18. Pārāyanānugītigāthā
Phần tường thuật kinh đường đi đến bờ kia
Bài kệ
Tipitaka.org Việt dịch: TK. Indacanda Bài kệ
156. ‘‘Pārāyanamanugāyissaṃ, [iccāyasmā piṅgiyo] Yathāddakkhi tathākkhāsi, vimalo bhūrimedhaso;   1131. Tôn giả Pin-gi-ya:
Nikkāmo nibbano [nibbuto (syā.)] nāgo, kissa hetu musā bhaṇe.   Con sẽ đọc tụng lên
    Con đường đến bờ kia,
    Ngài được thấy thế nào,
    Ngài nói lên thế ấy,
    Bậc vô cấu, quảng trí,
    Bậc lãnh đạo không dục,
    Bậc Niết-bàn an tịnh,
    Làm sao do nhân gì,
    Ngài nói điều không thật.
157. ‘‘Pahīnamalamohassa, mānamakkhappahāyino; Handāhaṃ kittayissāmi, giraṃ vaṇṇūpasañhitaṃ.   1132. Bậc đã đoạn trừ hết,
    Uế nhiễm và si mê,
    Bậc đã diệt trừ sạch,
    Kiêu mạn và gièm pha,
    Con sẽ nói tán thán,
    Âm thanh vi diệu ấy.
158. ‘‘Tamonudo buddho samantacakkhu, lokantagū sabbabhavātivatto; Anāsavo sabbadukkhappahīno, saccavhayo brahme upāsito me.   1133. Bậc quét sạch u ám,
    Phật-đà, bậc Biến nhãn,
    Ðã đến, tận cùng đời,
    Ðã vượt qua sanh hữu,
    Bậc không có lậu hoặc,
    Ðoạn tận mọi đau khổ,
    Vị được gọi sự thật,
    Hỡi vị Bà-la-môn,
    Con được hầu vị ấy.
159. ‘‘Dijo yathā kubbanakaṃ pahāya, bahupphalaṃ kānanamāvaseyya; Evampahaṃ appadasse pahāya, mahodadhiṃ haṃsoriva ajjhapatto.   1134. Như chim bỏ rừng hoang,
    Ðến ở rừng nhiều trái,
    Cũng vậy con từ bỏ,
    Những bậc thấy nhỏ nhen,
    Con đạt đến biển lớn,
    Chẳng khác con thiên nga.
160. ‘‘Yeme pubbe viyākaṃsu, huraṃ gotamasāsanā; Iccāsi iti bhavissati;   1135. Những ai trong đời khác,
Sabbaṃ taṃ itihītihaṃ, sabbaṃ taṃ takkavaḍḍhanaṃ.   Ðã nói cho con nghe,
    Lời dạy bậc Cù-đàm
    Như vậy đã xảy ra,
    Như vậy sẽ xảy đến,
    Tất cả là tin đồn,
    Chỉ làm tăng nghi ngờ.
161. ‘‘Eko tamanudāsino, jutimā so pabhaṅkaro;   1136. Chỉ một vị an trú,
Gotamo bhūripaññāṇo, gotamo bhūrimedhaso.   Quét sạch các hắn ám,
    Sanh trưởng gia đình quý,
    Vị ấy chiếu hào quang,
    Cù-đàm, bậc quảng tuệ,
    Cù-đàm, bậc quảng trí.
162. ‘‘Yo me dhammamadesesi, sandiṭṭhikamakālikaṃ; Taṇhakkhayamanītikaṃ, yassa natthi upamā kvaci’’.   1137. Ai thuyết pháp cho con,
    Pháp thiết thực hiện tại,
    Ðến ngay không chờ đợi,
    Ái diệt, vượt đau khổ,
    Vị ấy không ai sánh.
163. ‘‘Kiṃ nu tamhā vippavasasi, muhuttamapi piṅgiya;   Bàvari:
Gotamā bhūripaññāṇā, gotamā bhūrimedhasā.   1138. Hỡi này Pin-gi-ya,
    Sao Ông lại không thể,
    Sống xa lánh vị ấy,
    Chỉ trong một chốc lát,
    Bậc Cù-đàm quảng tuệ,
    Bậc Cù-đàm quảng trí,
164. ‘‘Yo te dhammamadesesi, sandiṭṭhikamakālikaṃ; Taṇhakkhayamanītikaṃ, yassa natthi upamā kvaci’’.   1139. Vị thuyết pháp cho người,
    Pháp thiết thực hiện tại,
    Ðến ngay không chờ đợi,
    Ái diệt, vượt đau khổ,
    Vị ấy không ai sánh.
165. ‘‘Nāhaṃ tamhā vippavasāmi, muhuttamapi brāhmaṇa; Gotamā bhūripaññāṇā, gotamā bhūrimedhasā.   Pingiya:
    1140. Hỡi này Bà-la-môn,
    Con không có thể được,
    Sống xa lánh vị ấy
    Chỉ trong một chốc lát,
    Gotama quảng tuệ,
    Gotama quảng trí.
166. ‘‘Yo me dhammamadesesi, sandiṭṭhikamakālikaṃ; Taṇhakkhayamanītikaṃ, yassa natthi upamā kvaci.   1141. Vị thuyết pháp cho con,
    Pháp thiết thực hiện tại,
    Ðến ngay không chờ đợi,
    Ái diệt, vượt đau khổ,
    Vị ấy không ai sánh.
167. ‘‘Passāmi naṃ manasā cakkhunāva, rattindivaṃ brāhmaṇa appamatto.   1142. Chính con thấy vị ấy,
Namassamāno vivasemi rattiṃ, teneva maññāmi avippavāsaṃ.   Với ý, với con mắt,
    Ngày đêm không phóng dật,
    Kính thưa Bà-la-môn,
    Con trải qua suốt đêm
    Ðảnh lễ, kính vị ấy,
    Do vậy con nghĩ rằng,
    Con không xa vị ấy.
168. ‘‘Saddhā ca pīti ca mano sati ca,   1143. Với tín và với hỷ,
Nāpentime gotamasāsanamhā;   Với ý luôn chánh niệm,
Yaṃ yaṃ disaṃ vajati bhūripañño, sa tena teneva natohamasmi.   Không làm con xa rời,
    Lời dạy Gotama!
    Chính tại phương hướng nào,
    Bậc quảng tuệ đi đến,
    Chính ở phương hướng ấy,
    Con được dắt dẫn đến.
169. ‘‘Jiṇṇassa me dubbalathāmakassa, teneva kāyo na paleti tattha;   1144. Với con tuổi đã già,
Saṅkappayantāya [saṃkappayattāya (sī.)] vajāmi niccaṃ, mano hi me brāhmaṇa tena yutto.   Yếu đuối, không sức mạnh,
    Do vậy thân thể này,
    Không đến được chỗ ấy,
    Với tâm tư quyết chí,
    Con thường hằng đi đến.
    Vì rằng thưa Phạm chí,
    Ý con cột vị ấy.
170. ‘‘Paṅke sayāno pariphandamāno, dīpā dīpaṃ upallaviṃ;   1145. Nằm dài trong vũng bùn,
Athaddasāsiṃ sambuddhaṃ, oghatiṇṇamanāsavaṃ.   Vùng vẫy, vật qua lại,
    Con đã bơi qua lại,
    Ðảo này đến đảo khác,
    Con đã thấy đức Phật,
    Vượt bộc lưu, vô lậu.
    Ðến đây, khi chúng đang nói, đức Phật hiện ra và nói:
171. ‘‘Yathā ahū vakkali muttasaddho, bhadrāvudho āḷavigotamo ca;   Thế Tôn:
Evameva tvampi pamuñcassu saddhaṃ, gamissasi tvaṃ piṅgiya maccudheyyassa pāraṃ’’ [maccudheyyapāraṃ (sī.)].   1146. Cũng như Vak-ka-li
    Nhờ tin, được giải thoát,
    Với Bhad-rà-vu-dha,
    A-la-vi, Cù-đàm,
    Cũng vậy, Ông đã được,
    Giải thoát nhờ lòng tin.
    Hỡi này Pin-gi-ya,
    Ông sẽ đi đến được,
    Ðến được bờ bên kia,
    Của thế giới thần chết.
172. ‘‘Esa bhiyyo pasīdāmi, sutvāna munino vaco;   Pingiya:
Vivaṭṭacchado sambuddho, akhilo paṭibhānavā.   1147. Ðược nghe lời ẩn sĩ,
    Con tăng trưởng tịnh tín,
    Bậc Chánh đẳng Chánh giác,
    Ðã vén lên tấm màn,
    Không cứng cỏi, biện tài.
173. ‘‘Adhideve abhiññāya, sabbaṃ vedi paroparaṃ; Pañhānantakaro satthā, kaṅkhīnaṃ paṭijānataṃ.   1148. Thắng tri các chư Thiên,
    Biết tất cả cao thấp,
    Bậc Ðạo Sư chấm dứt,
    Tất cả các câu hỏi,
    Với những ai tự nhận,
    Còn có chỗ nghi ngờ.
174. ‘‘Asaṃhīraṃ asaṃkuppaṃ, yassa natthi upamā kvaci;   1149. Không run rẩy, dao động,
Addhā gamissāmi na mettha kaṅkhā, evaṃ maṃ dhārehi adhimuttacitta’’nti [ajitamāṇavapucchāya paṭṭhāya yāvapārāyanānugītigātāpariyosānā syā. … potthake natthi].   Không ai có thể sánh,
    Chắc chắn con sẽ đi,
    Tại đây, con không nghi,
    Như vậy, thọ trì Ta
    Như tâm người tín giải.
Pārāyanānugītigāthā niṭṭhitā.    Phẩm “Con đường đi đến bờ bên kia ” đã xong.