border-collapse: collapse; width: 100%;
1. Candimasasuttaṃ | I. Candimasa | |
92. Sāvatthinidānaṃ . Atha kho candimaso [candimāso (ka.)] devaputto abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi . Ekamantaṃ ṭhito kho candimaso devaputto bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi – | Tại Sàvatthi. 1) Rồi Thiên tử Candimasa, sau khi đêm đã gần mãn,với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, Thiên tử Candimasa nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn: | |
‘‘Te hi sotthiṃ gamissanti, kacche vāmakase magā; | 2) Họ sẽ đi an toàn, Như thú, vùng không muỗi, | |
Jhānāni upasampajja, ekodi nipakā satā’’ti. | Sau khi chứng Thiền định, Nhứt tâm, niệm tỉnh giác, | |
‘‘Te hi pāraṃ gamissanti, chetvā jālaṃva ambujo; | Họ sẽ đi bờ kia, Như cá, phá rách lưới, | |
Jhānāni upasampajja, appamattā raṇañjahā’’ti. | Sau khi chứng Thiền định, Tự chế, vượt lỗi lầm. | |
2. Veṇḍusuttaṃ | II. Vendu (S.i,52) | |
93. Ekamantaṃ ṭhito kho veṇḍu [veṇhu (sī.)] devaputto bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi – | 1) Đứng một bên, Thiên tử Vendu nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn: | |
‘‘Sukhitāva te [sukhitā vata te (sī. syā. kaṃ.)] manujā, sugataṃ payirupāsiya; | 2) Hạnh phúc thay những người, Sau khi hầu Thiện Thệ, | |
Yuñjaṃ [yujja (sī.), yuñja (syā. kaṃ. pī.)] gotamasāsane, appamattā nu sikkhare’’ti. | Tuân phụng lời Ngài dạy, Tu học không phóng dật! | |
‘‘Ye me pavutte siṭṭhipade [satthipade (sī. syā. kaṃ. pī.)] (veṇḍūti bhagavā), | 3) Thế Tôn nói: Vendu! Những ai Thiền tu học. | |
Anusikkhanti jhāyino; | Trong pháp cú Ta dạy, Tinh cần, không phóng dật, | |
Kāle te appamajjantā, | Đúng thời họ sẽ đi, Thoát khỏi tay tử thần. | |
Na maccuvasagā siyu’’nti. | ||
3. Dīghalaṭṭhisuttaṃ | III. Diighalatthi (S.i,52) | |
94. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe. Atha kho dīghalaṭṭhi devaputto abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ veḷuvanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho dīghalaṭṭhi devaputto bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi – | 1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương Xá), Trúc Lâm, tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc. 2) Rồi Thiên tử Diighalatthi, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, Thiên tử Diighalatthi nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn: | |
‘‘Bhikkhu siyā jhāyī vimuttacitto, | Với tâm tư giải thoát, Vị Tỷ-kheo tu Thiền, | |
Ākaṅkhe ce hadayassānupattiṃ; | Và với lòng ước vọng, Đạt được tâm sở nguyện, | |
Lokassa ñatvā udayabbayañca, | Sau khi biết cuộc đời, Sanh khởi rồi đoạn diệt, | |
Sucetaso anissito tadānisaṃso’’ti. | Tâm thuần không chấp trước, Hưởng lợi quả như chơn. | |
4. Nandanasuttaṃ | IV. Nandana (S.i,52) | |
95. Ekamantaṃ ṭhito kho nandano devaputto bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – | 1) Đứng một bên, Thiên tử Nandana nói bài kệ với Thế Tôn: | |
‘‘Pucchāmi taṃ gotama bhūripañña, | Con hỏi Gotama, Bậc Đại Giác toàn trí, | |
Anāvaṭaṃ bhagavato ñāṇadassanaṃ; | Con hỏi đấng Thế Tôn, Với tri kiến vạn năng. | |
Kathaṃvidhaṃ sīlavantaṃ vadanti, | Người nào gọi trì giới? Người nào gọi trí tuệ? | |
Kathaṃvidhaṃ paññavantaṃ vadanti; | Người nào vượt sầu khổ? Người nào chư Thiên lạy? | |
2) (Thế Tôn): | ||
Kathaṃvidho dukkhamaticca iriyati, | Ai hộ trì giới luật, Trí tuệ, tâm tu trì, | |
Kathaṃvidhaṃ devatā pūjayantī’’ti. | Chú tâm, vui Thiền định, Tâm tư trú chánh niệm, | |
‘‘Yo sīlavā paññavā bhāvitatto, | Tất cả mọi sầu khổ, Được trừ diệt, đoạn tận, | |
Samāhito jhānarato satīmā; | Các lậu hoặc tận trừ, Sống với thân tối hậu, | |
Sabbassa sokā vigatā pahīnā, | Vị ấy gọi trì giới, Vị ấy gọi trí tuệ, | |
Khīṇāsavo antimadehadhārī. | Vị ấy vượt sầu khổ, Vị ấy chư Thiên lạy. | |
‘‘Tathāvidhaṃ sīlavantaṃ vadanti, | ||
Tathāvidhaṃ paññavantaṃ vadanti; | ||
Tathāvidho dukkhamaticca iriyati, | ||
Tathāvidhaṃ devatā pūjayantī’’ti. | ||
5. Candanasuttaṃ | V. Candana: Chiên Đàn (S.i,53) | |
96. Ekamantaṃ ṭhito kho candano devaputto bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – | 1) Đứng một bên, Thiên tử Candana nói lên bài kệ với Thế Tôn: | |
‘‘Kathaṃsu [kosudha (sī.)] tarati oghaṃ, rattindivamatandito; | Làm sao vượt bộc lưu, Ngày đêm vững, kiên trì, | |
Appatiṭṭhe anālambe, ko gambhīre na sīdatī’’ti. | Không trú, không bám víu, Ai không chìm vực sâu? | |
2) (Thế Tôn): | ||
‘‘Sabbadā sīlasampanno, paññavā susamāhito; | Vị luôn luôn trì giới, Trí tuệ, khéo định tĩnh, | |
Āraddhavīriyo pahitatto, oghaṃ tarati duttaraṃ. | Chí siêng năng dõng mãnh, Vượt bộc lưu khó vượt. | |
‘‘Virato kāmasaññāya, rūpasaṃyojanātigo; | Vị đoạn, ly dục tưởng, Vượt khỏi sắc triền phược, | |
Nandīrāgaparikkhīṇo, so gambhīre na sīdatī’’ti. | Đoạn tận hỷ, hữu ái, Không chìm xuống vực sâu. | |
6. Vāsudattasuttaṃ | VI. Sudatta (Tu-đạt-đa) | |
97. Ekamantaṃ ṭhito kho vāsudatto devaputto bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi – | 1) Đứng một bên, Thiên tử Sudatta nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn: | |
‘‘Sattiyā viya omaṭṭho, ḍayhamānova [ḍayhamāneva (sabbattha)] matthake; | Như kiếm đã chạm da, Như lửa cháy trên đầu, | |
Kāmarāgappahānāya, sato bhikkhu paribbaje’’ti. | Tỷ-kheo hãy chánh niệm, Xuất gia, bỏ ái dục. | |
2) (Thế Tôn): | ||
‘‘Sattiyā viya omaṭṭho, ḍayhamānova matthake; | Như kiếm đã chạm da, Như lửa cháy trên đầu, | |
Sakkāyadiṭṭhippahānāya, sato bhikkhu paribbaje’’ti. | Tỷ-kheo hãy chánh niệm, Xuất gia, bỏ thân kiến. | |
7. Subrahmasuttaṃ | VII. Subrahmà (S.i,53) | |
98. Ekamantaṃ ṭhito kho subrahmā devaputto bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi – | 1) Đứng một bên, Thiên tử Subrahmà nói lên bài kệ với Thế Tôn: | |
‘‘Niccaṃ utrastamidaṃ cittaṃ, niccaṃ ubbiggamidaṃ [ubbiggidaṃ (mahāsatipaṭṭhānasuttavaṇṇanāyaṃ)] mano; | Tâm này thường sợ hãi, Ý này thường dao động, | |
Anuppannesu kicchesu [kiccesu (bahūsu)], atho uppatitesu ca; | Điều mong ước không khởi, Điều không mong lại khởi, | |
Sace atthi anutrastaṃ, taṃ me akkhāhi pucchito’’ti. | Nếu có, không sợ hãi, Hãy nói điều con hỏi. | |
2) (Thế Tôn): | ||
‘‘Nāññatra bojjhā tapasā [bojjhaṅgatapasā (sī. syā. kaṃ. pī.)], nāññatrindriyasaṃvarā; | Không ngoài hạnh giác chi, Không ngoài hộ trì căn, | |
Nāññatra sabbanissaggā, sotthiṃ passāmi pāṇina’’nti. | Không ngoài bỏ tất cả, Ta thấy các pháp ấy, | |
‘‘Idamavoca…pe… tatthevantaradhāyī’’ti. | Đưa đến sự an toàn, Cho tất cả chúng sanh. | |
3) Rồi Thiên tử biến mất tại chỗ ấy. | ||
8. Kakudhasuttaṃ | VIII. Kakudha (S.i,54) | |
99. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sākete viharati añjanavane migadāye. Atha kho kakudho devaputto abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ añjanavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho kakudho devaputto bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘nandasi, samaṇā’’ti? ‘‘Kiṃ laddhā, āvuso’’ti? ‘‘Tena hi, samaṇa, socasī’’ti? ‘‘Kiṃ jīyittha, āvuso’’ti? ‘‘Tena hi, samaṇa, neva nandasi na ca [neva (sī. syā. kaṃ.)] socasī’’ti? ‘‘Evamāvuso’’ti. | 1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Sàketa, rừng Anjana, tại vườn Nai. Rồi Thiên tử Kokudha, sau khi đêm đã gần mãn, với nhan sắc thù thắng chói sáng toàn khu rừng Anjana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. 2) Đứng một bên, Thiên tử Kakudha bạch Thế Tôn: — Thưa Sa-môn, Ngài có hoan hỷ không? — Ta được cái gì, này Hiền giả, mà Ta hoan hỷ? — Nếu vậy, thưa Sa-môn, có phải Ngài sầu muộn? — Ta mòn mỏi cái gì, này Hiền giả, mà Ta sầu muộn? — Vậy thời thưa Sa-môn, Ngài không hoan hỷ và không sầu muộn? — Thật như vậy, này Hiền giả. | |
‘‘Kacci tvaṃ anagho [anigho (sabbattha)] bhikkhu, kacci nandī [nandi (sī. syā. kaṃ.)] na vijjati; | 3) Làm sao, này Tỷ-kheo, Ngài không có sầu muộn, | |
Kacci taṃ ekamāsīnaṃ, aratī nābhikīratī’’ti. | Tuy vậy, Ngài cũng không Có được sự hoan hỷ? | |
‘‘Anagho ve ahaṃ yakkha, atho nandī na vijjati; | Làm sao nay Ngài lại, Ngồi cô độc một mình, | |
Atho maṃ ekamāsīnaṃ, aratī nābhikīratī’’ti. | Không có được hoan hỷ, Cũng không bị dao động? | |
‘‘Kathaṃ tvaṃ anagho bhikkhu, kathaṃ nandī na vijjati; | 4) Thật sự, này Dạ-xoa, Ta không có sầu muộn, | |
Kathaṃ taṃ ekamāsīnaṃ, aratī nābhikīratī’’ti. | Tuy vậy ở nơi Ta, Hoan hỷ không khởi lên, | |
‘‘Aghajātassa ve nandī, nandījātassa ve aghaṃ; | Dầu nay Ta có ngồi, Riêng một mình cô độc, | |
Anandī anagho bhikkhu, evaṃ jānāhi āvuso’’ti. | Ta không có hoan hỷ, Cũng không bị dao động. | |
‘‘Cirassaṃ vata passāmi, brāhmaṇaṃ parinibbutaṃ; | 5) Làm sao, này Tỷ-kheo, Ngài không có sầu muộn, | |
Anandiṃ anaghaṃ bhikkhuṃ, tiṇṇaṃ loke visattika’’nti. | Làm sao ở nơi Ngài, Hoan hỷ không khởi lên? | |
Làm sao nay Ngài lại, Ngồi cô độc một mình, | ||
Không có được hoan hỷ, Cũng không bị dao động? | ||
6) Hoan hỷ chỉ có đến, Với người tâm sầu muộn, | ||
Sầu muộn chỉ có đến, Với người tâm hoan hỷ. | ||
Do vậy, vị Tỷ-kheo, Không hoan hỷ, sầu muộn. | ||
Vậy nên, này Hiền giả, Ông phải biết như vậy. | ||
7) Đã lâu, con mới thấy, Bà-la-môn tịch tịnh, | ||
Vị Tỷ-kheo không sầu, Cũng không có hoan hỷ, | ||
Đã an toàn vượt khỏi, Chỗ người đời đắm say. | ||
9. Uttarasuttaṃ | IX. Uttara (S.i,54) | |
100. Rājagahanidānaṃ . Ekamantaṃ ṭhito kho uttaro devaputto bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi – | 1) Nhân duyên tại thành Vương Xá. Đứng một bên, Thiên tử Uttara nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn: | |
‘‘Upanīyati jīvitamappamāyu, | 2) Mạng sống bị dắt dẫn, Tuổi thọ chẳng là bao, | |
Jarūpanītassa na santi tāṇā; | Bị dẫn đến già nua, Không có nơi dừng bước. | |
Etaṃ bhayaṃ maraṇe pekkhamāno, | Ai đem tâm quán tưởng, Sợ hãi tử vong này, | |
Puññāni kayirātha sukhāvahānī’’ti. | Hãy làm các công đức, Đưa đến chơn an lạc. | |
‘‘Upanīyati jīvitamappamāyu, | 3) Mạng sống bị dắt dẫn, Tuổi thọ chẳng là bao, | |
Jarūpanītassa na santi tāṇā; | Bị dẫn đến già nua, Không có nơi dừng bước. | |
Etaṃ bhayaṃ maraṇe pekkhamāno, | Ai đem tâm quán tưởng, Sợ hãi tử vong này, | |
Lokāmisaṃ pajahe santipekkho’’ti. | Hãy bỏ mọi thế lợi, Tâm hướng cầu tịch tịnh. | |
10. Anāthapiṇḍikasuttaṃ | X. Anàthapindika: Cấp Cô Độc (S.i,55) | |
101. Ekamantaṃ ṭhito kho anāthapiṇḍiko devaputto bhagavato santike imā gāthāyo abhāsi – | 1) Đứng một bên, Thiên tử Cấp Cô Độc nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn: | |
‘‘Idañhi taṃ jetavanaṃ, isisaṅghanisevitaṃ; | Đây là rừng Kỳ Viên, Chỗ trú xứ Thánh chúng, | |
Āvutthaṃ dhammarājena, pītisañjananaṃ mama. | Chỗ ở đấng Pháp Vương, Khiến tâm con hoan hỷ. | |
‘‘Kammaṃ vijjā ca dhammo ca, sīlaṃ jīvitamuttamaṃ; | Nghiệp, minh và tâm pháp, Giới và tối thắng mạng, | |
Etena maccā sujjhanti, na gottena dhanena vā. | Chính những diệu pháp ấy, Khiến chúng sanh thanh tịnh, | |
‘‘Tasmā hi paṇḍito poso, sampassaṃ atthamattano; | Không phải vì dòng họ, Không phải vì tài sản. | |
Yoniso vicine dhammaṃ, evaṃ tattha visujjhati. | Do vậy bậc Hiền giả, Thấy lợi ích chính mình, | |
‘‘Sāriputtova paññāya, sīlena upasamena ca; | Chánh giác sát tâm pháp, Như vậy được thanh tịnh. | |
Yopi pāraṅgato bhikkhu, etāvaparamo siyā’’ti. | Như ngài Xá-lợi-phất, Tuệ, giới và tịch tịnh, | |
Tỷ-kheo đến bờ giác, Ở đây là tối thượng. | ||
Idamavoca anāthapiṇḍiko devaputto. Idaṃ vatvā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyīti. | 2) Thiên tử Anàthapindika nói như vậy, nói vậy xong, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, rồi biến mất tại chỗ ấy. | |
Atha kho bhagavā tassā rattiyā accayena bhikkhū āmantesi – ‘‘imaṃ, bhikkhave, rattiṃ aññataro devaputto abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho, bhikkhave, so devaputto mama santike imā gāthāyo abhāsi – | 3) Rồi Thế Tôn sau khi đêm ấy đã qua, liền gọi các Tỷ-kheo và nói: 4) — Này các Tỷ-kheo, đêm nay có Thiên tử, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Ta, sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Đứng một bên, này các Tỷ-kheo, vị Thiên tử ấy nói lên bài lệ này trước mặt Ta: | |
‘‘Idañhi taṃ jetavanaṃ, isisaṅghanisevitaṃ; | 5) “Đây là rừng Kỳ Viên, Chỗ trú xứ Thánh chúng, | |
Āvutthaṃ dhammarājena, pītisañjananaṃ mama. | Chỗ ở đấng Pháp Vương, Khiến tâm con hoan hỷ. | |
‘‘Kammaṃ vijjā ca dhammo ca, sīlaṃ jīvitamuttamaṃ; | Nghiệp, minh và tâm pháp, Giới và tối thắng mạng, | |
Etena maccā sujjhanti, na gottena dhanena vā. | Chính những diệu pháp ấy, Khiến chúng sanh thanh tịnh, | |
‘‘Tasmā hi paṇḍito poso, sampassaṃ atthamattano; | Không phải vì dòng họ, Không phải vì tài sản. | |
Yoniso vicine dhammaṃ, evaṃ tattha visujjhati. | Do vậy bậc Hiền giả, Thấy lợi ích chính mình, | |
‘‘Sāriputtova paññāya, sīlena upasamena ca; | Chánh giác sát tâm pháp, Như vậy được thanh tịnh. | |
Yopi pāraṅgato bhikkhu, etāvaparamo siyā’’ti. | Như ngài Xá-lợi-phất, Tuệ, giới và tịch tịnh, | |
Tỷ-kheo đến bờ giác, Ở đây là tối thượng.” | ||
‘‘Idamavoca, bhikkhave, so devaputto. Idaṃ vatvā maṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyī’’ti. | 6) Này các Tỷ-kheo, Thiên tử ấy nói như vậy, nói vậy xong, đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ. | |
Evaṃ vutte, āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘so hi nūna, bhante, anāthapiṇḍiko devaputto bhavissati. Anāthapiṇḍiko gahapati āyasmante sāriputte abhippasanno ahosī’’ti. ‘‘Sādhu sādhu, ānanda, yāvatakaṃ kho, ānanda, takkāya pattabbaṃ anuppattaṃ taṃ tayā. Anāthapiṇḍiko hi so, ānanda, devaputto’’ti. | 7) Được nghe nói như vậy, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn: — Bạch Thế Tôn, có phải vị Thiên tử ấy là Anàthapindika? Gia chủ Anàthapindika hết dạ tín thành đối với Tôn giả Sàriputta? 8) — Lành thay! Lành thay! Này Ananda, cho đến những gì có thể đạt được nhờ suy diễn, này Ananda, Ông đã đạt được. Này Ananda, Anàthapindika là vị Thiên tử ấy. | |
Anāthapiṇḍikavaggo dutiyo. | ||
Tassuddānaṃ – | ||
Candimaso [candimāso (pī. ka.)] ca veṇḍu [veṇhu (sī. ka.)] ca, dīghalaṭṭhi ca nandano; | ||
Candano vāsudatto ca, subrahmā kakudhena ca; | ||
Uttaro navamo vutto, dasamo anāthapiṇḍikoti. |