāyasamācāro na sevitabbo. Tattha yaṃ jaññā kāyasamācāraṃ ‘‘imaṃ [idaṃ (ka.) passa dī. ni. 2.364] kho me kāyasamācāraṃ sevato akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhantī’’ti, evarūpo kāyasamācāro sevitabbo. ‘‘Kāyasamācārampāhaṃ devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi asevitabbampī’’ti iti yaṃ taṃ vuttaṃ, idametaṃ paṭicca vuttaṃ. ‘‘Vacīsamācāraṃ …pe… ‘‘pariyesanampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi asevitabbampī’’ti iti kho panetaṃ vuttaṃ, kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ. Yathārūpañca kho pariyesanaṃ sevato akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyanti, evarūpā pariyesanā na sevitabbā. Tattha yaṃ jaññā pariyesanaṃ ‘‘imaṃ kho me pariyesanaṃ sevato akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhantī’’ti, evarūpā pariyesanā sevitabbā. ‘‘Pariyesanampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi asevitabbampī’’ti iti yaṃ taṃ vuttaṃ, idametaṃ paṭicca vuttaṃ.  Về hành vi của thân, này Chúa của chư Thiên, Ta nói theo hai loại: ‘ nên được hành trì, không nên được hành trì.’ Điều này quả thật được nói như  thế, và điều này được nói tùy thuộc vào điều gì? Thật vậy, khi một người hành trì hành vi của thân có hình thức như thế nào mà các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp giảm thiểu, thì hành vi của thân có hình thức như thế ấy không nên được hành trì. Ở đấy, nếu có thể biết về hành vi nào của thân rằng: ‘ Khi tôi hành trì hành vi này của thân, các bất thiện pháp giảm thiểu, các thiện pháp tăng trưởng,’ thì hành vi của thân có hình thức như vậy nên được hành trì. Về hành vi của thân, này Chúa của chư Thiên, Ta nói theo hai loại: ‘ nên được hành trì, không nên được hành trì.’ Điều ấy được nói như thế, và điều này được nói tùy thuộc vào điều ấy. Về hành vi của khẩu ―nt―  Về sự tầm cầu, này Chúa của chư Thiên, Ta nói theo hai loại: ‘ nên được hành trì, không nên được hành trì.’ Điều này quả thật được nói như thế, và điều này được nói tùy thuộc vào điều gì? Thật vậy, khi một người hành trì sự  tầm cầu có hình thức như thế nào mà các bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp giảm thiểu, thì sự tầm cầu có hình thức như thế ấy không nên được hành trì. Ở đấy, nếu có thể biết về sự tầm cầu nào rằng: ‘ Khi tôi hành trì sự tầm cầu này, các bất thiện pháp giảm thiểu, các thiện pháp tăng trưởng,’ thì sự tầm cầu có hình thức như vậy nên được hành trì. Về sự tầm cầu, này Chúa của chư Thiên, Ta nói theo hai loại: ‘ nên được hành trì, không nên được hành trì.’ Điều ấy được nói như thế, và điều này được nói tùy thuộc vào điều ấy.
Tattha yaṃ āha ‘‘sevitabbampī’’ti, idaṃ anuññātaṃ. Yaṃ āha ‘‘na sevitabbampī’’ti, idaṃ paṭikkhittaṃ. Idaṃ anuññātañca paṭikkhittañca. Ở đấy, điều đã được nói: ‘ Nên được hành trì’ là điều được cho phép; điều đã được nói: ‘ Không nên được hành trì’ là điều bị từ khước.  Đây là điều được cho phép và bị từ khước. 
170. Tattha katamo thavo? (28) Ở đấy, điều nào là sự ca tụng? 
‘‘Maggānaṭṭhaṅgiko [passa dha. pa. 273] seṭṭho, saccānaṃ caturo padā; Virāgo seṭṭho dhammānaṃ, dvipadānañca cakkhumā’’ti.  57. “Trong số các đạo lộ, (đạo lộ) Tám Chi Phần là hạng nhất. Trong số  các chân lý, bốn thuật ngữ (về bốn Thánh Đế là hạng nhất). Trong số các pháp, không luyến ái là hạng nhất. Và trong số các loài hai chân, bậc Hữu Nhãn (đức Như Lai là hạng nhất).”
Ayaṃ thavo. Đây là sự ca tụng.
‘‘Tīṇimāni, bhikkhave, aggāni. Katamāni tīṇi? Yāvatā, bhikkhave, sattā apadā vā dvipadā vā catuppadā vā bahuppadā vā rūpino vā arūpino vā saññino vā asaññino vā nevasaññīnāsaññino vā, tathāgato tesaṃ aggamakkhāyati seṭṭhamakkhāyati pavaramakkhāyati, yadidaṃ arahaṃ sammāsambuddho. Yāvatā, bhikkhave, dhammānaṃ [a. ni. 4.34; itivu. 81 passitabbaṃ] paṇṇattisaṅkhatānaṃ vā asaṅkhatānaṃ vā, virāgo tesaṃ dhammānaṃ aggamakkhāyati seṭṭhamakkhāyati pavaramakkhāyati, yadidaṃ madanimmadano …pe… nirodho nibbānaṃ. Yāvatā, bhikkhave, saṅghānaṃ paṇṇatti gaṇānaṃ paṇṇatti mahājanasannipātānaṃ paṇṇatti, tathāgatasāvakasaṅgho tesaṃ aggamakkhāyati seṭṭhamakkhāyati pavaramakkhāyati, yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā …pe… puññakkhettaṃ lokassāti.  “Này các tỳ khưu, ba đối tượng này là tối cao. Ba đối tượng nào? Này các tỳ khưu, so sánh với các chúng sanh không chân, hoặc hai chân, hoặc bốn chân, hoặc nhiều chân, hoặc có sắc, hoặc vô sắc, hoặc có tưởng hoặc vô tưởng, hoặc phi tưởng phi phi tưởng, đức Như Lai được gọi là tối cao, được gọi là hạng nhất, được gọi là cao quý trong số ấy, tức là bậc A-la-hán, đấng Chánh Đẳng Giác.  Này các tỳ khưu, so sánh với sự mô tả về các pháp hữu vi hoặc vô vi, sự  xa lìa luyến ái được gọi là tối cao, được gọi là hạng nhất, được gọi là cao quý trong số các pháp ấy, tức là sự nghiền nát say đắm, ―nt― sự tịch diệt, Niết Bàn. Này các tỳ khưu, so sánh với sự mô tả về các hội chúng, sự mô tả về các tập thể, sự mô tả về các tập hợp của nhiều người, hội chúng Thinh Văn của đức Như Lai được gọi là tối cao, được gọi là hạng nhất, được gọi là cao quý trong số ấy, tức là bốn cặp hạng người (bốn đôi Đạo Quả), tám hạng người tính đơn (bốn Đạo và bốn Quả là tám) ―nt― là nơi để gieo trồng phước báu của thế gian.” 
‘‘Sabbalokuttaro satthā, dhammo ca kusalakkhato [kusalamakkhato (ka.)]; Gaṇo ca narasīhassa, tāni tīṇi vississare. 58. “Bậc Đạo Sư vượt trội tất cả thế gian, Giáo Pháp tốt lành không lỗi lầm, và Hội Chúng của đấng Nhân Sư, ba (báu vật) ấy được nổi bật. 
‘‘Samaṇapadumasañcayo gaṇo, dhammavaro ca vidūnaṃ sakkato; Naravaradamako ca cakkhumā, tāni tīṇi lokassa uttari. 59. Hội Chúng là tập thể các vị Sa-môn tựa như hoa sen, Giáo Pháp cao quý được trân trọng bởi những người hiểu biết, và đấng Hữu Nhãn là huấn luyện viên cao quý của loài người, ba (báu vật) ấy là vượt trội thế gian. 
‘‘Satthā ca appaṭisamo, dhammo ca sabbo nirupadāho; Ariyo ca gaṇavaro, tāni khalu vississare tīṇi. 60. Bậc Đạo Sư là không người sánh bằng,  toàn bộ Giáo Pháp là không có sự đốt nóng,  và Hội Chúng cao quý là thánh thiện.  ba (báu vật) ấy thật sự được nổi bật. 
‘‘Saccanāmo jino khemo sabbābhibhū, saccadhammo natthañño tassa uttari; Ariyasaṅgho niccaṃ viññūnaṃ pūjito, tāni tīṇi lokassa uttari. 61. Đấng Chiến Thắng, Bình Yên, có tên là Sự Thật, vị Khuất Phục Tất Cả có Giáo Pháp về Sự Thật, không có giáo pháp nào khác vượt trội Giáo Pháp ấy, Thánh Chúng thường xuyên được các bậc tri thức tôn vinh, ba (báu vật) ấy là vượt trội thế gian.” 
‘‘Ekāyanaṃ jātikhayantadassī, maggaṃ pajānāti hitānukampī;  62. “Vị nhìn thấy sự tiêu hoại và chấm dứt của sanh, có lòng thương tưởng đến điều lợi ích, nhận biết con đường độc đạo.
Etena maggena tariṃsu pubbe, tarissanti ye ca [ye cāpi (sī. ka.) passa saṃ. ni. 5.384] taranti oghaṃ. Trong thời quá khứ  các vị đã vượt qua, (trong thời vị lai) các vị sẽ vượt qua, và (trong thời hiện tại) các vị đang vượt qua dòng lũ bằng con đường này.
‘‘Taṃ tādisaṃ devamanussaseṭṭhaṃ; Chúng sanh mong mỏi sự thanh tịnh (Niết Bàn) xin kính lễ Ngài, bậc như thế ấy, vị hạng nhất của chư Thiên và nhân loại.” 
Sattā namassanti visuddhipekkhā’’ti.  
Ayaṃ thavoti. Đây là sự ca tụng. 
Tattha lokiyaṃ suttaṃ dvīhi suttehi niddisitabbaṃ saṃkilesabhāgiyena ca vāsanābhāgiyena ca. Lokuttaraṃpi suttaṃ tīhi suttehi niddisitabbaṃ dassanabhāgiyena ca bhāvanābhāgiyena ca asekkhabhāgiyena ca. Lokiyañca lokuttarañca. Yasmiṃ sutte yaṃ yaṃ padaṃ dissati saṃkilesabhāgiyaṃ vā vāsanābhāgiyaṃ vā, tena tena lokiyanti niddisitabbaṃ, dassanabhāgiyaṃ vā bhāvanābhāgiyaṃ vā asekkhabhāgiyaṃ vā yaṃ yaṃ padaṃ dissati tena tena lokuttaranti niddisitabbaṃ. Ở đấy, Kinh hợp thế nên được diễn giải theo hai kinh: liên quan đến phiền não và liên quan đến huân tập. Còn Kinh xuất thế nên được diễn giải theo ba kinh: liên quan đến việc thấy, liên quan đến tu tập, và liên quan đến bậc Vô Học. Ở Kinh hợp thế và xuất thế: mỗi khi có bất cứ thuật ngữ nào được thấy là liên quan đến phiền não, hoặc liên quan đến huân tập, thì nên diễn giải thuật ngữ ấy là ‘hợp thế;’ mỗi khi có bất cứ thuật ngữ nào được thấy là liên quan đến việc thấy, hoặc liên quan đến tu tập, hoặc liên quan đến bậc Vô Học, thì nên diễn giải thuật ngữ ấy là ‘xuất thế.’ 
Vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ saṃkilesabhāgiyassa suttassa nigghātāya, dassanabhāgiyaṃ suttaṃ vāsanābhāgiyassa suttassa nigghātāya, bhāvanābhāgiyaṃ suttaṃ dassanabhāgiyassa suttassa paṭinissaggāya, asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ bhāvanābhāgiyassa suttassa paṭinissaggāya, asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ diṭṭhadhammasukhavihāratthaṃ. Kinh liên quan đến huân tập đưa đến việc loại trừ Kinh liên quan đến phiền não, Kinh liên quan đến việc thấy đưa đến việc loại trừ Kinh liên quan đến huân tập, Kinh liên quan đến việc thấy đưa đến việc buông bỏ Kinh liên quan đến huân tập, Kinh liên quan đến tu tập đưa đến việc buông bỏ Kinh liên quan đến việc thấy, Kinh liên quan đến bậc Vô Học đưa đến việc buông bỏ Kinh liên quan đến tu tập, Kinh liên quan đến bậc Vô Học với mục đích an trú lạc trong đời hiện tại. 
Lokuttaraṃ suttaṃ sattādhiṭṭhānaṃ chabbīsatiyā puggalehi niddisitabbaṃ, te tīhi suttehi samanvesitabbā dassanabhāgiyena bhāvanābhāgiyena asekkhabhāgiyena cāti. Kinh xuất thế có sự xác định chúng sanh sẽ được diễn giải với 26 hạng người. Những hạng người ấy nên được tìm kiếm với ba loại Kinh: “liên quan đến việc thấy, liên quan đến tu tập, và liên quan đến bậc Vô Học.” 
Tattha dassanabhāgiyaṃ suttaṃ pañcahi puggalehi niddisitabbaṃ ekabījinā kolaṃkolena sattakkhattuparamena saddhānusārinā dhammānusārinā cāti, dassanabhāgiyaṃ suttaṃ imehi pañcahi puggalehi niddisitabbaṃ. Bhāvanābhāgiyaṃ suttaṃ dvādasahi puggalehi niddisitabbaṃ sakadāgāmiphalasacchikiriyāya paṭipannena, sakadāgāminā, anāgāmiphalasacchikiriyāya paṭipannena, anāgāminā, antarā parinibbāyinā, upahacca parinibbāyinā, asaṅkhāraparinibbāyinā, sasaṅkhāraparinibbāyinā, uddhaṃsotena akaniṭṭhagāminā, saddhāvimuttena, diṭṭhippattena, kāyasakkhinā cāti, bhāvanābhāgiyaṃ suttaṃ imehi dvādasahi puggalehi niddisitabbaṃ. Asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ navahi puggalehi niddisitabbaṃ saddhāvimuttena, paññāvimuttena, suññatavimuttena, animittavimuttena, appaṇihitavimuttena, ubhatobhāgavimuttena samasīsinā paccekabuddhasammāsambuddhehi cāti, asekkhabhāgiyaṃ suttaṃ imehi navahi puggalehi niddisitabbaṃ. Evaṃ lokuttaraṃ suttaṃ sattādhiṭṭhānaṃ imehi chabbīsatiyā puggalehi niddisitabbaṃ.  Ở đấy, Kinh liên quan đến việc thấy sẽ được diễn giải với 5 hạng người:  “Với vị có một chủng tử (chỉ còn một lần tái sanh), với (vị tái sanh) trong các gia tộc danh giá, với vị tái sanh tối đa bảy lần, với vị có xu hướng về  niềm tin, với vị có xu hướng về Giáo Pháp.” Kinh liên quan đến việc thấy sẽ  được diễn giải với 5 hạng người. Kinh liên quan đến tu tập sẽ được diễn giải với 12 hạng người: “Với vị thực hành nhằm chứng ngộ quả Nhất Lai, với vị  Nhất Lai, với vị thực hành nhằm chứng ngộ quả Bất Lai, với vị Bất Lai, với vị viên tịch Niết Bàn vào giai đoạn đầu của đời kế tiếp, với vị viên tịch Niết Bàn vào giai đoạn cuối của đời kế tiếp, với vị Vô Hành viên tịch Niết Bàn, với vị Hữu Hành viên tịch Niết Bàn, với vị ngược dòng đi đến cõi Sắc Cứu Cánh, với vị được giải thoát do tín, với vị đạt được do kiến, với vị có thân chứng.” Kinh liên quan đến tu tập sẽ được diễn giải với 12 hạng người này.  Kinh liên quan đến bậc Vô Học sẽ được diễn giải với 9 hạng người: “Với vị  được giải thoát do tín, với vị được giải thoát do tuệ, với vị được giải thoát do không tánh, với vị được giải thoát do vô tướng, với vị được giải thoát do vô nguyện, với vị được giải thoát nhờ vào cả hai phần, với vị đắc quả A-la-hán lúc chấm dứt mạng sống, với vị Phật Độc Giác, và vị Phật Chánh Đẳng Giác.” Kinh liên quan đến bậc Vô Học sẽ được diễn giải với 9 hạng người này. Như vậy, Kinh xuất thế có sự xác định chúng sanh sẽ được diễn giải với 26 hạng người này. 
Lokiyaṃ suttaṃ sattādhiṭṭhānaṃ ekūnavīsatiyā puggalehi niddisitabbaṃ. Te caritehi niddiṭṭhā samanvesitabbā keci rāgacaritā, keci dosacaritā, keci mohacaritā, keci rāgacaritā ca dosacaritā ca, keci rāgacaritā ca mohacaritā ca, keci dosacaritā ca mohacaritā ca, keci rāgacaritā ca dosacaritā ca mohacaritā ca, rāgamukhe ṭhito rāgacarito, rāgamukhe ṭhito dosacarito, rāgamukhe ṭhito mohacarito, rāgamukhe ṭhito rāgacarito ca dosacarito ca mohacarito ca, dosamukhe ṭhito dosacarito, dosamukhe ṭhito mohacarito, dosamukhe ṭhito rāgacarito, dosamukhe ṭhito rāgacarito ca dosacarito ca mohacarito ca, mohamukhe ṭhito mohacarito, mohamukhe ṭhito rāgacarito mohamukhe ṭhito dosacarito, mohamukhe ṭhito rāgacarito ca dosacarito ca mohacarito cāti, lokiyaṃ suttaṃ sattādhiṭṭhānaṃ imehi ekūnavīsatiyā puggalehi niddisitabbaṃ.  Kinh hợp thế có sự xác định chúng sanh sẽ được diễn giải với 19 hạng người. Những hạng người ấy được diễn giải và nên được tìm kiếm theo các tánh: “Một số có tánh luyến ái, một số có tánh sân hận, một số có tánh si mê, một số có tánh luyến ái và có tánh sân hận, một số có tánh luyến ái và có tánh si mê, một số có tánh sân hận và có tánh si mê, một số có tánh luyến ái và có tánh sân hận và có tánh si mê, kẻ có tánh luyến ái bị luyến ái thâm nhập, kẻ có tánh sân hận bị luyến ái thâm nhập, kẻ có tánh si mê bị luyến ái thâm nhập, kẻ có tánh luyến ái và có tánh sân hận và có tánh si mê bị luyến ái thâm nhập, kẻ có tánh sân hận bị sân hận thâm nhập, kẻ có tánh si mê bị  sân hận thâm nhập, kẻ có tánh luyến ái bị sân hận thâm nhập, kẻ có tánh luyến ái và có tánh sân hận và có tánh si mê bị sân hận thâm nhập, kẻ có tánh si mê bị si mê thâm nhập, kẻ có tánh luyến ái bị si mê thâm nhập, kẻ có tánh sân hận bị si mê thâm nhập, kẻ có tánh luyến ái và có tánh sân hận và có tánh si mê bị si mê thâm nhập.” Kinh hợp thế có sự xác định chúng sanh sẽ được diễn giải với 19 hạng người này. 
Vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ sīlavantehi niddisitabbaṃ, te sīlavanto pañca puggalā pakatisīlaṃ samādānasīlaṃ cittappasādo samatho vipassanā cāti, vāsanābhāgiyaṃ suttaṃ imehi pañcahi puggalehi niddisitabbaṃ.  Kinh liên quan đến huân tập nên được diễn giải với người có giới. Những người có giới ấy có 5 hạng: “Giới tự nhiên, giới do thọ trì, niềm tịnh tín ở  tâm, chỉ tịnh, và minh sát.” Kinh liên quan đến huân tập nên được diễn giải với 5 hạng người này với năm pháp này.
Lokuttaraṃ suttaṃ dhammādhiṭṭhānaṃ tīhi suttehi niddisitabbaṃ dassanabhāgiyena bhāvanābhāgiyena asekkhabhāgiyena ca. Kinh xuất thế có sự xác định pháp sẽ được diễn giải với ba loại Kinh: liên quan đến việc thấy, liên quan đến tu tập, và liên quan đến bậc Vô Học. 
Lokiyañca lokuttarañca sattādhiṭṭhānañca dhammādhiṭṭhānañca ubhayena niddisitabbaṃ, ñāṇaṃ paññāya niddisitabbaṃ paññindriyena paññābalena adhipaññāsikkhāya dhammavicayasambojjhaṅgena sammādiṭṭhiyā tīraṇāya santīraṇāya dhamme ñāṇena anvaye ñāṇena khaye ñāṇena anuppāde ñāṇena anaññātaññassāmītindriyena aññindriyena aññātāvindriyena cakkhunā vijjāya buddhiyā bhūriyā medhāya, yaṃ yaṃ vā pana labbhati, tena tena paññādhivacanena niddisitabbaṃ.  Hợp thế và xuất thế có sự xác định chúng sanh và sự xác định pháp nên được diễn giải theo cả hai. Sự biết (trí) nên được diễn giải với tuệ, với tuệ  quyền, với tuệ lực, với sự học tập về thắng tuệ, với trạch pháp giác chi, với chánh kiến, với sự xét đoán, với sự phán đoán, với trí về pháp, với trí về sự  suy luận, với trí về sự diệt trừ, với trí về sự không còn tái sanh, với vị tri quyền, với dĩ tri quyền, với cụ tri quyền, với nhãn, với minh, với trí giác ngộ, với sự thông thái, với sự thông minh, hoặc hơn nữa bất cứ pháp nào được nhận lấy thì nên được diễn giải với mỗi một từ biểu trưng của tuệ ấy. 
Ñeyyaṃ atītānāgatapaccuppannehi ajjhattikabāhirehi hīnappaṇītehi dūrasantikehi saṅkhatāsaṅkhatehi kusalākusalābyākatehi saṅkhepato vā chahi ārammaṇehi niddisitabbaṃ. Ñāṇañca ñeyyañca tadubhayena niddisitabbaṃ, paññāpi ārammaṇabhūtā ñeyyaṃ, yaṃ kiñci ārammaṇabhūtaṃ ajjhattikaṃ vā bāhiraṃ vā, sabbaṃ taṃ saṅkhatena asaṅkhatena ca niddisitabbaṃ.  Điều-có-thể-biết nên được diễn giải theo quá khứ, vị lai, và hiện tại, theo nội và ngoại phần, theo thấp kém và cao sang, theo xa và gần, theo hữu vi và vô vi, theo thiện, bất thiện, và vô ký, hoặc theo sáu đối tượng một cách tóm tắt. Sự biết và điều-có-thể-biết nên được diễn giải theo cả hai. Còn tuệ, có thể  biết theo trạng thái đối tượng, bất cứ trạng thái đối tượng nào thuộc nội phần hoặc ngoại phần, tất cả điều ấy nên được diễn giải theo hữu vi và vô vi. 
Dassanaṃ bhāvanā [dassanā bhāvanā (sī.)] sakavacanaṃ paravacanaṃ visajjanīyaṃ avisajjanīyaṃ kammaṃ vipākoti sabbattha tadubhayaṃ sutte yathā niddiṭṭhaṃ, tathā upadhārayitvā labbhamānato niddisitabbaṃ, yaṃ vā pana kiñci bhagavā aññataravacanaṃ bhāsati, sabbaṃ taṃ yathāniddiṭṭhaṃ dhārayitabbaṃ.  “Sự thấy (và) sự tu tập, lời nói của Ta (và) lời nói của vị khác, điều có thể trả lời (và) điều không thể trả lời, nghiệp (và) quả thành tựu,” trong mọi trường hợp như thế, cả hai (thuật ngữ) đã được diễn giải như thế nào ở  Kinh thì nên nhận định như thế ấy rồi nên diễn giải theo điều đã được tiếp thu, hoặc hơn nữa bất cứ lời nói nào khác mà đức Thế Tôn nói, thì mọi điều ấy nên được ghi nhận theo như đã được diễn giải. 
Duvidho hetu yañca kammaṃ ye ca kilesā, samudayo kilesā. Tattha kilesā saṃkilesabhāgiyena suttena niddisitabbā. Samudayo saṃkilesabhāgiyena ca vāsanābhāgiyena ca suttena niddisitabbo. Tattha kusalaṃ catūhi suttehi niddisitabbaṃ vāsanābhāgiyena dassanabhāgiyena bhāvanābhāgiyena asekkhabhāgiyena ca. Akusalaṃ saṃkilesabhāgiyena suttena niddisitabbaṃ. Kusalañca akusalañca tadubhayena [tadubhayehi (sī.)] niddisitabbaṃ. Anuññātaṃ bhagavato anuññātāya niddisitabbaṃ, taṃ pañcavidhaṃ saṃvaro pahānaṃ bhāvanā sacchikiriyā kappiyānulomoti, yaṃ dissati tāsu tāsu bhūmīsu, taṃ kappiyānulomena niddisitabbaṃ. Paṭikkhittaṃ bhagavatā paṭikkhittakāraṇena niddisitabbaṃ. Anuññātañca paṭikkhittañca tadubhayena niddisitabbaṃ. Thavo pasaṃsāya niddisitabbo. So pañcavidhena veditabbo bhagavato dhammassa ariyasaṅghassa ariyadhammānaṃ sikkhāya lokiyaguṇasampattiyāti. Evaṃ thavo pañcavidhena niddisitabbo.  Nhân có hai loại: nghiệp và các ô nhiễm. Các ô nhiễm là Tập; ở đấy, các ô nhiễm nên được diễn giải theo Kinh liên quan đến phiền não. Tập nên được diễn giải theo Kinh liên quan đến phiền não và liên quan đến huân tập.  Ở đấy, thiện nên được diễn giải theo bốn Kinh: liên quan đến huân tập, liên quan đến việc thấy, liên quan đến tu tập, và liên quan đến bậc Vô Học.  Bất thiện nên được diễn giải [theo Kinh] liên quan đến phiền não. Thiện và bất thiện nên được diễn giải theo cả hai.  Điều được cho phép nên được diễn giải theo sự cho phép của đức Thế  Tôn. Điều ấy có 5 việc: “sự thu thúc, sự dứt bỏ, sự tu tập, sự chứng ngộ, và sự phù hợp với điều đã được làm thành đúng phép.” Việc nào được thấy ở  các phạm vi này khác, việc ấy nên được diễn giải theo điều đã được làm thành đúng phép. Điều bị từ khước bởi đức Thế Tôn nên được diễn giải theo nguyên nhân đã bị từ khước. Điều được cho phép và bị từ khước nên được diễn giải theo cả hai.  Sự ca tụng nên được diễn giải theo sự khen ngợi. Việc ấy nên được hiểu theo 5 cách: “của đức Thế Tôn, của Giáo Pháp, của Thánh Chúng, của việc học tập các pháp của bậc Thánh, của việc thành tựu đức hạnh hiệp thế.” Sự  ca tụng nên được diễn giải theo 5 cách như vậy. 
Indriyabhūmi navahi padehi niddisitabbā, kilesabhūmi navahi padehi niddisitabbā, evametāni aṭṭhārasa padāni honti nava padāni kusalāni nava padāni akusalānīti, tathāhi vuttaṃ ‘‘aṭṭhārasa mūlapadā kuhiṃ daṭṭhabbā, sāsanappaṭṭhāne’’ti. Tenāha āyasmā mahākaccāyano –  Lãnh vực về quyền nên được diễn giải theo chín thuật ngữ, lãnh vực về ô nhiễm nên được diễn giải theo chín thuật ngữ. Như vậy, mười tám thuật ngữ  này là: “Chín thuật ngữ thiện, chín thuật ngữ bất thiện.” Bởi vì, theo như  điều đã được nói: “Mười tám thuật ngữ căn bản có thể được thấy ở đâu? Ở  chương Sự Hình Thành Giáo Pháp.” Vì thế, đại đức Mahākaccāyana đã nói rằng: 
‘‘Navahi ca padehi kusalā, navahi ca yujjanti akusalappakkhā; Ete khalu mūlapadā, bhavanti aṭṭhārasa padānī’’ti. “Các pháp thiện với chín thuật ngữ và các phần bất thiện với chín (thuật ngữ) được kết nối; thật vậy, mười tám thuật ngữ này là các thuật ngữ căn bản.” 
Niyuttaṃ sāsanappaṭṭhānaṃ. Sự Hình Thành Giáo Pháp được kết thúc. 
Ettāvatā samattā netti yā āyasmatā mahākaccāyanena bhāsitā bhagavatā anumoditā mūlasaṅgītiyaṃ saṅgītāti. Cẩm Nang Học Phật được đầy đủ là chừng này. (Tập Kinh này) đã được thuyết bởi đại đức Mahākaccāyana, đã được đức Thế Tôn tùy hỷ, đã được trùng tụng ở lần Kết Tập gốc. 
Nettippakaraṇaṃ niṭṭhitaṃ.  
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa  
Khuddakanikāye