✤✤✤✤✤
NHỮNG LỜI NÓI ĐÁNG ĐƯỢC GÌN GIỮ CỦA ĐỨC PHẬT
và các vị đệ tử của Ngài
KINH TỆ TÚC
![]() |
NGƯỜI CÓ TRÍ NHỜ VÍ DỤ HIỂU ĐƯỢC LỜI NÓINgài Kassapa: Này Tôn chủ, tôi sẽ cho Tôn chủ một ví dụ. Ở đời, một số người có trí nhờ ví dụ mà hiểu được nghĩa lời nói. |
![]() |
SỰ KIỆN GÌ CHỨNG MINH(Không có đời sau, không có loài hóa sanh, hành vi vi thiện ác không có quả báo) + Vua Pāyāsi: Tôi có những người bạn tri kỷ, thân tộc cùng một huyết thống. Những người này sát sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham dục, sân hận và tà kiến. Những người này, sau một thời gian bị trọng bệnh, bị đau khổ, bị chứng tật. Khi tôi biết những vị ấy không thể khỏi những bệnh ấy được, tôi liền đi đến họ và nói: Một số Sa môn, Bà-la-môn có những quan điểm như sau, có những tri kiến như sau: Những ai sát sanh,… , những người này sau khi thân hoại mạng chung bị sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nay các Hiền giả sát sanh,… Nếu lời nói những vị Sa môn Bà-la-môn ấy chính xác, thời các Hiền giả sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục… Nếu các Hiền giả sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục, thời quý vị hãy đến ta và cho ta biết: Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo. Các hiền giả là các thiện hữu thành tâm của ta, những gì Hiền giả thấy, thời sẽ là như vậy, như chính ta được thấy. Các vị này bằng lòng làm như vậy và nói: Lành thay! Nhưng không có ai đến nói cho tôi biết, cũng không cho gửi sứ giả đến. |
![]() |
VÍ DỤ NGƯỜI RƠI VÀO THÙNG PHÂN(Mùi hôi của loài Người khiến chư Thiên ghê tởm xa đến một trăm do tuần.) + Vua Pāyāsi: tôi có những thân bằng quyến thuộc gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và không tà kiến. Những người này, sau một thời gian bị trọng bệnh, bị đau khổ, bị chứng tật. Khi tôi biết những vị ấy không thể khỏi những bệnh ấy được, tôi liền đi đến họ và nói: Một số Sa môn, Bà-la-môn có những quan điểm, những tri kiến như sau: Những ai gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và không tà kiến, những người ấy khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào thiện thú, Thiên giới. Nếu các hiền giả , sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới, thời quý vị hãy đến ta và cho ta biết.. Các vị này bằng lòng và nói: Lành thay! Nhưng không có ai đến nói cho tôi biết, cũng không cho gửi các sứ giả đến. |
![]() |
KHÔNG TIN CÓ CHƯ THIÊN – VÍ DỤ NGƯỜI MÙ BẨM SINH+ Ngài Kasspa: Này Tôn chủ, tuổi loài người một trăm năm bằng một ngày một đêm chư Thiên ở Tam thập tam thiên. Ba mươi đêm như vậy là một tháng, mười hai tháng như vậy là một năm, một ngàn năm ở Thiên giới như vậy là tuổi thọ của chư Thiên ở Tam thập tam thiên. Những thân bằng quyến thuộc của Tôn chủ như vậy,.. Các vị này sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh lên thiện thú, Thiên giới và làm thiện hữu với chư Thiên ở Tam thập tam thiên. Nếu những vị này suy nghĩ: Chúng ta hãy thọ hưởng một món dục lạc hai hay ba ngày đêm ở Thiên giới, rồi sau sẽ đến Tôn chủ Pāyāsi và tin cho biết: Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo. Và những vị ấy có đến Ngài và tin cho biết: Có đời sau, có loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo không? |
![]() |
ĐỜI SAU KHÔNG THỂ THẤY BẰNG CON MẮT THỊTNgài Kassapa: Đời sau không như Ngài nghĩ có thể thấy bằng con mắt thịt. Có những Sa môn, Bà-la-môn, sống những chỗ hẻo lánh trong rừng, ít có tiếng ồn, ít có tiếng động. Tại những chỗ ấy, các vị này sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, làm cho thiên nhãn trong sạch. Rồi với thiên nhãn thanh tịnh thắng xa loài Người, các vị này thấy đời này, đời sau, và thấy các loại hóa sanh. Này Tôn chủ, đời sau phải được thấy như vậy. Không phải như Ngài nghĩ với con mắt thịt. |
![]() |
SA MÔN GIỮ GIỚI, THIỆN TÁNH SAO CÒN MUỐN SỐNG LÂU?+ Vua Pāyāsi: Nếu những Sa môn, Bà-la-môn giữ giới, có thiện tánh, được biết: Sau khi chúng ta chết rồi, đời chúng ta sẽ được tốt đẹp hơn. Rồi những Sa môn, Bà-la-môn giữ giới, có thiện tánh ấy, hoặc uống thuốc độc, hoặc lấy kiếm đâm, hoặc tự giết mình bằng cách treo cổ, hay tự lao mình xuống hố sâu. Vì những Sa môn, Bà-la-môn giữ giới có thiện tánh ấy không được biết: Sau khi chúng ta chết rồi, đời chúng ta sẽ được tốt đẹp hơn. Do vậy các Sa môn, Bà-la-môn giữ giới, có thiện tánh ấy ham sống, ngại chết, ham sướng, ngại khổ. |
![]() |
KHÔNG THẤY LINH HỒN ĐI VÀO HAY ĐI RA+ Vua Pāyāsi: có những người bắt được một người ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi và nói: Tôn chủ, đây là người ăn trộm phạm tội. Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn. Tôi nói: Các Hiền giả, hãy bỏ sống người này trong một cái chum, bịt miệng chum lại, dùng da ướt bao lại, dùng đất sét ướt quện lại trét trên miệng chum, nhắc chum ấy trên cái lò và nổi lửa đốt. Khi chúng tôi biết người ấy đã chết, liền nhắc chum ấy xuống, cởi các dây buộc, mở miệng chum ra vội vàng nhìn kỹ: Chúng ta mong được thấy linh hồn (người chết) đi ra. Nhưng chúng tôi không thấy linh hồn người chết đi ra.
|
![]() |
KHI CÒN SỐNG THÂN THỂ NHẸ HƠN NHỜ CÓ THỨC+ Vua Pāyāsi: có những người bắt được một người ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi: Thưa Tôn chủ, đây là người ăn trộm phạm tội. Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn. Tôi nói với họ: Các khanh hãy đem cân sống anh ta đi, rồi lấy dây cung thắt cổ cho anh ta chết, xong đem cân lại. Những người này vâng lời tôi và đáp: Xin vâng!, rồi họ đem cân sống người ăn trộm ấy, lấy dây cung thắt cổ anh ta cho đến chết xong cân lại. Khi anh ta sống thì anh ta nhẹ, mềm mại, nhu nhuyến. Khi anh ta chết, thì anh ta nặng hơn, cứng hơn và không nhu nhuyến.
|
![]() |
LINH HỒN KHÔNG Ở TRONG CÁC CĂN+ Vua Pāyāsi: có những người bắt được một người ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi:… rồi họ bèn giết người ấy bằng cách lột da ngoài, da trong, thịt, gân, xương, và xương tủy. Khi người áy chết một phần nửa, tôi bảo họ: Hãy lật ngược người này nằm ngữa, và xem linh hồn của anh ta có đi ra không? Họ lật ngược người này nằm ngửa,… nằm cong lại… nằm phía một bên… nằm phía bên kia… đặt người đó đứng thẳng… đặt người ấy đứng lộn đầu xuống… đánh người ấy với tay… đánh người ấy với cục đất… đánh người ấy với gậy… đánh người ấy với gươm… đánh anh ta phía bên này… đánh anh ta phía bên kia… đánh anh ta cùng khắp tất cả và xem linh hồn của anh ta có đi ra không? Họ đánh anh ta phía bên này, đánh anh ta phía bên kia, đánh anh ta cùng khắp tất cả và chúng tôi không thấy linh hồn người ấy đi ra. Anh ta có mắt và sắc pháp… Anh ta có tai và các tiếng … mũi và các hương … lưỡi và các vị … thân và các xúc có mặt, nhưng các căn không cảm thọ được. |
![]() |
LINH HỒN KHÔNG Ở TRONG CÁC BỘ PHẬN CƠ THỂ+ Vua Pāyāsi: có những người bắt được một tên ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi: … các khanh hãy lột da anh ta, để chúng ta có thể thấy linh hồn của anh ta. Chúng lột da của người ấy, nhưng chúng tôi không thấy linh hồn của anh ta. Rồi tôi bảo họ: Các khanh hãy lột da trong của người ấy… cắt thịt… cắt gân… cắt xương… đẽo cho đến xương tủy để chúng ta có thể thấy linh hồn của anh ta. Họ đẽo cho đến xương tủy của người ấy, nhưng chúng tôi không thấy linh hồn của anh ta. |
![]() |
TẾ ĐÀN KHÔNG ĐEM LẠI QUẢ BÁO LỚNNgài Kassapa: Tại tế đàn có trâu bò bị giết, hay các loại sinh vật khác bị giết, và những ai tham dự tế đàn ấy là những vị có tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, tế đàn ấy không đem lại quả báo lớn, lợi ích lớn, danh tiếng lớn, không được quảng bá rộng lớn. Cũng như người làm ruộng đi vào rừng đem theo hột giống và cày. Và trên một khoảng đất không cày bừa, không có màu mỡ, giữa những gốc cây chưa được đào lên, người ấy gieo những hột giống xuống, những hột giống ấy bị hư sứt, bị thúi mục, bị gió và sức nóng phá hại, trái mùa, không có điều kiện thuận tiện, và thần mưa không cho mưa đúng thời. Vậy các hột giống ấy có thể lớn lên, trưởng thành lên và sum sê hoa lá lên hoặc người làm ruộng ấy gặt hái được nhiều kết quả không? |
![]() |
TẾ ĐÀN ĐEM LẠI QUẢ BÁO LỚNNgài Kassapa: Tại tế đàn nào không có trâu bò bị giết, không có các loại dê bị giết, không có gà heo bị giết, không có các loại sanh vật khác bị giết, và những ai tham dự tế đàn ấy là những vị có Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Tế đàn ấy đem lại quả báo lớn, lợi ích lớn, danh tiếng lớn, được quảng bá rộng lớn. Cũng như một người làm ruộng đi vào rừng đem theo hột giống và cày. Và trên một khoảng đất có cày bừa, có màu mỡ, giữa những gốc cây đã được đào lên, người ấy gieo những hột giống xuống, những hột giống ấy không bị hư sứt, không bị thúi mục, không bị gió và sức nóng phá hại, thuận mùa, có điều kiện thuận lợi và thần mưa cho mưa đúng thời. Vậy các hột giống ấy có thể lớn lên, trưởng thành lên, sum sê hoa lá, hoặc người làm ruộng ấy gặt hái được nhiều kết quả không? |
![]() |
BỐ THÍ KHÔNG CÓ SUY TƯTôn chủ Pāyāsi tổ chức bố thí cho các vị Sa môn, Bà-la-môn, cho những người nghèo, những người vô gia cư, những người ăn mày. Trong cuộc bố thí này, các món ăn như thế này được đem cho như cháo, đồ ăn phế thải, vải thô với những viền bằng hình tròn. Trong cuộc bố thí này, có vị thanh niên tên Uttàra bị bỏ qua. Sau khi cuộc bố thí đã xong, vị này nói ngạo như sau: Với cuộc bố thí này, ta được gặp Tôn chủ Pāyāsi trong đời này, nhưng không gặp trong đời sau. Tôn chủ Pāyāsi nói: Này Thân hữu, có thật chăng, sau khi cuộc bố thí đã xong, Ngươi có nói ngạo.. – Thật có vậy! – Này Thân hữu Uttàra, tại sao,.. có phải chúng ta đi tìm công đức đều trông mong kết quả của cuộc bố thí? – Này Tôn chủ, trong cuộc bố thí của Ngài, các món ăn như thế này được đem cho như cháo, đồ ăn phế thải, các món ăn này được Ngài không muốn lấy bàn chân của Ngài đụng đến, huống nữa là ăn. vải thô với những nền bằng hình tròn, các thứ vải này Ngài không muốn lấy bàn chân của Ngài đụng đến, huống nữa là mặc. Tôn chủ, Ngài là người thân và kính mến của chúng tôi. Như thế nào, chúng tôi có thể phối hợp cái gì thân yêu và kính mến với cái gì không thân yêu? – Vậy này Thân hữu Uttàra, hãy phân phát các món ăn giống như các món tôi ăn, hãy phân phát các vải mặc, giống như các thứ vải mà tôi mặc. Thanh niên Uttàra vâng theo lời Tôn chủ Pāyāsi. |
![]() |
BỐ THÍ KHÔNG CÓ SUY TƯLúc bấy giờ tôn giả Gavampati (Ngưu Chủ) thường hay đi nghỉ trưa trong cung điện trống không của Serisaka. Nay Thiên tử Pāyāsi đi đón tôn giả Gavampati, đảnh lễ ngài, và đứng một bên. Tôn giả Gavampati nói với Thiên tử Pāyāsi đang đứng một bên: Bạch Tôn giả, con là tôn chủ Pāyāsi. – Này Hiền giả, có phải Ngươi có tà kiến như sau: Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo? – Bạch Tôn giả, con có tà kiến như vậy, nhưng nhờ tôn giả Kumāra Kassapa, con tự thoát ly ra khỏi ác tà kiến ấy. – Này Hiền giả, còn thanh niên Uttàra bị bỏ qua trong cuộc bố thí này, được thác sanh ở đâu? – Bạch Tôn giả, thanh niên Uttàra bị bỏ qua trong cuộc bố thì này, vì đã bố thí một cách hoàn bị, vì đã bố thí tự tay mình làm, vì đã bố thí có suy tư, vì đã bố thí các đồ không phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên. Còn con, vì đã bố thí không tự tay mình làm, vì đã bố thí không có suy tư, vì đã bố thí các đồ phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh nhập chúng với Bốn Đại Thiên vương, trong cung điện trống không của Serasaka. Do vậy, bạch Tôn giả Gavampati, hãy đi đến thế giới loài Người và nói như sau: Hãy bố thí một cách hoàn bị, hãy bố thí với tự tay mình làm, hãy bố thí một cách có suy tư, hãy bố thí với đồ không phế thải. Tôn chủ Pāyāsi, vì bố thí không hoàn bị, vì bố thí không tự tay mình làm, vì bố thí không có suy tư, vì bố thí các đồ phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh nhập chúng với Bốn Đại Thiên vương trong cung điện trống không của Serisaka. Còn thanh niên Uttàra, bị bỏ qua trong cuộc bố thí này, vĩ đã bố thí một cách hoàn bị, vì đã bố thí tự tay mình làm, vì bố thí một cách có suy tư, vì bố thí các đồ không phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên. |