3. Yudhañjayavaggo
III. SỰ TOÀN HẢO VỀ XUẤT LY
Phẩm III – Xuất gia độ
Tipitaka.org Việt dịch: TK. Indacanda Việt dịch: TK. Thiện Minh
1. Yudhañjayacariyā 1. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Yudhañjaya[42] III.1 Hạnh của Bồ-tát Yudhanjaya[1]
1. ‘‘Yadāhaṃ amitayaso, rājaputto yudhañjayo; Ussāvabinduṃ sūriyātape, patitaṃ disvāna saṃvijiṃ. 242. Khi ta là hoàng tử Yudhañjaya có danh tiếng vô lượng, ta đã động tâm sau khi nhìn thấy giọt sương mai bị tiêu tan dưới ánh nắng mặt trời.[43] 1- Khi Như Lai là Yudhanjaya, một hoàng tử nổi tiếng, Như Lai cảm thấy xao xuyến khi thấy một giọt sương rơi trong nắng ấm[2].
2. ‘‘Taññevādhipatiṃ katvā, saṃvegamanubrūhayiṃ; Mātāpitū ca vanditvā, pabbajjamanuyācahaṃ. 243. Sau khi trầm tư về chính điều ấy, ta đã làm cho nỗi động tâm tăng trưởng. Ta đã cúi lạy mẹ cha và xin phép xuất gia. 2- Thấy được hình ảnh đó Như Lai lại càng xúc động. Ðảnh lễ cha và mẹ Như Lai xin được xuất gia.
3. ‘‘Yācanti maṃ pañjalikā, sanegamā saraṭṭhakā; ‘Ajjeva putta paṭipajja, iddhaṃ phītaṃ mahāmahiṃ’. 244. Họ cùng với các thị dân và các cư dân của xứ sở, hai tay chắp lại, thỉnh cầu ta rằng: “Này con, ngay ngày hôm nay con hãy cai quản lãnh địa rộng lớn, tiến triển, và thịnh vượng.” 3- Họ chấp tay lại, cùng với thần dân, quần thần của triều đình, họ van xin Như Lai, “Này con trai, chính ngày hôm nay con sẽ gìn giữ vương quốc[3] giàu mạnh và thịnh vượng này”.
4. ‘‘Sarājake sahorodhe, sanegame saraṭṭhake; Karuṇaṃ paridevante, anapekkhova pariccajiṃ. 245. Trong khi họ, có cả đức vua, có cả phi tần, có thị dân, có cư dân của xứ sở, đang khóc lóc thảm thương, bởi vì ta đã xuất gia, không lưu luyến. 4- Trong khi đám đông cùng với nhà vua, cung nữ, những thần dân và bá quan trong triều khóc than thảm thiết, Như Lai xuất gia[4] mà không mong cầu.
5. ‘‘Kevalaṃ pathaviṃ rajjaṃ, ñātiparijanaṃ yasaṃ; Cajamāno na cintesiṃ, bodhiyāyeva kāraṇā. 246. Trong khi từ bỏ toàn bộ trái đất, vương quốc, quyến thuộc, người hầu, và danh vọng, ta đã không suy nghĩ (đến điều gì khác) với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ. 5- Ðó chính là sự giác ngộ, Như Lai từ bỏ ngai vàng, người thân, người hầu và danh vọng, Như Lai không hối tiếc bất cứ điều gì về nó[5].
6. ‘‘Mātāpitā na me dessā, napi me dessaṃ mahāyasaṃ; Sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ, tasmā rajjaṃ pariccaji’’nti. 247. Me cha không có bị ta ghét bỏ, danh vọng lớn lao cũng không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã từ bỏ vương quốc. 6- Cha mẹ và tùy tùng đối với Như Lai[6] thì quan trọng. Nhưng quả vị toàn giác thì lại quí báu hơn, do đó Như Lai từ bỏ vương quốc.
Yudhañjayacariyaṃ paṭhamaṃ.  Hạnh của (đức Bồ-tát) Yudhañjaya là phần thứ nhất.  
2. Somanassacariyā 2. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Somanassa[44] III.2 Hạnh của Bồ-tát Somanassa[7]
7. ‘‘Punāparaṃ yadā homi, indapatthe puruttame; Kāmito dayito putto, somanassoti vissuto. 248. Vào một thời điểm khác nữa, khi ở tại kinh thành Indapatta, ta là người con trai được mong mỏi, được yêu quý, được nổi tiếng (với tên) là Somanassa. 1- Lại nữa, khi ở thành phố tráng lệ Indapatta[8], Như Lai là một vị hoàng tử có tên là Somanassa, Như Lai được cha mẹ mong mỏi và rất quí báu đối với họ và rất nổi tiếng.
8. ‘‘Sīlavā guṇasampanno, kalyāṇapaṭibhānavā; Vuḍḍhāpacāyī hirīmā, saṅgahesu ca kovido. 249. Ta là người có giới, được thành tựu đức hạnh, có lối ứng xử lịch thiệp, có sự tôn kính bậc trưởng thượng, có sự khiêm tốn, và rành rẽ về các cách tiếp độ. 2- Như Lai là một con người có giới đức, có những phẩm chất tốt[9], có lời nói ôn hòa, kính trọng bậc trưởng lão, khiêm tốn, và sâu sắc trong tình cảm[10].
9. ‘‘Tassa rañño patikaro, ahosi kuhakatāpaso; Ārāmaṃ mālāvacchañca, ropayitvāna jīvati. 250. Có gã đạo sĩ giả trá được đức vua ấy yêu mến. Ông ta trồng trọt rau quả hoa màu rồi sinh sống. 3- Có một đạo sĩ giả danh được[11] nhà vua yêu mến. Ông ta sống[12] bằng cách chăm sóc cây vườn và hoa lá.
10. ‘‘Tamahaṃ disvāna kuhakaṃ, thusarāsiṃva ataṇḍulaṃ; Dumaṃva anto susiraṃ, kadaliṃva asārakaṃ.

251. Nhận biết ông là giả trá ví như đống trấu không có hạt gạo, ví như thân cây có lỗ bọng lớn ở bên trong, ví như cây chuối không có lỏi cứng.

4- Biết được ông ta là người giả danh giống như một đống trấu mà không có hạt gạo[13], và[14] một cây không có ruột, giống như cây chuối lá không có lỏi cứng Như Lai nghĩ như vậy.
11. ‘‘Natthimassa sataṃ dhammo, sāmaññāpagato ayaṃ; Hirīsukkadhammajahito, jīvitavuttikāraṇā. 252. Không có pháp của các bậc thiện trí ở người này. Vì lý do nuôi dưỡng mạng sống, người này đã xa rời Sa-môn hạnh, đã từ bỏ pháp trong sạch là sự khiêm tốn. 5- “Người này vì sinh kế của mình không có giới đức[15] hướng tới những gì tốt đẹp, đã xa rời đạo hạnh, và từ bỏ sự khiêm tốn cùng với giới hạnh tinh khiết”.
12. ‘‘Kupito ahu [ahosi (sī.), āsi (syā.)] paccanto, aṭavīhi parantihi; Taṃ nisedhetuṃ gacchanto, anusāsi pitā mamaṃ. 253. Vùng biên giới đã bị khuấy động bởi những kẻ lâm tặc thuộc các xứ lân bang. Khi ra đi để dẹp yên việc ấy, cha (ta) đã dạy bảo ta rằng: 6- Biên giới bị những bộ lạc lân bang khuấy[16] nhiễu. Cha tôi đi xa để bình định, dạy tôi rằng:
13. ‘‘‘Mā pamajji tuvaṃ tāta, jaṭilaṃ uggatāpanaṃ; Yadicchakaṃ pavattehi, sabbakāmadado hi so’. 254. “Này con yêu dấu, con chớ có lơ là với vị đạo sĩ tóc bện nghiêm trì khổ hạnh. Hãy thi hành điều (vị ấy) ước muốn bởi vì vị ấy là người ban bố (cho chúng ta) mọi điều lạc thú.” 7- “Này con yêu dấu, con đừng lơ là với vị đạo sĩ khổ hạnh có giới đức. Ông ta là nguời mang lại những điều mong mỏi của chúng ta, hãy tuân theo với những mong cầu của ông ta”.
14. ‘‘Tamahaṃ gantvānupaṭṭhānaṃ, idaṃ vacanamabraviṃ; ‘Kacci te gahapati kusalaṃ, kiṃ vā te āharīyatu’. 255. Ta đã đi đến phục vụ vị ấy và đã nói lời này: “Này gia chủ, ông có được an vui không?” hoặc “Vật gì cần được mang lại cho ông?” 8- Tiếp tục hầu hạ ông ấy, Như Lai nói những lời này: “Như Lai hy vọng ông được tốt đẹp[17], người chủ nhà[18] hoặc bất cứ thứ gì có thể mang lại cho ông[19]”.
15. ‘‘Tena so kupito āsi, kuhako mānanissito; ‘Ghātāpemi tuvaṃ ajja, raṭṭhā pabbājayāmi vā’. 256. Vì thế, kẻ giả trá, chất chứa ngã mạn ấy đã giận dữ (nói rằng): “Hôm nay, ta sẽ làm cho ngươi hoặc là bị giết chết, hoặc là bị trục xuất ra khỏi vương quốc.” 9- Ở người giả danh này với sự ngã mạn và lấy làm giận dữ[20] rồi nói rằng: “Hôm nay[21] ta sẽ giết ngươi hoặc đuổi ngươi ra khỏi vương quốc này”
16. ‘‘Nisedhayitvā paccantaṃ, rājā kuhakamabravi; ‘Kacci te bhante khamanīyaṃ, sammāno te pavattito’. 257. Sau khi bình định khu vực biên giới, đức vua đã nói với kẻ giả trá (ấy) rằng: “Thưa ngài, ngài có được thoải mái, có được sự tôn kính không?” Gã xấu xa đã nói với đức vua rằng: “Hoàng tử cần phải bị trừng trị như thế.” 10- Sau khi nhà vua đã bình định khu vực biên giới nói với người giả danh, “Thưa đại vương, tôi hy vọng rằng ngài được tốt đẹp và được mọi người tôn kính”. Người Bà-la-môn xấu xa nói với nhà vua lý do sao hoàng tử bị chết.
17. ‘‘Tassa ācikkhatī pāpo, kumāro yathā nāsiyo; Tassa taṃ vacanaṃ sutvā, āṇāpesi mahīpati. 258. Sau khi nghe được lời nói ấy của kẻ ấy, vị chúa tể của trái đất đã ra lệnh rằng: “Hãy chém đầu ngay tại chỗ, rồi phân (thây) thành bốn mảnh, và cho trưng bày ở khắp các ngã đường; đó là phần số dành cho kẻ miệt thị vị đạo sĩ tóc bện.” 11- Khi nhà vua nghe những lời nói của ông ta bèn ra lệnh “Hãy cắt đầu hoàng tử bất cứ khi nào gặp[22] và chặt hoàng tử[23] ra làm bốn mảnh, và trưng bày cho mọi người xem” – đấy là hình phạt cho những ai có ý khinh khi những vị đạo sĩ có tóc bím.
18. ‘‘‘Sīsaṃ tattheva chinditvā, katvāna catukhaṇḍikaṃ; Rathiyā rathiyaṃ dassetha, sā gati jaṭilahīḷitā’.    
19. ‘‘Tattha kāraṇikā gantvā, caṇḍā luddā akāruṇā; Mātuaṅke nisinnassa, ākaḍḍhitvā nayanti maṃ. 259. Tại nơi ấy,[45] những người hành quyết độc ác, hung dữ, bất nhân đã lôi kéo ta đang ngồi ở lòng mẹ rồi dẫn đi.[46] 12- Do đó những người hành hình[24] hung ác, thô lỗ, nhẫn tâm, bắt đầu lôi kéo Như Lai đi chỗ khác khi Như Lai đang ngồi trong lòng mẹ.
20. ‘‘Tesāhaṃ evamavacaṃ, bandhataṃ gāḷhabandhanaṃ; ‘Rañño dassetha maṃ khippaṃ, rājakiriyāni atthi me’. 260. Ta đã nói với họ như vầy: “Hãy cấp tốc đưa ta đã bị trói bằng gông xiềng chắc chắc đến trình diện đức vua, ta có các việc cần làm cho đức vua.” 13- Như Lai nói với họ “hãy đưa ta đến trước nhà vua – khi họ đang bịt mắt Như Lai – Như Lai có điều muốn nói với nhà vua”.
21. ‘‘Te maṃ rañño dassayiṃsu, pāpassa pāpasevino; Disvāna taṃ saññāpesiṃ, mamañca vasamānayiṃ. 261. Bọn họ đã đưa ta đến gặp vị vua ác xấu là người thân cận với kẻ ác xấu. Sau khi tiếp kiến, ta đã làm cho đức vua hiểu rõ và ta đã tạo được uy thế cho ta. 14- Họ đưa Như Lai đến trước mặt vị vua xấu xa, người đệ tử của vị Bà-la-môn. Khi Như Lai trông thấy nhà vua Như Lai thuyết phục ngài và nhà vua đã nghe theo lời của Như Lai.
22. ‘‘So maṃ tattha khamāpesi, mahārajjamadāsi me; Sohaṃ tamaṃ dālayitvā, pabbajiṃ anagāriyaṃ. 262. Đức vua đã yêu cầu thứ lỗi về việc ấy và đã trao vương quốc rộng lớn lại cho ta. Ta đây, sau khi phá tan sự mê muội, đã xuất gia theo hạnh không nhà. 15- Trong trường hợp này nhà vua xin Như Lai tha thứ và ông ta sẽ giao lại vương quốc. Nhưng Như Lai không còn vướng bận[25] trần tục[26] và quyết định đi xuất gia.
23. ‘‘Na me dessaṃ mahārajjaṃ, kāmabhogo na dessiyo; Sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ, tasmā rajjaṃ pariccaji’’nti. 263. Vương quốc rộng lớn không có bị ta ghét bỏ, sự hưởng thụ các dục không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã từ bỏ vương quốc. 16- Không phải là vương quốc đó không quan trọng đối với Như Lai, cũng như những lạc thú nhưng quả vị toàn giác đối với Như Lai càng quí báu hơn, do đó Như Lai từ bỏ vương quốc.
Somanassacariyaṃ dutiyaṃ. Hạnh của (đức Bồ-tát) Somanassa là phần thứ nhì.  
3. Ayogharacariyā 3. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Ayoghara[47] III.3 Hạnh của Bồ-tát Ayoghara[27]
24. ‘‘Punāparaṃ yadā homi, kāsirājassa atrajo; Ayogharamhi saṃvaḍḍho, nāmenāsi ayogharo. 264. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là người con trai của đức vua Kāsi, ta đã lớn lên trong căn nhà bằng sắt[48] và đã được gọi với tên  là Ayoghara. 1- Lại nữa, khi Như Lai là con trai của vua Kàsi lớn lên trong nhà bằng sắt[28], Như Lai có tên là Ayoghara.
25. ‘‘Dukkhena jīvito laddho, saṃpīḷe patiposito; Ajjeva putta paṭipajja, kevalaṃ vasudhaṃ imaṃ. 265. (Vua cha đã phán rằng:) “Này con, mạng sống của con được tiếp nhận một cách khó khăn, được nuôi dưỡng ở nơi bực bội. Ngay chính ngày hôm nay, con hãy cai quản toàn thể trái đất này 2- Khi Như Lai bảo rằng: “cuộc sống của con gặp nhiều khó khăn, con được nuôi dưỡng trong nơi tù túng[29], chính ngày hôm nay, con sẽ nắm lấy vương quốc này[30]
26. ‘‘Saraṭṭhakaṃ sanigamaṃ, sajanaṃ vanditva khattiyaṃ; Añjaliṃ paggahetvāna, idaṃ vacanamabraviṃ. 266. cùng với cư dân trong xứ sở, luôn cả phố chợ, và loài người nữa.” Sau khi đảnh lễ vị Sát-đế-lỵ, ta đã chắp tay lên và đã nói lời này: 3- Cùng với những vương quốc, các thành phố, thần dân” đảnh lễ hoàng tử Như Lai đáp lễ lại, sau đó Như Lai nói những lời này.
27. ‘‘‘Ye keci mahiyā sattā, hīnamukkaṭṭhamajjhimā; Nirārakkhā sake gehe, vaḍḍhanti sakañātibhi. 267. “Bất cứ chúng sanh nào ở trên trái đất, dầu kém cỏi, cao quý, hoặc trung bình, lớn lên trong nhà của chính họ cùng với các thân quyến không cần sự bảo vệ.” 4- “Bất cứ chúng sinh nào sống trên vương quốc này, thấp hèn, cao quí, trung lưu không cần sự bảo vệ họ cùng nhau lớn lên trong gia đình của mình với những người đàn ông thân thuộc”.[31]
28. ‘‘‘Idaṃ loke uttariyaṃ, saṃpīḷe mama posanaṃ; Ayogharamhi saṃvaḍḍho, appabhe candasūriye. 268. (Rồi ta đã suy nghĩ rằng:) “Sự nuôi dưỡng này của ta ở trong nơi bực bội là hy hữu ở trên thế gian. Ta đã được lớn lên trong căn nhà bằng sắt thiếu hẳn ánh sáng mặt trăng và mặt trời. 5- Cách nuôi nấng của Như Lai bị nhốt lại thì thật hi hữu trên thế gian. Như Lai đã lớn lên trong cái nhà bằng sắt không có ánh sáng mặt trăng hay mặt trời.
29. ‘‘‘Pūtikuṇapasampuṇṇā, muccitvā mātu kucchito; Tato ghoratare dukkhe, puna pakkhittayoghare. 269. Có được tấm thân hối thối này sau khi rời khỏi bụng mẹ, từ đó ta lại bị ném vào căn nhà sắt khổ sở và kinh hãi hơn một lần nữa. 6- Khi Như Lai nằm trong bào thai của mẹ gặp phải những điều khó chịu bó buộc, bây giờ lại một lần nữa Như Lai bị ném vào một cái nhà sắt có nhiều nỗi đau đớn và sợ hãi hơn.
30. ‘‘‘Yadihaṃ tādisaṃ patvā, dukkhaṃ paramadāruṇaṃ; Rajjesu yadi rajjāmi [rañjāmi (sī.)], pāpānaṃ uttamo siyaṃ. 270. Nếu sau khi đã đạt đến khổ đau vô cùng ghê rợn như thế ấy, nếu ta còn thích thú trong vương quyền thì ta là kẻ tồi tệ nhất trong số những kẻ ác xấu.” 7- Nếu Như Lai tìm được sự thỏa thích với quyền lực[32] Như Lai sẽ là người xấu xa nhất[33] trong những người xấu xa, vì Như Lai đến từ nơi đau khổ tàn ác như thế này.
31. ‘‘‘Ukkaṇṭhitomhi kāyena, rajjenamhi anatthiko; Nibbutiṃ pariyesissaṃ, yattha maṃ maccu na maddiye’. 271. Ta nhàm chán xác thân, ta không mong muốn vương quyền, ta sẽ tầm cầu sự tịch diệt Niết-bàn là nơi tử thần không thể đày đọa.” 8- Thân thể Như Lai suy yếu, Như Lai không thiết tha đến quyền lực, Như Lai sẽ đi tìm sự giải thoát nơi cái chết sẽ không còn đe dọa Như Lai “
32. ‘‘Evāhaṃ cintayitvāna, viravante mahājane; Nāgova bandhanaṃ chetvā, pāvisiṃ kānanaṃ vanaṃ. 272. Trong lúc đó đám đông đang kêu gào, ta đã suy nghĩ như vậy và đã đi vào khu rừng rậm, giống như con voi đã giật đứt xiềng xích. 9- Nghĩ như vậy trong lúc đó đám đông đang kêu gào thảm thiết[34], giống như con tượng thoát khỏi sự xiềng xích của nó[35] Như Lai đi vào rừng rậm
33. ‘‘Mātāpitā na me dessā, napi me dessaṃ mahāyasaṃ; Sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ, tasmā rajjaṃ pariccaji’’nti. 273. Mẹ cha không có bị ta ghét bỏ, danh vọng lớn lao cũng không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã từ bỏ vương quốc. 10- Cha mẹ của Như Lai và sự nổi tiếng của Như Lai cũng quan trọng. Nhưng đối với Như Lai quả vị toàn giác lại càng quí hơn, do đó Như Lai từ bỏ vương quốc[36].
Ayogharacariyaṃ tatiyaṃ.  Hạnh của (đức Bồ-tát) Ayoghara là phần thứ ba.  
4. Bhisacariyā 4. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Bhisa[49] III.4 Hạnh liên quan đến những cành hoa sen[37]
34. ‘‘Punāparaṃ yadā homi, kāsīnaṃ puravaruttame; Bhaginī ca bhātaro satta, nibbattā sotthiye kule. 274. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta ở tại kinh thành của xứ Kāsi, (ta có) một người em gái và bảy người em trai được sanh ra trong gia đình quý phái (dòng Bà-la-môn). 1- Lại nữa, khi Như Lai sinh sống trong một thành phố huy hoàng tráng lệ có tên là Kàsi, Như Lai có một em gái và bảy em trai[39] cùng sinh ra trong một gia đình trí thức[40].
35. ‘‘Etesaṃ pubbajo āsiṃ, hirīsukkamupāgato; Bhavaṃ disvāna bhayato, nekkhammābhirato ahaṃ. 275. Trong số những người này, ta đã được sanh ra trước tiên, đạt được pháp trong sạch là sự khiêm tốn. Sau khi nhận thấy sự hiện hữu là nguy hại, ta đã thỏa thích trong việc xuất gia. 2- Như Lai là anh cả, có giới đức trong sạch. Nhìn thấy có sự nguy hại, Như Lai hoan hỉ xuất gia.
36. ‘‘Mātāpitūhi pahitā, sahāyā ekamānasā; Kāmehi maṃ nimantenti, ‘kulavaṃsaṃ dharehi’ti. 276. Các thân hữu, được mẹ và cha nhắn đến, đồng tâm mời mọc (ta) bằng các dục lạc: “Bạn hãy duy trì dòng dõi gia tộc.” 3- Cha mẹ của Như Lai báo cho bạn bè nhất trí mời Như Lai đến dự tiệc. Họ nói rằng: “Hãy gìn giữ phả hệ gia đình”.
37. ‘‘Yaṃ tesaṃ vacanaṃ vuttaṃ, gihīdhamme sukhāvahaṃ; Taṃ me ahosi kaṭhinaṃ, tatta [santatta (ka.)] phālasamaṃ viya. 277. Lời nào của những người ấy được nói ra về việc đem lại lạc thú trong cuộc sống gia đình, điều ấy đối với ta được xem tương tợ như lưỡi cày đã được nung đỏ, thô thiển. 4- Bất cứ những điều gì họ nói là những điều mang lại hạnh phúc ở vương quốc, nhưng đối với Như Lai nó giống như lưỡi cày bị nóng lên và thô cứng[41]
38. ‘‘Te maṃ tadā ukkhipantaṃ, pucchiṃsu patthitaṃ mama; ‘Kiṃ tvaṃ patthayase samma, yadi kāme na bhuñjasi’. 278. Khi ấy, họ đã hỏi ta, kẻ từ khước (cuộc sống gia đình), về nguyện vọng của ta: “Này bạn, nếu bạn không hưởng thục các dục thì bạn mong muốn điều gì?” 5- Rồi họ hỏi Như Lai về nguyện vọng của mình, người đã từ khước vương quốc, “Này bằng hữu bạn khát khao[42] điều gì mà lại không thích hưởng lạc thú?”
39. ‘‘Tesāhaṃ evamavacaṃ, atthakāmo hitesinaṃ; ‘Nāhaṃ patthemi gihībhāvaṃ, nekkhammābhirato ahaṃ’. 279. Là người mong muốn điều tốt đẹp, ta đã nói với họ, những người đang tầm cầu lợi ích (cho ta) rằng: “Tôi không mong muốn trạng thái người tại gia, tôi thỏa thích trong sự xuất ly.” 6- Như Lai nói những lời như vậy với những người đang đi tìm hạnh phúc cho Như Lai, sự khát khao của Như Lai là việc thiện[43], “Như Lai không khát khao vương quốc, Như Lai hoan hỉ được xuất gia”.
40. ‘‘Te mayhaṃ vacanaṃ sutvā, pitumātu ca sāvayuṃ; Mātāpitā evamāhu, ‘sabbeva pabbajāma bho’. 280. Sau khi lắng nghe lời nói của ta, họ đã thuật lại cho cha mẹ (ta). Mẹ cha ta đã nói như vầy: “Này quí vị, tất cả chúng tôi cũng xuất gia.” 7- Khi họ nghe những lời nói của Như Lai, họ thông báo[44] với mẹ cha của Như Lai. Mẹ cha Như Lai nói như vầy: “Thưa quí ngài[45], tất cả[46] chúng tôi đều xuất gia”.
41. ‘‘Ubho mātāpitā mayhaṃ, bhaginī ca satta bhātaro; Amitadhanaṃ chaḍḍayitvā, pāvisimhā mahāvana’’nti. 281. Cả hai mẹ cha của ta, người em gái, và bảy em trai đã buông bỏ của cải vô số rồi đi vào trong khu rừng lớn. 8- Chúng tôi cùng em gái và bảy em trai với[47] bố mẹ từ bỏ sự giàu sang, và đi vào rừng rậm.
Bhisacariyaṃ catutthaṃ.  Hạnh của (đức Bồ-tát) Bhisa là phần thứ tư.  
5. Soṇapaṇḍitacariyā 5. Hạnh của vị Hiền Trí Soṇa[50] III.5 Hạnh Bồ-tát Sona khôn ngoan[48]
42. ‘‘Punāparaṃ yadā homi, nagare brahmavaḍḍhane; Tattha kulavare seṭṭhe, mahāsāle ajāyahaṃ. 282. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta sống ở thành phố Brahma-vaḍḍhana, tại nơi ấy ta đã được sinh ra trong gia đình cao quý, ưu tú, vô cùng giàu có. 1- Lại nữa, khi Như Lai sống ở thành phố Brahmavaddhana[50] ở đó Như Lai được sinh ra trong một gia đình cao quí nổi tiếng và rất giàu có.
43. ‘‘Tadāpi lokaṃ disvāna, andhībhūtaṃ tamotthaṭaṃ; Cittaṃ bhavato patikuṭati, tuttavegahataṃ viya. 283. Khi ấy, ta cũng đã nhận thấy thế gian là bị mù quáng, bị bao phủ bởi bóng tối. Tâm (ta) chối từ sự hiện hữu như thể bị châm chích thô bạo bởi cây gậy nhọn. 2- Rồi ngay sau đó, Như Lai nhận thấy toàn thể chúng sinh đang bị mù quáng, bị cuốn trôi vào bóng tối[51], tâm Như Lai trở nên thức tỉnh như thể bị một mũi nhọn đâm vào da thịt.
44. ‘‘Disvāna vividhaṃ pāpaṃ, evaṃ cintesahaṃ tadā; ‘Kadāhaṃ gehā nikkhamma, pavisissāmi kānanaṃ’. 284. Sau khi nhận thấy sự xấu xa dưới nhiều hình thức khác nhau, ta đã suy nghĩ như vầy: “Lúc nào ta sẽ lìa bỏ gia đình, ta sẽ đi vào rừng?” 3- Sau khi trông thấy nhiều hình thức xấu xa, rồi Như Lai nghĩ như thế này “Khi từ bỏ đời sống gia đình, Như Lai sẽ vào rừng”.
45. ‘‘Tadāpi maṃ nimantesuṃ, kāmabhogehi ñātayo; Tesampi chandamācikkhiṃ, ‘mā nimantetha tehi maṃ’. 285. Cũng vào khi ấy, các thân quyến đã mời mọc ta với các sự thọ hưởng về dục lạc, ta cũng đã nói cho những người ấy về ước muốn (của ta) rằng: “Xin các vị chớ có mời mọc ta bằng những thứ ấy.” 4- Rồi những người thân thuộc cũng[52] mời[53] Như Lai đến hưởng lạc thú, Như Lai cũng nói với họ về khát khao của mình, “đừng mời Như Lai những thứ này”
46. ‘‘Yo me kaniṭṭhako bhātā, nando nāmāsi paṇḍito; Sopi maṃ anusikkhanto, pabbajjaṃ samarocayi. 286. Em trai của ta tên là Nanda là bậc trí tuệ. Vị ấy, trong khi học tập theo ta, cũng đã thích thú với việc xuất gia. 5- Em trai của Như Lai là Nanda một bậc trí tuệ, nó cũng theo sự giáo dục[54] của Như Lai, tìm ra được cùng một niềm vui khi xuất gia.
47. ‘‘Ahaṃ soṇo ca nando ca, ubho mātāpitā mama; Tadāpi bhoge chaḍḍetvā, pāvisimhā mahāvana’’nti. 287. Khi ấy, ta Soṇa và Nanda cùng với cả hai cha mẹ của ta cũng đã buông bỏ của cải vô số rồi đi vào trong khu rừng lớn. 6- Như Lai Sona và Nanda cùng cha mẹ, ngay sau đó từ bỏ tài sản rồi vào rừng rậm.
Soṇapaṇḍitacariyaṃ pañcamaṃ. Hạnh của vị hiền triết Soṇa là phần thứ năm.  
  Dứt sự toàn hảo về xuất ly.  
  IV. SỰ TOÀN HẢO VỀ QUYẾT ĐỊNH Quyết định độ
6. Temiyacariyā 6. Hạnh của vị Hiền Trí Temiya[51] III.6 Hạnh Bồ-tát Temya khôn ngoan[1]
48. ‘‘Punāparaṃ yadā homi, kāsirājassa atrajo; Mūgapakkhoti nāmena, temiyoti vadanti maṃ. 288. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là người con trai của đức vua Kāsi có tên là Mūgapakkha, nhưng mọi người gọi ta là Temiya.[52] 1- Lại nữa, khi Như Lai là con trai của vua Kàsi và có tên là Màgapakkha[2], nhưng họ gọi Như Lai là Temiya[3]
49. ‘‘Soḷasitthisahassānaṃ, na vijjati pumo tadā [sadā (sī.)]; Ahorattānaṃ accayena, nibbatto ahamekako. 289. Khi ấy, mười sáu ngàn phi tần (của đức vua) không có được một người con trai (luôn cả con gái). Sau nhiều ngày đêm, chỉ mỗi một mình ta đã được sanh ra. 2- Trong mười sáu ngàn cung phi mĩ nữ của nhà vua chưa ai sinh được con trai[4]. Sau nhiều ngày nhiều đêm, Như Lai là người duy nhất được sinh ra.
50. ‘‘Kicchā laddhaṃ piyaṃ puttaṃ, abhijātaṃ jutindharaṃ; Setacchattaṃ dhārayitvāna, sayane poseti maṃ pitā. 290. (Vua) cha đã nuôi dưỡng ta, người con trai yêu quý, đạt được một cách khó nhọc, đã được sanh ra vẹn toàn, có thân tâm sáng lạng, ở trên chiếc giường đã được che chiếc lọng màu trắng. 3- Trên giường của Như Lai có một cái lọng màu trắng che chở Như Lai. Cha Như Lai nuôi nấng lớn lên, một đứa con trai yêu dấu, một dòng dõi quí tộc, một người thông thái, thật là quí báu.
51. ‘‘Niddāyamāno sayanavare, pabujjhitvānahaṃ tadā; Addasaṃ paṇḍaraṃ chattaṃ, yenāhaṃ nirayaṃ gato. 291. Khi ấy, trong lúc đang ngủ trên chiếc giường cao quý, ta đã thức giấc và nhìn thấy chiếc lọng nhạt màu, nghĩa là ta sẽ bị đi địa ngục. 4- Như Lai thức dậy sau khi ngủ trên một cái giường lộng lẫy rồi Như Lai trông thấy cái lọng bị phai màu có nghĩa là Như Lai phải đi chuộc tội[5].
52. ‘‘Saha diṭṭhassa me chattaṃ, tāso uppajji bheravo; Vinicchayaṃ samāpanno, ‘kathāhaṃ imaṃ muñcissaṃ’. 292. Có nỗi sợ hãi ghê gớm đã khởi lên ở ta khi được nhìn thấy chiếc lọng. Ta đã đi đến quyết định: “Ta sẽ được thoát khỏi điều này[53] bằng cách nào?”[54] 5- Thấy hình ảnh của cây lọng như vậy Như Lai phát sinh nỗi sợ hãi ghê gớm. Như Lai đi đến quyết định “Như Lai sẽ thoát ra[6] nơi này[7] bằng cách nào[8]?”
53. ‘‘Pubbasālohitā mayhaṃ, devatā atthakāminī; Sā maṃ disvāna dukkhitaṃ, tīsu ṭhānesu yojayi. 293. Có vị tiên nữ trước đây cùng huyết thống với ta[55] có lòng mong muốn điều tốt đẹp cho ta, sau khi nhìn thấy bản thân ta bị đau khổ, đã căn dặn về ba thái độ: 6- Một vị chư thiên trước đây là thân nhân của Như Lai[9], mong muốn sự hạnh phúc của Như Lai, thấy Như Lai đau đớn, bèn khuyên Như Lai về ba cách cư xử[10]
54. ‘‘‘Mā paṇḍiccayaṃ vibhāvaya, bālamato bhava sabbapāṇinaṃ; Sabbo taṃ jano ocināyatu, evaṃ tava attho bhavissati’. 294. “Chớ ra vẻ khôn ngoan, hãy là kẻ ngu si đối với tất cả chúng sanh, hãy làm cho mọi người khinh khi; như thế sẽ có sự tốt đẹp cho con.” 7- “Trước tất cả mọi người đừng tỏ vẻ thông minh[11] hãy giả làm như một kẻ khùng điên[12], để cho mọi người khinh khi ngài – như vậy Như Lai sẽ có sự sung sướng[13]”
55. ‘‘Evaṃ vuttāyahaṃ tassā, idaṃ vacanamabraviṃ; ‘Karomi te taṃ vacanaṃ, yaṃ tvaṃ bhaṇasi devate; Atthakāmāsi me amma, hitakāmāsi devate’. 295. Khi được nói như vậy, ta đã nói với bà ấy lời này: “Bà tiên ơi, con sẽ thực hành theo lời mà bà đã chỉ bảo. Mẹ ơi, mẹ đã có lòng mong muốn điều tốt đẹp cho con. Bà tiên ơi, bà đã có mong muốn điều lợi ích cho con.” 8- [14]Khi nghe xong những lời này Như Lai nói với bà ta: “Như Lai sẽ thực hành theo lệnh như bà[15] đã nói. Bà ước ao Như Lai được sung sướng khỏe mạnh.”
56. ‘‘Tassāhaṃ vacanaṃ sutvā, sāgareva thalaṃ labhiṃ; Haṭṭho saṃviggamānaso, tayo aṅge adhiṭṭhahiṃ. 296. Sau khi nghe được lời nói của bà ấy, ta đã thọ nhận như là đã đến được đất liền ở giữa biển khơi. Mừng rỡ, với tâm ý phấn chấn, ta đã quyết định ba điều: 9- Khi Như Lai nghe được những lời nói của bà ta Như Lai cảm thấy nó như là một điều kỳ diệu. Hân hoan, đắc chí, Như Lai nhất quyết tuân theo ba yếu tố:
57. ‘‘Mūgo ahosiṃ badhiro, pakkho gativivajjito; Ete aṅge adhiṭṭhāya, vassāni soḷasaṃ vasiṃ. 297. Ta đã là người câm, điếc, què quặt, việc đi lại đã được từ bỏ. Ta đã quyết định các điều này và đã sống mười sáu năm. 10- Như Lai là người câm, điếc và què quặt không thể đi lại[16]. Như Lai quyết tâm sống theo ba yếu tố này trong mười sáu năm.
58. ‘‘Tato me hatthapāde ca, jivhaṃ sotañca maddiya; Anūnataṃ me passitvā, ‘kāḷakaṇṇī’ti nindisuṃ. 298. Do đó, họ đã xoa bóp tay chân, lưỡi và mắt của ta. Sau khi nhận thấy không có sự khiếm khuyết ở ta, họ đã chê bai là “Kẻ bất hạnh.” 11- Sau đó họ sờ nắn tay chân, lưỡi và mắt[17] của Như Lai nhận thấy Như Lai không có một khuyết tật nào và cho ta là một người bất hạnh[18].
59. ‘‘Tato jānapadā sabbe, senāpatipurohitā; Sabbe ekamanā hutvā, chaḍḍanaṃ anumodisuṃ. 299. Sau đó, tất cả dân chúng trong xứ sở, các tướng lãnh quân đội, các viên quan tế tự, tất cả đã nhất trí bằng lòng việc truất phế. 12- Rồi tất cả mọi người trong xứ[19], những quan lại và các tu sĩ, cùng tất cả mọi người nhất quyết loại Như Lai sang một bên.
60. ‘‘Sohaṃ tesaṃ matiṃ sutvā, haṭṭho saṃviggamānaso; Yassatthāya tapociṇṇo, so me attho samijjhatha. 300. Sau khi nghe ý kiến của những người ấy, ta đây đã trở nên mừng rỡ, có tâm trí phấn chấn. Sự khổ hạnh đã được thể hiện (bởi ta) vì mục đích nào thì mục đích ấy của ta đã được thành công. 13- Khi Như Lai nghe những quan điểm của họ, Như Lai lấy làm hân hoan, vui vẻ vì mục đích mà Như Lai tu tập khổ hạnh là mục đích mà Như Lai đã thành tựu.
61. ‘‘Nhāpetvā anulimpitvā, veṭhetvā rājaveṭhanaṃ; Chattena abhisiñcitvā, kāresuṃ puraṃ padakkhiṇaṃ. 301. Sau khi đã tắm rửa, xức dầu, đội lên vương miện, làm lễ rưới nước (cho ta), rồi với chiếc lọng che họ đã tiến hành việc đi nhiễu vòng quanh thành phố. 14- Sau khi tắm rửa cho Như Lai, xoa dầu cho Như Lai, đeo cho Như Lai một vương miện trên đầu[20], sau khi làm lễ rải nước thánh cho Như Lai, họ đưa Như Lai đi vòng quanh thành phố có lọng che.
62. ‘‘Sattāhaṃ dhārayitvāna, uggate ravimaṇḍale; Rathena maṃ nīharitvā, sārathī vanamupāgami. 302. Sau khi đã duy trì chiếc lọng trong bảy ngày, đến lúc vầng sáng của mặt trời hiện ra, người đánh xe đã đưa ta ra khỏi (thành phố) bằng chiếc xe ngựa rồi đi về phía khu rừng. 15- Giữ nó ở trên cao trong bảy ngày, vào một ngày khi thiên thể của mặt trời xuất hiện, người đánh xe ngựa đưa Như Lai ra khỏi chiếc xe ngựa, rồi đưa vào rừng.
63. ‘‘Ekokāse rathaṃ katvā, sajjassaṃ hatthamuccito [hatthamuñcito (sī. syā.)]; Sārathī khaṇatī kāsuṃ, nikhātuṃ pathaviyā mamaṃ. 303. Sau khi dừng chiếc xe ở một khoảng trống, người đánh xe đã buộc ngựa để được rảnh tay rồi đã đào cái hố để chôn ta ở trong lòng đất. 16- Giữ chiếc xe ngựa lại khoảng trống, người đánh xe ngựa cho con ngựa chạy thoát[21], người đánh xe đào một cái hố và chôn Như Lai ở đó.
64. ‘‘Adhiṭṭhitamadhiṭṭhānaṃ, tajjento vividhakāraṇā; Na bhindiṃ tamadhiṭṭhānaṃ, bodhiyāyeva kāraṇā. 304. Trong khi nhiều nguyên nhân đủ các loại đang đe dọa điều quyết tâm đã được khẳng định, ta đã không làm đổ vỡ việc tuân thủ đã được quyết định với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ. 17- Như Lai cương quyết[22] giữ vững quyết tâm bằng những hình thức khác[23], Như Lai không từ bỏ[24] quyết định độ vì mục đích giác ngộ.
65. ‘‘Mātāpitā na me dessā, attā me na ca dessiyo; Sabbaññutaṃ piyaṃ mayhaṃ, tasmā vatamadhiṭṭhahiṃ. 305. Mẹ cha không có bị ta ghét bỏ, bản thân cũng không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã quyết định việc tuân thủ. 18- Ðối với Như Lai[25] cha mẹ và bản thân Như Lai cũng quan trọng. Nhưng quả vị toàn giác lại càng quí hơn, do đó Như Lai quyết tâm theo đuổi điều đó[26].
66. ‘‘Ete aṅge adhiṭṭhāya, vassāni soḷasaṃ vasiṃ; Adhiṭṭhānena me samo natthi, esā me adhiṭṭhānapāramī’’ti. 306. Sau khi quyết định các điều này, ta đã sống trong mười sáu năm. Không có ai bằng (ta) về sự quyết định, điều này là sự toàn hảo về quyết định của ta. 19- Như Lai sống trong mười sáu năm để quyết tâm theo đuổi những yếu tố đó. Không có ai giống như Như [27]Lai ở sự quyết tâm đó – đây là quyết định độ của Như Lai.
Temiyacariyaṃ chaṭṭhaṃ. Hạnh của (đức Bồ-tát) Temiya là phần thứ sáu.  
  Dứt sự toàn hảo về quyết định.  
  V. SỰ TOÀN HẢO VỀ CHÂN THẬT Chân thật độ
7. Kapirājacariyā 7. Hạnh của con Khỉ Chúa[56] III.7 Hạnh của Hầu vương[28]
67. ‘‘Yadā ahaṃ kapi āsiṃ, nadīkūle darīsaye; Pīḷito susumārena, gamanaṃ na labhāmahaṃ. 307. Vào lúc ta là con khỉ sống trong hang ở bờ sông, ta đã bị đe dọa bởi con cá sấu nên không đạt được việc ra đi. 1- Khi Như Lai là một con khỉ sống trong hang ở khe của một bờ sông bị một con cá[29] sấu đe dọa, Như Lai không có cơ hội để đi đến hòn đảo[30]
68. ‘‘Yamhokāse ahaṃ ṭhatvā, orā pāraṃ patāmahaṃ; Tatthacchi sattu vadhako, kumbhīlo luddadassano. 308. Tại địa điểm ta thường đứng ở bờ bên này rồi nhảy qua bờ bên kia, tại chỗ ấy có con cá sấu là kẻ thù, là kẻ sát thủ, có dáng vóc hung tợn. 2- Ở nơi đó Như Lai thường đứng[31] ở bên bờ sông này và nhảy xuống bên bờ sông kia[32], ở đó có một con cá sấu, một kẻ thù[33], một kẻ giết người, một hình dáng ghê sợ[34].
69. ‘‘So maṃ asaṃsi ‘ehī’ti, ‘ahaṃpemī’ti taṃ vatiṃ; Tassa matthakamakkamma, parakūle patiṭṭhahiṃ. 309. Con cá sấu đã thông báo với ta rằng: “Cứ việc đi đến.” Ta đã nói với nó rằng: “Tôi đang đi đến,” rồi đã bước lên đầu của nó và đã đứng vững bờ bên kia. 3- Nó nói[35] với Như Lai: “Nào”. “Ta đang đến đây[36]” Như Lai nói[37] với nó. Bước lên đầu của nó Như Lai đi qua[38] được bờ bên kia.
70. ‘‘Na tassa alikaṃ bhaṇitaṃ, yathā vācaṃ akāsahaṃ; Saccena me samo natthi, esā me saccapāramī’’ti. 310. Điều đã được nói với con cá sấu không phải là không đúng sự thật (vì) ta đã hành động đúng theo lời nói. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta. 4- Lời nói của nó không chân thật, Như Lai hành động theo lời của mình[39]. Không có ai chân thật bằng Như Lai – Ðây là chân thật độ của Như Lai.
Kapirājacariyaṃ sattamaṃ. Hạnh của con khỉ chúa là phần thứ bảy.  
8. Saccatāpasacariyā 8. Hạnh của Đạo Sĩ Sacca III. 8 Hạnh của Bồ-tát Sacca khôn ngoan[40]
71. ‘‘Punāparaṃ yadā homi, tāpaso saccasavhayo; Saccena lokaṃ pālesiṃ, samaggaṃ janamakāsaha’’nti. 311. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là đạo sĩ khổ hạnh tên gọi Sacca. Ta đã hộ trì thế gian bằng sự chân thật; ta đã làm cho mọi người hợp nhất. 1- Lại nữa, khi Như Lai là đạo sĩ ẩn dật có tên là Sacca[41], Như Lai bảo vệ[42] thế gian bằng sự chân thật, Như Lai làm cho mọi người đoàn kết[43].
Saccatāpasacariyaṃ aṭṭhamaṃ. Hạnh của đạo sĩ Sacca là phần thứ tám.  
9. Vaṭṭapotakacariyā 9. Hạnh của Chim Cút Con[57] III.9 Hạnh của chim cút con [44]
72. ‘‘Punāparaṃ yadā homi, magadhe vaṭṭapotako; Ajātapakkho taruṇo, maṃsapesi kulāvake. 312. Vào một thời điểm khác nữa, khi ở tại Magadha, ta là con chim cút con, cánh chưa được mọc, còn non nớt, (như) là miếng thịt ở trong tổ. 1- Lại nữa, khi Như Lai là con chim cút con ở Magadha, chưa mọc cánh, vừa mới sinh, như cục thịt trong tổ,
73. ‘‘Mukhatuṇḍakenāharitvā [mukhatuṇḍenāharitvā (sī.)], mātā posayatī mamaṃ; Tassā phassena jīvāmi, natthi me kāyikaṃ balaṃ. 313. (Chim) mẹ tha (mồi) lại ở trong mỏ và nuôi dưỡng ta. Ta sống còn do sự tiếp xúc với chim mẹ; ta không có sức mạnh ở thân. 2- Mẹ Như Lai nuôi Như Lai bằng thức ăn, bà ta mang trong mỏ, Như Lai sống bằng sự mớm mồi của mẹ, Như Lai không có thân thể khỏe mạnh.
74. ‘‘Saṃvacchare gimhasamaye, davaḍāho [vanadāho (ka.)] padippati; Upagacchati amhākaṃ, pāvako kaṇhavattanī. 314. Trong năm vào mùa nóng, có nạn cháy rừng bộc phát. Ngọn lửa cuộn khói đen tiến về hướng chúng tôi. 3- Hàng năm vào mùa nóng một nạn cháy rừng[46] bừng lên, khi ngọn lửa lan dần[47] đến gần chúng tôi.
75. ‘‘Dhamadhamā itievaṃ, saddāyanto mahāsikhī; Anupubbena jhāpento, aggi mamamupāgami. 315. Ngọn lửa lớn lao trong lúc gào thét đã tạo ra luồng khói này cuộn khói nọ. Trong khi lần lượt làm phát cháy, ngọn lửa đã tiến đến gần ta. 4- Ðám cháy khủng khiếp[48] tạo nên những âm thanh răng rắc (dhùma dhùma)[49], một ngọn lửa phừng phừng lan dần đến gần tôi.
76. ‘‘Aggivegabhayātītā, tasitā mātāpitā mama; Kulāvake maṃ chaḍḍetvā, attānaṃ parimocayuṃ. 316. Lo sợ vì sự ồ ạt của ngọn lửa, mẹ cha của ta trở nên kinh hãi, hoảng hốt, đã bỏ rơi ta lại ở trong tổ và đã giải thoát cho bản thân. 5- Cha mẹ ta sợ hãi ngọn lửa khủng khiếp[50], bỏ lại ta trong ổ, rồi họ thoát thân.
77. ‘‘Pāde pakkhe pajahāmi, natthi me kāyikaṃ balaṃ; Sohaṃ agatiko tattha, evaṃ cintesahaṃ tadā. 317. Ta đã ra sức hai chân, hai cánh; ta không có sức mạnh ở thân. Ta đây không đi được. Khi ấy tại nơi ấy, ta đã suy nghĩ như vầy: 6- Như Lai cố gắng[51] dùng chân và cánh. Nhưng Như Lai không có đủ sức mạnh. Bởi vì Như Lai không thể đi[52] được, rồi ở đó[53] Như Lai nghĩ như thế này:
78. ‘‘‘Yesāhaṃ upadhāveyyaṃ, bhīto tasitavedhito; Te maṃ ohāya pakkantā, kathaṃ me ajja kātave. 318. “Bị kinh hãi, hoảng hốt, run sợ, ta có thể chạy đến gần cha mẹ, nhưng họ đã bỏ rơi ta và tẩu thoát. Ta nên hành động như thế nào ngày hôm nay? 7- Ðối với những người đã sợ hãi, run sợ bỏ chạy để Như Lai ở lại một mình. Như Lai phải làm như thế nào hôm nay?
79. ‘‘‘Atthi loke sīlaguṇo, saccaṃ soceyyanuddayā; Tena saccena kāhāmi, saccakiriyamuttamaṃ. 319. Đức hạnh của giới, sự chân thật, sự trong sạch, lòng bi mẫn hiện hữu ở trên đời; với sự chân thật ấy, ta có thể hiện hành động chân thật tối thắng.” 8- Ở thế gian có đặc tính giới hạnh, có sự chân thật, có sự trong sạch, có sự bao dung. [54]Bởi sự chân thật này Như Lai sẽ long trọng xác nhận sự thật cao quí.
80. ‘‘‘Āvejjetvā dhammabalaṃ, saritvā pubbake jine; Saccabalamavassāya, saccakiriyamakāsahaṃ. 320. Ta đã hướng về sức mạnh của Giáo Pháp, tưởng nhớ đến các đấng Chiến Thắng[58] trước đây, và nương tựa vào sức mạnh của sự chân thật, ta đã thể hiện hành động chân thật rằng: 9- Suy niệm về sức mạnh giáo pháp, nhớ lại những bậc chiến thắng trước đây, dựa vào[55] sức mạnh của sự chân thật, Như Lai long trong xác nhận sự chân thật.
81. ‘‘‘Santi pakkhā apatanā, santi pādā avañcanā; Mātāpitā ca nikkhantā, jātaveda paṭikkama’. 321. “Có cánh không thể bay, có chân không thể đi. Mẹ cha đã lìa khỏi, lửa ơi hãy lui đi.” 10- “Có cánh mà không bay, có chân mà không đi[56]. Cha mẹ đã bỏ đi. Jàtaveda[57] lửa tàn dần “
82. ‘‘Sahasacce kate mayhaṃ, mahāpajjalito sikhī; Vajjesi soḷasakarīsāni, udakaṃ patvā yathā sikhī; Saccena me samo natthi, esā me saccapāramī’’ti. 322. Với sự chân thật đã được thực hiện bởi ta, ngọn lửa cháy rực to lớn đã lùi trở lại mười sáu karīsa,[59] giống như ngọn lửa đã gặp phải nước. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta. 11- Như Lai long trọng xác nhận với sự thật, đám cháy khủng khiếp[58] đã lùi trở lại 16 karìsas[59] và giống như đám cháy[60] gặp phải nước. Không có ai chân thật bằng Như Lai – Ðây là chân thật độ của Như Lai.
Vaṭṭapotakacariyaṃ navamaṃ. Hạnh của chim cút con là phần thứ chín.  
10. Maccharājacariyā 10. Hạnh của Vua Cá[60] III.10 Hạnh của Ngư vương[61]
83. ‘‘Punāparaṃ yadā homi, maccharājā mahāsare; Uṇhe sūriyasantāpe, sare udaka khīyatha. 323. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là vua của loài cá ở trong cái hồ rộng lớn. Và nước ở trong hồ bị khô cạn vào mùa nắng, dưới sự đốt cháy của ánh mặt trời. 1- Lại nữa, khi Như Lai làm vua cá trong một cái hồ lớn vào mùa nắng[62], dưới ánh mặt trời nóng bức, nước trong hồ khô cạn
84. ‘‘Tato kākā ca gijjhā ca, kaṅkā [bakā (sī.)] kulalasenakā; Bhakkhayanti divārattiṃ, macche upanisīdiya. 324. Do đó, các con quạ, các con diều hâu, các con cò, các con chim ưng và chim ó đã đáp xuống, ăn các con cá ban ngày lẫn ban đêm.[61] 2- Rồi sao đó con quạ, con diều hâu và những con cò con ó[63] ngồi gần đó ăn cá[64] ngày đêm.
85. ‘‘Evaṃ cintesahaṃ tattha, saha ñātīhi pīḷito; ‘Kena nu kho upāyena, ñātī dukkhā pamocaye’. 325. Tại nơi ấy, cùng với các thân quyến ta đã bị áp bức, và ta đã suy nghĩ như vầy: “Vậy thì bằng cách nào để ta có thể giải thoát cho thân quyến khỏi khổ đau?” 3- Ở đó cùng chịu sự áp bức đến với những người thân của Như Lai, Như Lai nghĩ như vầy: “bây giờ bằng cách nào mà Như Lai có thể giúp cho thân nhân tránh khỏi sự đau khổ”.
86. ‘‘Vicintayitvā dhammatthaṃ, saccaṃ addasa passayaṃ; Sacce ṭhatvā pamocesiṃ, ñātīnaṃ taṃ atikkhayaṃ. 326. Sau khi xem xét ý nghĩa của các pháp, ta đã nhận ra sự chân thật là nơi nương tựa. Căn cứ vào sự chân thật, ta đã cởi bỏ thảm họa bị diệt chủng ấy cho các thân quyến. 4- Sau khi xem xét thiện pháp[65], Như Lai tìm thấy được sự thật là một sự hỗ trợ. Tin tưởng vào sự thật, Như Lai hóa giải những tai họa đến với người thân của Như Lai.
87. ‘‘Anussaritvā sataṃ dhammaṃ, paramatthaṃ vicintayaṃ; Akāsi saccakiriyaṃ, yaṃ loke dhuvasassataṃ. 327. Sau khi hồi tưởng về thiện pháp, ta đã suy nghiệm về chân lý tuyệt đối. Ta đã thể hiện hành động chân thật là pháp bền vững và thường còn ở thế gian rằng: 5- Sau khi ghi nhớ lại pháp chân thật[66], được xem là điều tốt lành nhất, Như Lai long trong xác nhận sự thật sẽ tồn tại và bất diệt trong thế gian:
88. ‘‘‘Yato sarāmi attānaṃ, yato pattosmi viññutaṃ; Nābhijānāmi sañcicca, ekapāṇampi hiṃsitaṃ. 328. “Kể từ lúc ta nhớ được về bản thân, kể từ khi ta đạt đến sự hiểu biết, ta không biết đến việc đã cố ý hãm hại dầu chỉ một sanh mạng.[62] Do lời nói chân thật này, xin Thần Mây[63] hãy đổ mưa xuống. 6- “Miễn là Như Lai có thể nhớ về bản thân mình, kể từ khi Như Lai có sự chín chắn Như Lai không biết gây ra sự đau đớn[67] ngay cả với ý định làm hại đến một sinh vật. Bởi lời nói chân thật này có thể làm vua trời[68] cho mưa xuống
89. ‘‘‘Etena saccavajjena, pajjunno abhivassatu; Abhitthanaya pajjunna, nidhiṃ kākassa nāsaya; Kākaṃ sokāya randhehi, macche sokā pamocaya’. 329. Hỡi Thần Mây, hãy vang lên tiếng sấm, hãy làm tiêu tan kho lương dự trữ của loài quạ,[64] hãy vây hãm loài quạ bằng sự buồn rầu, hãy giải thoát loài cá khỏi nỗi phiền muộn.” 7- Sấm sét (pajjunna)! Phá hủy kho báu vô chủ của loài cò[69], làm[70] loài cò sợ hãi và giúp cho loài cá[71] thoát khỏi sự đau đớn”
90. ‘‘Sahakate saccavare, pajjunno abhigajjiya; Thalaṃ ninnañca pūrento, khaṇena abhivassatha. 330. Đồng lúc với sự chân thật cao quý được thể hiện, Thần Mây đã gầm lên tiếng sấm và trong giây lát đã đổ mưa xuống, làm tràn ngập vùng đất liền và trũng thấp. 8- Và ngay sau khi long trọng xác nhận sự thật, vua trời làm cho sấm sét, và trong chốc lát mưa đổ xuống ngập vùng cao vùng thấp[72]
91. ‘‘Evarūpaṃ saccavaraṃ, katvā vīriyamuttamaṃ; Vassāpesiṃ mahāmeghaṃ, saccatejabalassito; Saccena me samo natthi, esā me saccapāramī’’ti. 331. Sau khi thể hiện sự tinh tấn tột đỉnh là pháp chân thật cao quý có hình thức như thế, (có sự) tin cậy vào năng lực và uy quyền của sự chân thật, ta đã làm cho đám mây lớn đổ mưa xuống. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta. 9- Truyền bá năng lực[73] tối cao đối với sự thật cao quí, dựa vào năng lực và sự tỏa sáng của chân lý, Như Lai đã làm cho mưa ghê gớm đổ xuống. Không có ai chân thật bằng Như Lai – Ðây là chân thật độ của Như Lai.
Maccharājacariyaṃ dasamaṃ.  Hạnh của vua cá là phần thứ mười.  
11. Kaṇhadīpāyanacariyā 11. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Kaṇhadīpāyana[65] III.11 Hạnh của Bồ-tát Kanhadìpàyana[74]
92. ‘‘Punāparaṃ yadā homi, kaṇhadīpāyano isi; Paropaññāsavassāni, anabhiratocariṃ ahaṃ. 332. Vào một thời điểm khác nữa, khi là vị ẩn sĩ Kaṇhadīpāyana, ta đã sống không được hoan hỷ hơn năm mươi năm. 1- Lại nữa, khi Như Lai là một thầy bói có tên là Kanhadìpàyana[75], Như Lai bị người ta bạc đãi[76] hơn 50 năm
93‘‘Na koci etaṃ jānāti, anabhiratimanaṃ mama; Ahañhi kassaci nācikkhiṃ, arati me carati mānase. 333. Không ai biết tâm ý không hoan hỷ này của ta. Ta đã không nói ra với ai cả và sự không hoan hỷ diễn tiến ở trong tâm ý của ta. 2- Không ai biết được điều này đã làm cho tâm Như Lai khó chịu bởi vì[77] Như Lai chẳng nói với ai hết; sự khó chịu này vẫn tiếp tục xảy ra trong tâm Như Lai.
94. ‘‘Sabrahmacārī maṇḍabyo, sahāyo me mahāisi; Pubbakammasamāyutto, sūlamāropanaṃ labhi. 334. Bà-la-môn Maṇḍabya, bạn của ta, là một vị đại ẩn sĩ đã bị thọ lãnh (hành phạt) cắm cọc nhọn do trả quả của nghiệp quá khứ.[66] 3- Một người Bà-la-môn[78] bị bạc đãi, có tên là Mandabya, bạn của Như Lai, một người thầy bói nổi tiếng, do có sự liên quan với hành động trước đây[79] đã bị đóng cọc nhọn.
95. ‘‘Tamahaṃ upaṭṭhahitvāna, ārogyamanupāpayiṃ; Āpucchitvāna āgañchiṃ, yaṃ mayhaṃ sakamassamaṃ. 335. Ta đã chăm sóc và đã phục hồi sức khỏe cho vị ấy. Sau khi cáo từ, ta đã trở về lại chốn ẩn cư của mình. 4- Sau khi đến thăm vị này Như Lai phục hồi sức khỏe cho bạn mình. Rồi Như Lai xin phép[80] được trở về nơi ẩn dật của mình.
96. ‘‘Sahāyo brāhmaṇo mayhaṃ, bhariyaṃ ādāya puttakaṃ; Tayo janā samāgantvā, āgañchuṃ pāhunāgataṃ. 336. Người bạn Bà-la-môn của ta đã đưa vợ và đứa con trai nhỏ đến. Ba người cùng đi và đã đi đến với tư thế của những người khách. 5- Người bạn Bà-la-môn của Như Lai đem vợ cùng con trai nhỏ – tất cả ba người, đến ở cũng như là những người khách.
97. ‘‘Sammodamāno tehi saha, nisinno sakamassame; Dārako vaṭṭamanukkhipaṃ, āsīvisamakopayi. 337. Trong lúc ta đang ngồi tại chốn ẩn cư của mình chuyện trò với những người ấy, đứa bé trai đã ném trái banh và làm cho làm con rắn có nọc độc giận dữ. 6- Trong lúc Như Lai đang chào hỏi với họ, ngồi ở trong cốc của mình, đứa trẻ ném trái banh[81] làm con rắn giận dữ[82].
98. ‘‘Tato so vaṭṭagataṃ maggaṃ, anvesanto kumārako; Āsīvisassa hatthena, uttamaṅgaṃ parāmasi. 338. Sau đó, trong lúc dõi theo lộ trình di chuyển của trái banh, đứa bé trai ấy đã chạm bàn tay vào đầu của con rắn độc. 7- Rồi đứa bé tìm nơi trái banh lăn, tay của nó chạm vào đầu con rắn độc.
99. ‘‘Tassa āmasane kuddho, sappo visabalassito; Kupito paramakopena, aḍaṃsi dārakaṃ khaṇe. 339. Do sự đụng chạm của đứa bé, con rắn đã trở nên giận dữ. Ỷ lại vào sức mạnh của nọc độc, bị bực bội với sự bực bội cùng tột, con rắn ngay lập tức đã cắn đứa bé. 8- Do sự đụng chạm của đứa bé con rắn giận dữ với nọc độc cực mạnh của nó, lập tức nó cắn vào tay đứa bé.
100. ‘‘Sahadaṭṭho āsīvisena [ativisena (pī. ka.)], dārako papati [patati (ka.)] bhūmiyaṃ; Tenāhaṃ dukkhito āsiṃ, mama vāhasi taṃ dukkhaṃ. 340. Khi bị cắn bởi con rắn độc, đứa bé đã ngã xuống ở trên nền đất. Vì điều ấy, ta đã trở nên đau buồn; nỗi buồn đau ấy đã tác động đến ta. 9- Khi đứa bé bị con rắn độc cắn[83], nó ngã lăn trên nền nhà, do đó Như Lai hết sức đau buồn; nỗi buồn của bố mẹ[84] đứa bé làm cho Như Lai cảm thấy[85] khó chịu.
101. ‘‘Tyāhaṃ assāsayitvāna, dukkhite sokasallite; Paṭhamaṃ akāsiṃ kiriyaṃ, aggaṃ saccaṃ varuttamaṃ. 341. Sau khi an ủi họ (là những người) đang bị đau khổ, đang bị mũi tên sầu muộn, ta đã thể hiện hành động chân thật tột đỉnh cao quý tối thượng lần đầu tiên rằng: 10- Như Lai an ủi và chia xẻ nỗi đau khổ của họ, điều quan trong hơn hết là Như Lai long trọng xác nhận về sự chân thật.
102. ‘‘‘Sattāhamevāhaṃ pasannacitto, puññatthiko acariṃ brahmacariyaṃ; Athāparaṃ yaṃ caritaṃ mamedaṃ, vassāni paññāsasamādhikāni. 342. “Là người mong mỏi phước thiện, ta đã thực hành Phạm hạnh với tâm tín thành chỉ được bảy ngày. Từ đó về sau, Phạm hạnh của ta là năm mươi năm và thêm nữa. 11- [86]”Chỉ trong bảy ngày với một tâm thành kính, mong cầu phước thiện, chịu bạc đãi của những người Bà-la-môn. Rồi sau đó, chính điều này là sự bạc đãi của Như Lai[87] trong 50 năm và hơn nữa[88].
103. ‘‘‘Akāmako vāhi ahaṃ carāmi, etena saccena suvatthi hotu; Hataṃ visaṃ jīvatu yaññadatto’. 343. Ta thực hành (Phạm hạnh) không có nhiệt tình, chỉ qua ngày. Do lời nói chân thật này, hãy có được sự tốt lành, chất độc hãy được tiêu trừ, và Yaññadatta[67] hãy sống.” 12- Như Lai chỉ nhận sự bạc đãi một cách miễn cưỡng. Bằng sự chân thật này có thể có được sự tốt lành[89], chất độc bị tiêu hủy và Yannadatta[90] sống lại”.
104. ‘‘Saha sacce kate mayhaṃ, visavegena vedhito; Abujjhitvāna vuṭṭhāsi, arogo cāsi māṇavo; Saccena me samo natthi, esā me saccapāramī’’ti. 344. Với sự chân thật của ta đã được thể hiện, đứa bé Bà-la-môn bị run rẩy bởi sức mạnh của nọc độc đã được tỉnh lại, đã đứng lên, không tật bệnh. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta. 13- Như Lai long trọng xác nhận sự chân thật này, đứa bé Bà-la-môn đã bị sức mạnh nọc độc làm run rẩy, tỉnh dậy, đứng lên và khỏe mạnh. Không có ai có sự chân thật bằng Như Lai – đây là chân thật độ.
Kaṇhadīpāyanacariyaṃ ekādasamaṃ.  Hạnh của (đức Bồ-tát) Kaṇhadīpāyana là phần thứ mười một.  
12. Sutasomacariyā 12. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Sutasoma[68] III.12 Hạnh của Bồ-tát Sutasoma[91]
105. ‘‘Punāparaṃ yadā homi, sutasomo mahīpati; Gahito porisādena, brāhmaṇe saṅgaraṃ sariṃ. 345. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là đức vua Sutasoma. Bị bắt giữ bởi Porisāda (kẻ ăn thịt người), ta đã nhớ lại lời hứa với vị Bà-la-môn. 1- Một lần nữa khi Như Lai là một vị vua tên là Sutasoma, bị một người ăn thịt bắt giữ Như Lai hứa lời hứa[92] của mình với vị Bà-la-môn.
106. ‘‘Khattiyānaṃ ekasataṃ, āvuṇitvā karattale; Etesaṃ pamilāpetvā, yaññatthe upanayī mamaṃ. 346. Sau khi xỏ dây ở lòng bàn tay của một trăm vị Sát-đế-lỵ rồi (treo lên) phơi khô họ, kẻ ấy đã đưa ta đi nhằm mục đích tế thần. 2- Sau khi xỏ xâu[93] treo một trăm vị hoàng tử trên cây, rồi để cho họ chết khô[94], ông ta đưa Như Lai làm vật hi sinh.
107. ‘‘Apucchi maṃ porisādo, ‘kiṃ tvaṃ icchasi nissajaṃ; Yathāmati te kāhāmi, yadi me tvaṃ punehisi’. 347. Kẻ ăn thịt người đã hỏi ta rằng: “Có phải ngài mong muốn việc cởi trói? Ta sẽ làm theo ý thích của ngài nếu ngài còn quay trở lại.” 3- Người ăn thịt hỏi Như Lai: “Có phải là ông muốn được tự do không[95]? Ta sẽ làm theo ýthích của ông nếu ông sẽ trở lại gặp ta”.
108. ‘‘Tassa paṭissuṇitvāna, paṇhe āgamanaṃ mama; Upagantvā puraṃ rammaṃ, rajjaṃ niyyādayiṃ tadā. 348. Vào lúc ấy, sau khi đã hứa hẹn đối với câu hỏi của kẻ (ăn thịt người) ấy về việc trở lại của ta, ta đã đi đến thành phố tráng lệ và đã chối từ vương quốc. 4- Sau khi hứa với người ăn thịt Như Lai sẽ trở lại vào buổi hoàng hôn, đến gần thành phố tráng lệ, rồi Như Lai tuyên bố sự với thần dân.
109. ‘‘Anussaritvā sataṃ dhammaṃ, pubbakaṃ jinasevitaṃ; Brāhmaṇassa dhanaṃ datvā, porisādaṃ upāgamiṃ. 349. Sau khi tưởng nhớ đến Chánh Pháp đã được thực hành bởi các đấng Chiến Thắng thời quá khứ, ta đã trao lại tài sản cho vị Bà-la-môn và đã đi đến gặp kẻ ăn thịt người. 5- Nhận thức được giáo pháp tốt đẹp mà những người chiến thắng trước đây đã đi theo, Như Lai trao lại sự giàu sang cho vị Bà-la-môn, rồi trở lại với kẻ ăn thịt người.
110. ‘‘Natthi me saṃsayo tattha, ghātayissati vā na vā; Saccavācānurakkhanto, jīvitaṃ cajitumupāgamiṃ; Saccena me samo natthi, esā me saccapāramī’’ti. 350. Trong trường hợp ấy, không có sự phân vân ở ta về việc kẻ ấy sẽ giết hay không (giết). Trong khi bảo vệ lời nói chân thật, ta đã đi đến để buông bỏ mạng sống. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta. 6- Như Lai không bận tâm là người này sẽ giết Như Lai hay không. Ðể bảo vệ lời nói chân thật Như Lai đến để hi sinh mạng sống, không có ai chân thật bằng Như Lai. Ðây là chân thật độ[96].
Sutasomacariyaṃ dvādasamaṃ. Hạnh của (đức Bồ-tát) Sutasoma là phần thứ mười hai.  
  Dứt sự toàn hảo về chân thật.  
  VI. SỰ TOÀN HẢO VỀ TỪ ÁI Từ tâm độ
13. Suvaṇṇasāmacariyā 13. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Suvaṇṇasāma[69] III.13 Hạnh Bồ-tát Suvannasàma[97]
111. ‘‘Sāmo yadā vane āsiṃ, sakkena abhinimmito; Pavane sīhabyagghe ca, mettāyamupanāmayiṃ. 351. Vào lúc ta là Sāma ở trong khu rừng đã được (Chúa Trời) Sakka hóa hiện ra. Ở trong khu rừng lớn, ta đã rải tâm từ ái đến các loài sư tử và cọp. 1- Khi ở trong rừng Như Lai có tên là Sàma do lời khuyên của trời Ðế Thích[99], Như Lai rải tâm từ cho loài sư tử, cọp ở trong rừng.
112. ‘‘Sīhabyagghehi dīpīhi, acchehi mahisehi ca; Pasadamigavarāhehi, parivāretvā vane vasiṃ. 352. Ta đã sống ở trong khu rừng, được quây quần xung quanh bởi các loài sư tử, cọp, beo, gấu, trâu rừng, nai đốm, và heo rừng. 2- Như Lai sống ở trong rừng, ở xung quanh có sư tử, cọp, beo[100], gấu, trâu rừng, nai và lợn rừng.
113. ‘‘Na maṃ koci uttasati, napi bhāyāmi kassaci; Mettābalenupatthaddho, ramāmi pavane tadā’’ti. 353. Không loài thú nào e ngại ta, ta cũng không sợ hãi loài thú nào. Lúc bấy giờ, được duy trì nhờ vào năng lực từ ái, ta hứng thú ở trong khu rừng lớn. 3- Không loài thú nào sợ[101] Như Lai và Như Lai cũng không làm[102] cho bất cứ loài thú[103] nào sợ; Như Lai sống nhờ năng lực của tâm từ cho nên rất thỏa thích ở trong rừng[104].
Suvaṇṇasāmacariyaṃ terasamaṃ. Hạnh của (đức Bồ-tát) Suvaṇṇasāma là phần thứ mười ba.  
14. Ekarājacariyā 14. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Ekarāja[70] III.14 Hạnh của Bồ-tát Ekaràja[105]
114. ‘‘Punāparaṃ yadā homi, ekarājāti vissuto; Paramaṃ sīlaṃ adhiṭṭhāya, pasāsāmi mahāmahiṃ. 354. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta được nổi tiếng (với tên) là Ekarāja. Ta đã phát nguyện về giới hạnh tối cao và đã cai quản trái đất to lớn.[71] 1- Lại nữa, khi Như Lai có tên là Ekaràja, rất nổi tiếng đang hết sức gìn giữ giới hạnh cao quí[106], Như Lai cai trị[107] một nước hùng mạnh
115. ‘‘Dasa kusalakammapathe, vattāmi anavasesato; Catūhi saṅgahavatthūhi, saṅgaṇhāmi [saṅgahāmi (ka.)] mahājanaṃ. 355. Ta đã thực hành về thập thiện nghiệp đạo không thiếu sót. Ta đã thâu phục đám đông dân chúng bằng bốn phép tiếp độ. 2- Không kể đến việc Như Lai đã tu tập thập thiện[108], Như Lai đối xử với thần dân tử tế bằng tứ vô lượng tâm[109]
116. ‘‘Evaṃ me appamattassa, idha loke parattha ca; Dabbaseno upagantvā, acchindanto puraṃ mama. 356. Trong lúc ta đang tinh tấn như thế vì lợi ích ở đời này và thế giới khác, Dabbasena[72] đã tiến đến chiếm cứ thành phố của ta. 3- Trong lúc Như Lai đang tinh tấn như vậy vì lợi ích của thế gian này và rồi vua xứ Kosala[110] đã xuất hiện chinh phục thành trì của Như Lai[111]
117. ‘‘Rājūpajīve nigame, sabalaṭṭhe saraṭṭhake; Sabbaṃ hatthagataṃ katvā, kāsuyā nikhaṇī mamaṃ. 357. Sau khi thực hiện việc thâu tóm tất cả gồm có nhân sự của đức vua, các thị dân, cùng với quân đội, vá các cư dân của xứ sở, (vị ấy) đã chôn ta ở trong cái hố. 4- Thu gom toàn bộ tài sản của nhà vua, dân chúng cùng với quân đội và chôn[112] Như Lai vào trong một cái hố[113]
118. ‘‘Amaccamaṇḍalaṃ rajjaṃ, phītaṃ antepuraṃ mama; Acchinditvāna gahitaṃ, piyaṃ puttaṃva passahaṃ; Mettāya me samo natthi, esā me mettāpāramī’’ti. 358. (Vị ấy) đã chiếm đoạt quần thần, vương quốc thịnh vượng, và hậu cung của ta. Ta đã nhìn thấy chính đứa con trai yêu dấu đang bị bắt đi. Không có ai bằng (ta) về từ ái, điều này là sự toàn hảo về từ ái của ta. 5- Trong khi vua xứ Kosala bắt giữ toàn bộ quần thần, vương quốc thịnh vượng, hoàng cung của Như Lai[114], thậm chí Như Lai cũng trông thấy đứa con trai yêu dấu của mình bị bắt đi. Không ai có tâm từ bằng Như Lai – đây là độ tâm từ của Như Lai.
Ekarājacariyaṃ cuddasamaṃ. Hạnh của (đức Bồ-tát) Ekarāja là phần thứ mười bốn.  
  VII. SỰ TOÀN HẢO VỀ HÀNH XẢ Xả độ
15. Mahālomahaṃsacariyā 15. Hạnh của (Đức Bồ-tát) Mahālomahaṃsa[73] III.15 Phẩm hạnh cao quí phi thường[115]
119. ‘‘Susāne seyyaṃ kappemi, chavaṭṭhikaṃ upanidhāyahaṃ; Gāmaṇḍalā [gomaṇḍalā (sī.), gāmamaṇḍalā (syā.)] upāgantvā, rūpaṃ dassentinappakaṃ. 359. Ta nằm ở trong bãi tha ma tựa vào bộ xương người chết. Đám trẻ con nhà quê đã đi đến và đã phô diễn hình thức (khuấy rối) không phải là ít. 1- [116]Như Lai nằm trong nghĩa trang dựa vào[117] bộ xương người. Một đám trẻ con nhà quê[118] đến gần và nhạo báng Như Lai.
120. ‘‘Apare gandhamālañca, bhojanaṃ vividhaṃ bahuṃ; Upāyanānūpanenti, haṭṭhā saṃviggamānasā. 360. Các đứa khác mừng rỡ, với tâm trí phấn chấn, mang lại các quà tặng là hương thơm, vòng hoa, và vô số thực phẩm các loại. 2- Những đứa khác mang lại cho Như Lai nhiều dầu thơm vòng hoa[119] và những loại thực phẩm, Như Lai cảm thấy hoan hỉ và phấn khởi.
121. ‘‘Ye me dukkhaṃ upaharanti, ye ca denti sukhaṃ mama; Sabbesaṃ samako homi, dayā kopo na vijjati. 361. Ta đều bình đẳng đối với tất cả những ai gây ra khổ đau cho ta cũng như những ai đem lại cho ta an lạc; thương và giận đều không được biết đến. 3- Những đứa trẻ gây cho[120] Như Lai đau đớn và những đứa khác đem lại cho như hạnh phúc – đối với Như Lai tử tế hay giận hờn[121] đều vô nghĩa.
122. ‘‘Sukhadukkhe tulābhūto, yasesu ayasesu ca; Sabbattha samako homi, esā me upekkhāpāramī’’ti. 362. Là thăng bằng giữa an lạc và khổ đau, giữa các danh thơm và những tiếng xấu, ta đều bình đẳng trong mọi trường hợp; điều này là sự toàn hảo về hành xả của ta. 4- Sau khi Như Lai đã hòa đồng giữa hạnh phúc và đau khổ, danh dự và nhục nhã[122]. Như Lai vẫn an nhiên tự tại ở mọi hoàn cảnh – đây là xả độ của Như Lai.
Mahālomahaṃsacariyaṃ pannarasamaṃ. Hạnh của (đức Bồ-tát) Mahālomahaṃsa là phần thứ mười lăm. Kết thúc là phần bình luận về xả độ[123]
Yudhañjayavaggo tatiyo. Dứt sự toàn hảo về hành xả.  
Tassuddānaṃ –    
  BÀI KỆ TÓM TẮT Tóm tắt[124]
Yudhañjayo somanasso, ayogharabhisena ca; Soṇanando mūgapakkho, kapirājā saccasavhayo. 363. Chuyện Yudhañjaya, chuyện Somanassa, chuyện Ayoghara (ngôi nhà sắt), và chuyện Bhisa, chuyện Soṇa và Nanda, chuyện Mūgapakkha (Temiya), chuyện con khỉ chúa, và chuyện vị (đạo sĩ) tên Sacca. 1 (6)- Yudhanjana, Somanassa, Ayoghasa và liên quan đến cành hoa sen[125], Sonananda, Mùgapakkha, hầu vương có tên là Sacca.
Vaṭṭako maccharājā ca, kaṇhadīpāyano isi; Sutasomo puna āsiṃ [āsi (syā.)], sāmo ca ekarājahu; Upekkhāpāramī āsi, iti vutthaṃ [vuttaṃ (sabbattha) aṭṭhakathā oloketabbā] mahesinā. 364. Chuyện chim cút con, và chuyện vua cá, chuyện ẩn sĩ Kaṇhadīpāyana, lại nữa ta đã là Sutasoma, Sāma, và Ekarājā, và đã có sự toàn hảo về hành xả; như thế đã được thuyết giảng bởi vị Đại Ẩn Sĩ. 2 (6)- Chin cút và ngư vương, thầy bói Kanhadìpàyana, lại nữa Như Lai là Sutasoma, Như Lai là Sàma và Ekaràjà, đã có độ xả. Như vậy nó đã được vị thầy bói tài giỏi tuyên bố.
Evaṃ bahubbidhaṃ dukkhaṃ, sampattī ca bahubbidhā [sampatti ca bahuvidhā (sī.), sampattiṃ ca bahuvidhaṃ (ka.)]; Bhavābhave anubhavitvā, patto sambodhimuttamaṃ. 365. Sau khi kinh nghiệm khổ đau dưới nhiều hình thức và thành công với nhiều thể loại ở lần tái sanh này đến lần tái sanh khác như thế, ta đã đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng. 1 (7)- Sau khi đã trải qua nhiều đau khổ và hạnh phúc ở những kiếp[126] khác nhau như vậy, Như Lai đã đạt được sự giác ngộ tối cao.
Datvā dātabbakaṃ dānaṃ, sīlaṃ pūretvā asesato; Nekkhamme pāramiṃ gantvā, patto sambodhimuttamaṃ. 366. Sau khi bố thí những gì cần được bố thí, sau khi làm viên mãn giới hạnh không thiếu sót, sau khi đạt đến sự toàn hảo về xuất ly, ta đã đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng. 2 (8)- Phải bố thí những gì đã bố thí[127], đã thực hành viên mãn giới hạnh, sau khi đã hoàn thành xuất gia độ, Như Lai đã đạt được sự giác ngộ tối cao.
Paṇḍite paripucchitvā, vīriyaṃ katvāna muttamaṃ; Khantiyā pāramiṃ gantvā, patto sambodhimuttamaṃ. 367. Sau khi đã vấn hỏi các bậc hiền trí, sau khi đã thể hiện sự tinh tấn tối thượng, sau khi đã đạt đến sự toàn hảo về nhẫn nại, ta đã đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng. 3 (9)- Sau khi đã viên mãn trí tuệ độ[128], sau khi đã viên mãn tinh tấn độ, sau khi đã viên mãn nhẫn nại độ, Như Lai đã thành tựu sự giác ngộ cao quí.
Katvā daḷhamadhiṭṭhānaṃ, saccavācānurakkhiya; Mettāya pāramiṃ gantvā, patto sambodhimuttamaṃ. 368. Sau khi đã thực hành sự quyết định vững chắc, sau khi đã hộ trì lời nói chân thật, sau khi đã đạt đến sự toàn hảo về từ ái, ta đã đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng. 4 (10)- Sau khi đã thực hành quyết định độ, giữ gìn lời nói chân thật, viên mãn độ tâm từ, Như Lai đã thành tựu sự giác ngộ cao quí.
Lābhālābhe yasāyase, sammānanāvamānane; Sabbattha samako hutvā, patto sambodhimuttamaṃ. 369. Ðối với lợi lộc và không lợi lộc, đối với danh thơm và tiếng xấu, đối với sự kính trọng và chê bai, sau khi đã là bình đẳng trong mọi trường hợp, ta đã đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng. 5 (11)- Ðối với thành tựu và không thành tựu, danh dự và nhục nhã[129], kính trọng[130] và chê bai – đối với Như Lai những pháp trên đều giống nhau[131], Như Lai đã thành tựu quả vị giác ngộ tối cao,
Kosajjaṃ bhayato disvā, vīriyārambhañca khemato; Āraddhavīriyā hotha, esā buddhānusāsanī. 370. Sau khi thấy được sự biếng nhác là nguy hiểm và việc khởi sự tinh tấn là an toàn, hãy nỗ lực tinh tấn; đây là lời giáo huấn của chư Phật. 6 (12)- Sau khi nhận thức được sự dể duôi như là một tai họa và năng lực tinh tấn như là sự an lạc, là những sự thúc đẩy cho việc tinh tấn – đây là lời dạy của đức Phật[132].
Vivādaṃ bhayato disvā, avivādañca khemato; Samaggā sakhilā hotha, esā buddhānusāsanī. 371. Sau khi thấy được sự tranh cãi là nguy hiểm và sự không tranh cãi là an toàn, hãy hợp nhất, thân thiện; đây là lời giáo huấn của chư Phật. 7 (13)- Sau khi nhận thức được sự bất hoà[133] là một tai họa và sự hòa thuận[134] là an lạc, đoàn kết, nhân ái[135] – đây là lời dạy của chư Phật.
Pamādaṃ bhayato disvā, appamādañca khemato; Bhāvethaṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ, esā buddhānusāsanī. 372. Sau khi thấy được sự dễ duôi là nguy hiểm và sự không dễ duôi là an toàn, hãy tu tập đạo lộ tám chi phần; đây là lời giáo huấn của chư Phật.[74] 8 (14)- Sau khi nhận thức được sự phóng túng là tai họa và tinh tấn là an lạc, tu tập bát chánh đạo[136] – đây là lời dạy của chư Phật.
  Phẩm Yudhañjaya là thứ ba.  
Itthaṃ sudaṃ bhagavā attano pubbacariyaṃ sambhāvayamāno buddhāpadāniyaṃ nāma dhammapariyāyaṃ abhāsitthāti. Ở đây, trong khi trình bày về phẩm hạnh quá khứ của bản thân, đức Thế Tôn đã thuyết giảng về bản thể của Giáo Pháp có tên là Buddhāpadāniyaṃ.[75] Nhà vua ở hình thức này[137] minh họa về phẩm hạnh kiếp trước của ngài nói về chủ đề pháp bảo bằng một lời văn trau chuốt được gọi là những câu chuyện dũng cảm về tiền thân của đức Phật[138].
Cariyāpiṭakaṃ niṭṭhitaṃ. Hạnh Tạng được đầy đủ. Kết thúc phần Hạnh Tạng
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa    
Khuddakanikāye