26. Brāhmaṇavaggo

XXVI. Phẩm Bà-La-Môn

26. Phẩm bà-la-môn

Tipitaka.org Việt dịch: HT. Thích Minh Châu Việt dịch: TK. Indacanda
383. Chinda sotaṃ parakkamma, kāme panuda brāhmaṇa; Saṅkhārānaṃ khayaṃ ñatvā, akataññūsi brāhmaṇa. 383. “Hỡi này Bà là môn,. Hãy tinh tấn đoạn dòng, Từ bỏ các dục lạc, Biết được hành đoạn diệt, Người là bậc vô vi.” [383] 1. Này Bà-la-môn, hãy cắt đứt dòng chảy (luân hồi), hãy nỗ lực, hãy xua đuổi các dục. Này Bà-la-môn, sau khi biết được sự hoại diệt của các hành, ngươi trở thành người biết được vô vi (Niết Bàn).
384. Yadā dvayesu dhammesu, pāragū hoti brāhmaṇo; Athassa sabbe saṃyogā, atthaṃ gacchanti jānato. 384. “Nhờ thường trú hai pháp, Đến được bờ bên kia. Bà-la-môn có trí, Mọi kiết sử dứt sạch.” [384] 2. Khi vị Bà-la-môn trở thành người đã đạt đến bờ kia về cả hai pháp,[7] trong lúc vị này đang nhận biết, tất cả các sự ràng buộc đối với vị này đi đến tiêu tan. 
385. Yassa pāraṃ apāraṃ vā, pārāpāraṃ na vijjati; Vītaddaraṃ visaṃyuttaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 385. “Không bờ này, bờ kia,. Cả hai bờ không có, Lìa khổ, không trói buộc, Ta gọi Bà-la-môn.” [385] 3. Đối với vị nào, bờ này hoặc bờ kia, hoặc bờ này lẫn bờ kia đều không tìm thấy, đã xa lìa sầu khổ, không bị ràng buộc, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
386. Jhāyiṃ virajamāsīnaṃ, katakiccamanāsavaṃ; Uttamatthamanuppattaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 386. “Tu thiền, trú ly trần, Phận sự xong, vô lậu, Đạt được đích tối thượng, Ta gọi Bà-la-môn.” [386] 4. Vị có thiền, không còn ô nhiễm, đã ngồi xuống (đơn độc ở khu rừng), đã làm xong phận sự, không còn lậu hoặc, đã đạt đến mục đích tối thượng, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
387. Divā tapati ādicco, rattimābhāti candimā; Sannaddho khattiyo tapati, jhāyī tapati brāhmaṇo; Atha sabbamahorattiṃ [sabbamahorattaṃ (?)], buddho tapati tejasā. 387. “Mặt trời sáng ban ngày,. Mặt trăng sáng ban đêm. Khí giới sáng Sát lỵ, Thiền định sáng Phạm chí. Còn hào quang đức Phật, Chói sáng cả ngày đêm.” [387] 5. Mặt trời tỏa sáng ban ngày, mặt trăng chiếu sáng ban đêm,. khoác áo giáp vị Sát-đế-lỵ tỏa sáng, có thiền vị Bà-la-môn tỏa sáng, còn đức Phật tỏa sáng hào quang trọn ngày đêm.
388. Bāhitapāpoti brāhmaṇo, samacariyā samaṇoti vuccati; Pabbājayamattano malaṃ, tasmā ‘‘pabbajito’’ti vuccati. 388. “Dứt ác gọi Phạm chí, Tịnh hạnh gọi Sa môn, Tự mình xuất cấu uế, Nên gọi bậc xuất gia.” [388] 6. Có điều ác đã được xa lánh được gọi là ‘Bà-la-môn,’ có sở hành bình lặng được gọi là ‘Sa-môn.’ Vị đã dứt bỏ ô nhiễm của bản thân, vì thế được gọi là ‘bậc xuất gia.’
389. Na brāhmaṇassa pahareyya, nāssa muñcetha brāhmaṇo; Dhī [dhi (syā. byākaraṇesu)] brāhmaṇassa hantāraṃ, tato dhī yassa [yo + assa = yassa] muñcati. 389. “Chớ có đập Phạm chí!. Phạm chí chớ đập lại! Xấu thay đập Phạm chí Đập trả lại xấu hơn!” [389] 7. Không nên đánh đập vị Bà-la-môn, vị Bà-la-môn không nên bộc phát (sự giận dữ) đến kẻ đã đánh mình. Xấu hổ thay kẻ đánh đập vị Bà-la-môn, càng xấu hổ hơn cho vị bộc phát (sự giận dữ) đến kẻ đã đánh mình.
390. Na brāhmaṇassetadakiñci seyyo, yadā nisedho manaso piyehi; Yato yato hiṃsamano nivattati, tato tato sammatimeva dukkhaṃ. 390. “Đối vị Bà-la-môn, Đây không lợi ích nhỏ. Khi ý không ái luyến, Tâm hại được chận đứng, Chỉ khi ấy khổ diệt,” [390] 8. Vị Bà-la-môn không có việc nào khác tốt hơn việc này,. là lúc có sự đình chỉ của tâm đối với các vật đáng yêu. Chừng nào tâm ý hãm hại được dừng lại, chừng ấy khổ đau được thật sự yên lặng .
391. Yassa kāyena vācāya, manasā natthi dukkaṭaṃ; Saṃvutaṃ tīhi ṭhānehi, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 391. “Với người thân miệng ý,. Không làm các ác hạnh, Ba nghiệp được phòng hộ, Ta gọi Bà-la-môn.” [391] 9. Đối với vị nào, không có việc làm quấy do thân, do khẩu, do ý, (và) đã được thu thúc ở ba nơi (thân khẩu ý), Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
392. Yamhā dhammaṃ vijāneyya, sammāsambuddhadesitaṃ; Sakkaccaṃ taṃ namasseyya, aggihuttaṃva brāhmaṇo. 392. “Từ ai, biết chánh pháp, Bậc Chánh Giác thuyết giảng, Hãy kính lễ vị ấy, Như phạm chí chờ lửa.” [392] 10. Do vị nào mà ta có thể hiểu biết Giáo Pháp đã được đấng Chánh Đẳng Giác thuyết giảng, ta nên kính lễ vị ấy một cách nghiêm trang, ví như người Bà-la-môn kính lễ ngọn lửa tế thần.
393. Na jaṭāhi na gottena, na jaccā hoti brāhmaṇo; Yamhi saccañca dhammo ca, so sucī so ca brāhmaṇo. 393. “Được gọi Bà-la-môn,. Không vì đầu bện tóc, Không chủng tộc, thọ sanh, Ai thật chân, chánh, tịnh, Mới gọi Bà-la-môn.” [393] 11. Không do những búi tóc bện, không do dòng họ, không do gia tộc mà trở thành Bà-la-môn. Ở vị nào có sự chân thật và sự ngay thẳng, vị ấy có sự trong sạch, chính vị ấy là Bà-la-môn.
394. Kiṃ te jaṭāhi dummedha, kiṃ te ajinasāṭiyā; Abbhantaraṃ te gahanaṃ, bāhiraṃ parimajjasi. 394. “Kẻ ngu, có ích gì, Bện tóc với da dê, Nội tâm toàn phiền não, Ngoài mặt đánh bóng suông.” [394] 12. Này kẻ kém trí, có ích gì với những búi tóc bện của ngươi? Có ích gì với y phục bằng da dê của ngươi? Ngươi đánh bóng bên ngoài, bên trong của ngươi là rừng rậm (ô nhiễm).
395. Paṃsukūladharaṃ jantuṃ, kisaṃ dhamanisanthataṃ; Ekaṃ vanasmiṃ jhāyantaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 395. “Người mặc áo đống rác,. Gầy ốm, lộ mạch gân, Độc thân thiền trong rừng. Ta gọi Bà-la-môn.” [395] 13. Người mang y may bằng vải bị quăng bỏ, gầy ốm, nổi đầy gân, một mình đang tham thiền trong rừng, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
396. Na cāhaṃ brāhmaṇaṃ brūmi, yonijaṃ mattisambhavaṃ; Bhovādi nāma so hoti, sace hoti sakiñcano; Akiñcanaṃ anādānaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 396 “Ta không gọi Phạm Chí, Vì chỗ sanh, mẹ sanh. Chỉ được gọi tên suông, Nếu tâm còn phiền não. Không phiền não, chấp trước, Ta gọi Bà-la-môn.” [396] 14. Và Ta không gọi là Bà-la-môn với kẻ đã được sanh ra từ tử cung (của nữ Bà-la-môn), có sự xuất thân theo người mẹ, kẻ ấy được gọi là ‘người có sự xưng hô với từ Ông’ nếu người ấy có sở hữu gì đó. Còn vị không sở hữu gì, không nắm giữ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
397 Sabbasaṃyojanaṃ chetvā, yo ve na paritassati; Saṅgātigaṃ visaṃyuttaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 397. “Đoạn hết các kiết sử,. Không còn gì lo sợ, Không đắm trước buộc ràng, Ta gọi Bà-la-môn, [397] 15. Thật vậy, người nào đã cắt đứt tất cả ràng buộc, không run sợ, đã vượt qua các sự dính líu, không còn bị ràng buộc, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
398 Chetvā naddhiṃ [nandhiṃ (ka. sī.), nandiṃ (pī.)] varattañca, sandānaṃ [sandāmaṃ (sī.)] sahanukkamaṃ; Ukkhittapalighaṃ buddhaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 398. “Bỏ đai da, bỏ cương, Bỏ dây, đồ sở thuộc, Bỏ then chốt, sáng suốt, Ta gọi Bà-la-môn.” [398] 16. Người đã cắt đứt dây buộc (sân hận), dây trói (tham ái), dây thừng (62 tà kiến), cùng với vật phụ tùng (các pháp tiềm ẩn), đã nâng lên thanh chắn (vô minh), đã được giác ngộ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.[8]
399 Akkosaṃ vadhabandhañca, aduṭṭho yo titikkhati; Khantībalaṃ balānīkaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 399. “Không ác ý, nhẫn chịu,. Phỉ báng, đánh, phạt hình, Lấy nhẫn làm quân lực, Ta gọi Bà-la-môn.” [399] 17. Người nào chịu đựng lời khiển trách, sự trừng phạt và giam cầm, mà không sân hận, người có kham nhẫn là sức mạnh, có sức mạnh là quân đội, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
400 Akkodhanaṃ vatavantaṃ, sīlavantaṃ anussadaṃ; Dantaṃ antimasārīraṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 400. “Không hận, hết bổn phận, Trì giới, không tham ái, Nhiếp phục, thân cuối cùng, Ta gọi Bà-la-môn.” [400] 18. Người không nóng giận, có sự hành trì, có giới, không nhiễm dục vọng, đã được rèn luyện, có thân xác cuối cùng, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
401 Vāri pokkharapatteva, āraggeriva sāsapo; Yo na limpati [lippati (sī. pī.)] kāmesu, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 401. “Như nước trên lá sen,. Như hột cải đầu kim, Người không nhiễm ái dục, Ta gọi Bà-la-môn.” [401] 19. Ví như nước ở lá sen, ví như hột cải ở đầu mũi kim, người nào không nhiễm bẩn trong các dục, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
402 Yo dukkhassa pajānāti, idheva khayamattano; Pannabhāraṃ visaṃyuttaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 402. “Ai tự trên đời này, Giác khổ, diệt trừ khổ, Bỏ gánh nặng, giải thoát, Ta gọi Bà-la-môn.” [402] 20. Người nào nhận biết sự diệt trừ khổ đau của bản thân ngay tại chỗ này, đã đặt xuống gánh nặng, không bị ràng buộc, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
403 Gambhīrapaññaṃ medhāviṃ, maggāmaggassa kovidaṃ; Uttamatthamanuppattaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 403. “Người trí tuệ sâu xa, Khéo biết đạo, phi đạo, Chứng đạt đích vô thượng, Ta gọi Bà-la-môn.” [403] 21. Người có tuệ thâm sâu, thông minh, rành rẽ về Đạo Lộ và không phải Đạo Lộ, đã đạt đến mục đích tối thượng, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
404 Asaṃsaṭṭhaṃ gahaṭṭhehi, anāgārehi cūbhayaṃ; Anokasārimappicchaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 404. “Không liên hệ cả hai, Xuất gia và thế tục, Sống độc thân, ít dục, Ta gọi Bà-la-môn.” [404] 22. Người không gần gũi với cả hai hạng tại gia và hạng xuất gia, sống không trú xứ, ít ham muốn, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
405 Nidhāya daṇḍaṃ bhūtesu, tasesu thāvaresu ca; Yo na hanti na ghāteti, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 405. “Bỏ trượng, đối chúng sanh, Yếu kém hay kiên cường, Không giết, không bảo giết, Ta gọi Bà-la-môn.” [405] 23. Sau khi bỏ xuống gậy gộc đối với các chúng sanh di động hay đứng yên, người nào không giết hại, không bảo giết hại, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
406 Aviruddhaṃ viruddhesu, attadaṇḍesu nibbutaṃ; Sādānesu anādānaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 406. “Thân thiện giữa thù địch Ôn hòa giữa hung hăng. Không nhiễm, giữa nhiễm trước, Ta gọi Bà-la-môn.” [406] 24. Người không thù nghịch giữa những kẻ thù nghịch, tịnh lặng giữa những kẻ có gậy gộc, không cố chấp giữa những kẻ cố chấp, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
407 Yassa rāgo ca doso ca, māno makkho ca pātito; Sāsaporiva āraggā [āragge (ka.)], tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 407. “Người bỏ rơi tham sân, Không mạn không ganh tị, Như hột cải đầu kim, Ta gọi Bà-la-môn.” [407] 25. Người nào có sự luyến ái, sân hận, ngã mạn, và gièm pha đã được rơi rụng, ví như hột cải ở đầu mũi kim, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
408 Akakkasaṃ viññāpaniṃ, giraṃ saccamudīraye; Yāya nābhisaje kañci [kiñci (ka.)], tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 408. “Nói lên lời ôn hòa, Lợi ích và chân thật, Không mất lòng một ai, Ta gọi Bà-la-môn.” [408] 26. Người thốt lên lời nói chân thật, không thô lỗ, ý nghĩa rõ ràng, không làm mất lòng bất cứ ai với lời nói ấy, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
409 Yodha dīghaṃ va rassaṃ vā, aṇuṃ thūlaṃ subhāsubhaṃ; Loke adinnaṃ nādiyati [nādeti (ma. ni. 2.459)], tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 409. “Ở đời, vật dài, ngắn, Nhỏ, lớn, đẹp hay xấu, Phàm không cho không lấy, Ta gọi Bà-la-môn.” [409] 27. Ở thế gian này, người nào không lấy đi vật không được cho, dầu là dài hay ngắn, nhỏ hay lớn, đẹp hay xấu, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
410 Āsā yassa na vijjanti, asmiṃ loke paramhi ca; Nirāsāsaṃ [nirāsayaṃ (sī. syā. pī.), nirāsakaṃ (?)] visaṃyuttaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 410. “Người không có hy cầu, Đời này và đời sau, Không hy cầu, giải thoát, Ta gọi Bà-la-môn.” [410] 28. Những mong cầu của người nào về đời này và đời sau không còn tìm thấy, người không mong cầu, không bị ràng buộc, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
411 Yassālayā na vijjanti, aññāya akathaṃkathī; Amatogadhamanuppattaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 411. “Người không còn tham ái, Có trí, không nghi hoặc, Thể nhập vào bất tử, Ta gọi Bà-la-môn.” [411] 29. Những ước muốn của người nào không còn tìm thấy, sau khi biết rõ không có nghi ngờ, đã đạt đến sự thể nhập Bất Tử, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
412 Yodha puññañca pāpañca, ubho saṅgamupaccagā; Asokaṃ virajaṃ suddhaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 412. “Người sống ở đời này, Không nhiễm cả thiện ác, Không sầu, sạch không bụi, Ta gọi Bà-la-môn.” [412] 30. Ở thế gian này, người nào đã vượt qua sự dính líu cả hai pháp thiện và ác, không sầu muộn, không ô nhiễm, trong sạch, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
413 Candaṃva vimalaṃ suddhaṃ, vippasannamanāvilaṃ; Nandībhavaparikkhīṇaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 413 “Như trăng, sạch không uế, Sáng trong và tịnh lặng, Hữu ái, được đoạn tận, Ta gọi Bà là môn.” [413] 31. Ví như mặt trăng không bị lấm nhơ, trong sạch, người có tâm thanh tịnh, không bị vẩn đục, đã hoàn toàn cạn kiệt sự vui thích và hiện hữu, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
414 Yomaṃ [yo imaṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)] palipathaṃ duggaṃ, saṃsāraṃ mohamaccagā; Tiṇṇo pāragato [pāragato (sī. syā. kaṃ. pī.)] jhāyī, anejo akathaṃkathī; Anupādāya nibbuto, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 414. “Vượt đường nguy hiểm này, Nhiếp phục luân hồi, si, Đến bờ kia thiền định, Không dục ái, không nghi, Không chấp trước, tịch tịnh, Ta gọi Bà-la-môn.” [414] 32. Người nào đã vượt qua con đường hiểm trở, khó đi này, (vòng quay) luân hồi, và sự si mê, đã vượt qua, đã đi đến bờ kia, có thiền, không dục vọng, không nghi ngờ, không chấp thủ, đã tịnh lặng, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
415 Yodha kāme pahantvāna [pahatvāna (sī. pī.)], anāgāro paribbaje; Kāmabhavaparikkhīṇaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ [idaṃ gāthādvayaṃ videsapotthakesu sakideva dassitaṃ]. 415. “Ai ở đời, đoạn dục, Bỏ nhà, sống xuất gia, Dục hữu được đoạn tận, Ta gọi Bà-la-môn.” [415] 33. Người nào ở đây có thể dứt bỏ các dục, sống hạnh du sĩ, không nhà, đã hoàn toàn cạn kiệt các dục và hiện hữu, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
416 Yodha taṇhaṃ pahantvāna, anāgāro paribbaje; Taṇhābhavaparikkhīṇaṃ , tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 416. “Ai ở đời đoạn ái, Bỏ nhà, sống xuất gia, Ái hữu được đoạn tận, Ta gọi Bà-la-môn.” [416] 34. Người nào ở đây có thể dứt bỏ tham ái, sống hạnh du sĩ, không nhà, đã hoàn toàn cạn kiệt tham ái và hiện hữu, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
417 Hitvā mānusakaṃ yogaṃ, dibbaṃ yogaṃ upaccagā; Sabbayogavisaṃyuttaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 417. “Bỏ trói buộc loài người, Vượt trói buộc cõi trời. Giải thoát mọi buộc ràng, Ta gọi Bà-la-môn.” [417] 35. Người đã từ bỏ sự gắn bó thuộc cõi người, đã vượt lên sự gắn bó thuộc cõi trời, không bị ràng buộc với mọi sự gắn bó, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
418. Hitvā ratiñca aratiñca, sītibhūtaṃ nirūpadhiṃ; Sabbalokābhibhuṃ vīraṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 418. “Bỏ điều ưa, điều ghét, Mát lạnh, diệt sanh y, Bậc anh hùng chiến thắng, Nhiếp phục mọi thế giới, Ta gọi Bà-la-môn.” [418] 36. Người đã từ bỏ sự thích thú và không thích thú, có trạng thái mát mẻ, không còn mầm tái sanh, vị đã chế ngự tất cả thế gian, bậc anh hùng, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
419. Cutiṃ yo vedi sattānaṃ, upapattiñca sabbaso; Asattaṃ sugataṃ buddhaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 419. “Ai hiểu rõ hoàn toàn, Sanh tử các chúng sanh, Không nhiễm, khéo vượt qua, Sáng suốt chân giác ngộ, Ta gọi Bà-la-môn.” [419] 37. Người nào đã hiểu biết sự chết và sự tái sanh của chúng sanh về mọi phương diện, không bám víu, đã đi đến nơi an lạc, đã được giác ngộ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
420. Yassa gatiṃ na jānanti, devā gandhabbamānusā; Khīṇāsavaṃ arahantaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 420. “Với ai, loài trời, người, Cùng với Càn thát bà, Không biết chỗ thọ sanh, Lậu tận bậc La hán. Ta gọi Bà-la-môn.” [420] 38. Cảnh giới tái sanh của người nào mà chư Thiên, Càn-thát-bà, và loài người không biết được, người có lậu hoặc đã được cạn kiệt, là bậc A-la-hán, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
421. Yassa pure ca pacchā ca, majjhe ca natthi kiñcanaṃ; Akiñcanaṃ anādānaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 421 “Ai quá, hiện, vị lai, Không một sở hữu gì, Không sở hữu không nắm, Ta gọi Bà-la-môn.” [421] 39. Đối với người nào, phía trước (quá khứ), phía sau (vị lai), và phần giữa (hiện tại) không sở hữu gì, người không sở hữu gì, không nắm giữ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
422. Usabhaṃ pavaraṃ vīraṃ, mahesiṃ vijitāvinaṃ; Anejaṃ nhātakaṃ [nahātakaṃ (sī. syā. kaṃ pī.)] buddhaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 422. “Bậc trâu chúa, thù thắng Bậc anh hùng, đại sĩ, Bậc chiến thắng, không nhiễm, Bậc tẩy sạch, giác ngộ, Ta gọi Bà-la-môn.” [422] 40. Đấng nhân ngưu, bậc cao quý, bậc anh hùng, bậc đại ẩn sĩ, bậc chiến thắng, bậc không còn dục vọng, người đã rửa sạch (mọi nhiễm ô), đã được giác ngộ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
423. Pubbenivāsaṃ yo vedi, saggāpāyañca passati, Atho jātikkhayaṃ patto, abhiññāvosito muni; Sabbavositavosānaṃ, tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ. 423. “Ai biết được đời trước, Thấy thiên giới, đọa xứ, Đạt được sanh diệt tận, Thắng trí, tự viên thành , Bậc mâu ni đạo sĩ. Viên mãn mọi thành tựu, Ta gọi Bà-la-môn.” [423] 41. Người nào biết về kiếp sống trước, nhìn thấy cõi trời và đọa xứ, rồi đạt đến sự diệt trừ tái sanh, là bậc hiền trí, đã được hoàn hảo về thắng trí, có mọi sự hoàn hảo đã được hoàn hảo, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Brāhmaṇavaggo chabbīsatimo niṭṭhito..     Phẩm Bà-la-môn là thứ hai mươi sáu.
    Tóm lược các phẩm
(Ettāvatā sabbapaṭhame yamakavagge cuddasa vatthūni, appamādavagge nava, cittavagge nava, pupphavagge dvādasa, bālavagge pannarasa, paṇḍitavagge ekādasa, arahantavagge dasa, sahassavagge cuddasa, pāpavagge dvādasa, daṇḍavagge ekādasa, jarāvagge nava, attavagge dasa, lokavagge ekādasa, buddhavagge nava [aṭṭha (ka.)], sukhavagge aṭṭha, piyavagge nava, kodhavagge aṭṭha, malavagge dvādasa, dhammaṭṭhavagge dasa, maggavagge dvādasa, pakiṇṇakavagge nava, nirayavagge nava, nāgavagge aṭṭha, taṇhāvagge dvādasa, bhikkhuvagge dvādasa, brāhmaṇavagge cattālīsāti pañcādhikāni tīṇi vatthusatāni.   1. Song Đối, Không Xao Lãng, Tâm, Bông Hoa, với Kẻ Ngu, Sáng Suốt, A-La-Hán, Một Ngàn, Ác, với Hình Phạt, chúng là mười.. 2. Già, Tự Ngã, Thế Gian, Đức Phật, với An Lạc, và Yêu Thích, Giận Dữ, và Vết Nhơ, Công Minh, với phẩm Đạo Lộ là hai mươi. 3. Linh Tinh, Địa Ngục, Voi, Tham Ái, Tỳ Khưu, và Bà-La-Môn, hai mươi sáu phẩm này đã được thuyết giảng bởi vị Thân Quyến của Mặt Trời.
Satevīsacatussatā, catusaccavibhāvinā;    
Satattayañca vatthūnaṃ, pañcādhikaṃ samuṭṭhitāti) [( ) etthantare pāṭho videsapotthakesu natthi, aṭṭhakathāsuyeva dissati].    
[dhammapadassa vaggassuddānaṃ§yamakaṃ pamādaṃ cittaṃ, pupphaṃ bālañca paṇḍitaṃ.§rahantaṃ sahassaṃ pāpaṃ, daṇḍaṃ jarā attalokaṃ.§buddhaṃ sukhaṃ piyaṃ kodhaṃ, malaṃ dhammaṭṭhamaggañca.§pakiṇṇakaṃ nirayaṃ nāgaṃ, taṇhā bhikkhū ca brāhmaṇo.§gāthāyuddānaṃ§yamake vīsagāthāyo, appamādalokamhi ca.§piye dvādasagāthāyo, citte jarattekādasa.§pupphabālasahassamhi, buddha magga pakiṇṇake.§soḷasa paṇḍite kodhe, niraye nāge catuddasa.§arahante dasaggāthā, pāpasukhamhi terasa.§sattarasa daṇḍadhammaṭṭhe, malamhi ekavīsati.§taṇhāvagge sattabbīsa, tevīsa bhikkhuvaggamhi.§brāhmaṇe ekatālīsa, catussatā satevīsa. (ka.)]    
Dhammapade vaggānamuddānaṃ –   tóm lược các câu kệ
Yamakappamādo cittaṃ, pupphaṃ bālena paṇḍito; Arahanto sahassañca, pāpaṃ daṇḍena te dasa.   1. Hai mươi câu kệ ở phẩm Song Đối, mười hai ở phẩm Không Xao Lãng, mười một ở phẩm Tâm, mười sáu ở phẩm Bông Hoa.
Jarā attā ca loko ca, buddho sukhaṃ piyena ca; Kodho malañca dhammaṭṭho, maggavaggena vīsati.   2. Và mười sáu câu kệ ở phẩm Kẻ Ngu, mười bốn ở phẩm Sáng Suốt, mười câu kệ ở phẩm A-La-Hán, mười sáu là ở phẩm Một Ngàn.
Pakiṇṇaṃ nirayo nāgo, taṇhā bhikkhu ca brāhmaṇo; Ete chabbīsati vaggā, desitādiccabandhunā.   3. Mười ba ở phẩm Ác, và mười bảy ở phẩm Hình Phạt, mười một ở phẩm Già, mười là ở phẩm Tự Ngã.
Gāthānamuddānaṃ –    
Yamake vīsati gāthā, appamādamhi dvādasa; Ekādasa cittavagge, pupphavaggamhi soḷasa.   4. Mười hai ở phẩm Thế Gian, và mười tám là ở phẩm Đức Phật, mười hai câu kệ là ở phẩm An Lạc, và phẩm Yêu Thích.
Bāle ca soḷasa gāthā, paṇḍitamhi catuddasa; Arahante dasa gāthā, sahasse honti soḷasa.   5. Mười bốn ở phẩm Giận Dữ, hai mươi mốt ở phẩm Vết Nhơ, và mười bảy ở phẩm Công Minh, và tương tự y như thế ở phẩm Đạo Lộ.
Terasa pāpavaggamhi, daṇḍamhi dasa satta ca; Ekādasa jarā vagge, attavaggamhi tā dasa.   6. Mười sáu câu kệ ở phẩm Linh Tinh, mười bốn ở phẩm Địa Ngục, và ở phẩm Voi, hai mươi sáu ở phẩm Tham Ái, hai mươi ba thuộc phẩm Tỳ Khưu.
Dvādasa lokavaggamhi, buddhavaggamhi ṭhārasa [soḷasa (sabbattha)]; Sukhe ca piyavagge ca, gāthāyo honti dvādasa.   7. Bốn mươi mốt câu kệ ở phẩm Bà-La-Môn, phẩm hay nhất. Thêm điều này nữa, bốn trăm hai mươi ba câu kệ đã được thuyết giảng bởi vị Thân Quyến của Mặt Trời ở tập Dhammapada – Pháp Cú.
Cuddasa kodhavaggamhi, malavaggekavīsati; Sattarasa ca dhammaṭṭhe, maggavagge sattarasa.    
Pakiṇṇe soḷasa gāthā, niraye nāge ca cuddasa; Chabbīsa taṇhāvaggamhi, tevīsa bhikkhuvaggikā.    
Ekatālīsagāthāyo, brāhmaṇe vaggamuttame; Gāthāsatāni cattāri, tevīsa ca punāpare;    
Dhammapade nipātamhi, desitādiccabandhunāti. Dhammapadapāḷi niṭṭhitā.   PHÁP CÚ ĐƯỢC CHẤM DỨT.