9. Mettasuttaṃ

IX. Kinh lòng từ

9. Kinh từ ái

Tipitaka.org Việt dịch: HT. Thích Minh Châu Việt dịch: TK. Indacanda
1. Karaṇīyamatthakusalena , yantasantaṃ padaṃ abhisamecca; Sakko ujū ca suhujū [sūjū (sī.)] ca, suvaco cassa mudu anatimānī.  1. Vị thiện xảo mục đích, Cần phải làm như sau: Sau khi hiểu thông suốt, Con đường an tịnh ấy, Có khả năng trực tánh, Thật sự, khéo chân trực, Dễ nói và nhu hòa, Không có gì cao mạn. 1. Việc cần làm bởi vị thiện xảo trong việc thực hành. sau khi đã thấu hiểu về vị thế an tịnh ấy là: có khả năng, ngay thẳng, chánh trực, dễ dạy, hòa nhã, và không ngã mạn thái quá.
2. Santussako ca subharo ca, appakicco ca sallahukavutti; Santindriyo ca nipako ca, appagabbho kulesvananugiddho.  2. Sống cảm thấy vừa đủ, Nuôi sống thật dễ dàng, Ít có sự rộn ràng, Sống đạm bạc, giản dị. Các căn được tịnh lạc, Khôn ngoan và thận trọng, Không xông xáo gia đình, Không tham ái, tham vọng. 2. Là người tự biết đủ, và dễ cấp dưỡng,. ít bận rộn công việc, và có lối sống nhẹ nhàng, có giác quan an tịnh, và chín chắn, không hỗn xược, không tham đắm theo các gia tộc.
3. Na ca khuddamācare kiñci, yena viññū pare upavadeyyuṃ; Sukhinova khemino hontu, sabbasattā [sabbe sattā (sī. syā.)] bhavantu sukhitattā.  3. Các hành sở của mình, Không nhỏ nhen, vụn vặt, Khiến người khác có trí, Có thể sanh chỉ trích, Mong mọi loài chúng sanh, Được an lạc, an ổn, Mong chúng chứng đạt được, Hạnh phúc và an lạc. 3. Và không nên thực hành bất cứ điều gì nhỏ nhặt. mà các bậc hiểu biết khác đã khiển trách. Mong rằng tất cả chúng sanh có được sự an lạc, có được sự an toàn. Mong rằng tất cả chúng sanh có bản thân được an lạc.
4. Ye keci pāṇabhūtatthi, tasā vā thāvarā vanavasesā; Dīghā vā yeva mahantā [mahanta (?)], majjhimā rassakā aṇukathūlā.  4. Mong tất cả những ai, Hữu tình có mạng sống, Kẻ yếu hay kẻ mạnh, Không bỏ sót một ai, Kẻ dài hay kẻ lớn, Trung thấp, loài lớn, nhỏ. 4. Bất cứ những chúng sanh nào dầu là:. yếu hoặc mạnh (tất cả) không bỏ sót, (có thân hình) dài hoặc to lớn, trung bình hoặc ngắn, nhỏ bé hay mập.
5. Diṭṭhā vā yeva adiṭṭhā [adiṭṭha (?)], ye va [ye ca (sī. syā. kaṃ. pī.)] dūre vasanti avidūre; Bhūtā va [vā (syā. kaṃ. pī. ka.)] sambhavesī va [vā (sī. syā. kaṃ. pī.)], sabbasattā bhavantu sukhitattā.  5. Loài được thấy, không thấy, Loài sống xa, không xa, Các loài hiện đang sống, Các loài sẽ được sanh, Mong mọi loài chúng sanh, Sống hạnh phúc an lạc. 5. Được nhìn thấy, hoặc không được nhìn thấy,. cư ngụ ở nơi xa và không xa, đã được hiện hữu hoặc đang tầm cầu sự thành hình, mong rằng tất cả chúng sanh có bản thân được an lạc.
6. Na paro paraṃ nikubbetha, nātimaññetha katthaci na kañci [naṃ kañci (sī. pī.), naṃ kiñci (syā.), na kiñci (ka.)]; Byārosanā paṭighasaññā, nāññamaññassa dukkhamiccheyya.  6. Mong rằng không có ai, Lường gạt, lừa dối ai, Không có ai khinh mạn, Tại bất cứ chỗ nào, Không vì giận hờn nhau,, Không vì tưởng chống đối. Lại có người mong muốn, Làm đau khổ cho nhau. 6. Người này không nên lường gạt kẻ khác,. không nên khi dễ bất cứ người nào ở bất cứ nơi đâu. Do sự giận dữ, do ý tưởng bất bình, không nên mong mỏi sự khổ đau cho lẫn nhau.
7. Mātā yathā niyaṃ puttamāyusā ekaputtamanurakkhe; Evampi sabbabhūtesu, mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ.  7. Như tấm lòng người mẹ, Đối với con của mình, Trọn đời lo che chở, Con độc nhất mình sanh. Cũng vậy, đối tất cả Các hữu tình chúng sanh, Hãy tu tập tâm ý, Không hạn lượng, rộng lớn. 7. Giống như người mẹ đối với đứa con trai của mình. nên bảo vệ đứa con trai độc nhất đến trọn đời, cũng như vậy, đối với tất cả các sanh linh, nên phát triển tâm ý vô hạn lượng.
8. Mettañca sabbalokasmi, mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ; Uddhaṃ adho ca tiriyañca, asambādhaṃ averamasapattaṃ.  8. Hãy tu tập từ tâm, Trong tất cả thế giới, Hãy tu tập tâm ý, Không hạn lượng, rộng lớn, Phía trên và phía dưới, Cũng vậy cả bề ngang, Không hạn chế, trói buộc, Không hận, không thù địch. 8. Và tâm từ ái ở tất cả thế giới,. nên phát triển tâm ý vô hạn lượng, bên trên, bên dưới, và chiều ngang, không bị ngăn trở, không thù oán, không đối nghịch.
9. Tiṭṭhaṃ caraṃ nisinno va [vā (sī. syā. kaṃ. pī.)], sayāno yāvatāssa vitamiddho [vigatamiddho (bahūsu)]; Etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya, brahmametaṃ vihāramidhamāhu.  9. Khi đứng hay khi ngồi, Khi ngồi hay khi nằm, Lâu cho đến khi nào, Khi đang còn tỉnh thức, Hãy an trú niệm này, Nếp sống này như vậy. Được đời đề cập đến, Là nếp sống tối thượng. 9. Trong khi đứng, trong khi đi, hoặc khi đã ngồi xuống,. hoặc trong khi nằm, cho đến khi nào sự buồn ngủ được xa lìa, nên chuyên chú vào niệm này, ở đây việc này được gọi là sự an trú cao thượng.
10. Diṭṭhiñca anupaggamma, sīlavā dassanena sampanno; Kāmesu vinaya [vineyya (sī.)] gedhaṃ, na hi jātuggabbhaseyya puna retīti.  10. Ai từ bỏ tà kiến, Giữ giới, đủ chánh kiến, Nhiếp phục được tham ái, Đối với các dục vọng, Không còn phải tái sanh, Đi đến thai tạng nữa. 10. Và sau khi không đeo đuổi tà kiến,. là người có giới, được thành tựu về nhận thức, sau khi xua đi sự thèm khát ở các dục, thì chắc chắn không đi đến thai bào lần nữa.
Mettasuttaṃ niṭṭhitaṃ.    
Khuddakapāṭhapāḷi niṭṭhitā.